Giáo trình Chăn nuôi gia cầm

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Ý NGHĨA CỦA NGÀNH CHĂN NUÔI GIA CẦM
Gần một thế kỷ qua ngành chăn nuôi gia cầm được cả thế giới quan tâm và
phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Chăn nuôi gia cầm chiếm một vị
trí quan trọng trong chương trình cung cấp protein động vật cho con người. Gia
cầm chiếm 20-25% trong tổng sản phẩm thịt, ở các nước phát triển thịt gà chiếm
tới 30% hoặc hơn nữa. Theo dự án của FAO, đến năm 2000 toàn thế giới sẽ sản
xuất khoảng 60 triệu tấn thịt gia cầm (qua chế biến) trong đó có trên 50 triệu tấn
thịt gà, gấp 2 lần so với năm 1978. Mức tiêu thụ thịt và trứng gia cầm tăng khá
nhanh, cũng theo FAO bình quân toàn cầu năm 1985 tiêu thụ 0,05kg
trứng/người, chỉ tiêu này so với năm 1994 là 7,06kg/người. Còn về thịt gia cầm:
năm 1985 là 6,34kg/người, năm 1994 đã tăng lên tới 8,87kg/người.
Chăn nuôi gia cầm phát triển mạnh trên cả 2 xu hướng:
- Thâm canh và công nghiệp hoá với các giống cao sản để tạo ra sản lượng
thịt, trứng nhiều nhất, hiệu quả cao trong thời gian ngắn nhất.
- Đẩy mạnh các hình thức chăn nuôi trang trại, bán công nghiệp, thả vườn
với các giống phù hợp với điều kiện khí hậu, cơ sở vật chất, phong tục tập quán
từng vùng, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, duy trì được hương vị truyền thống
và đáp ứng thị hiếu tiêu dùng.
Nhờ đó mà ngành gia cầm đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng về trứng
và thịt cho đời sống con người. Hiệu quả của việc chăn nuôi gia cầm nhanh hơn
và cao hơn so với ngành chăn nuôi khác. Ý nghĩa hơn cả là trứng và thịt gia cầm
có giá trị dinh dưỡng cao, tương đối đầy đủ và cân bằng chất dinh dưỡng. Trứng
gia cầm có tới 12,5% protein, thịt gia cầm có 22,5% protein trong khi đó ở thịt
bò là 20%, thịt lợn là 18% và thịt cừu là 14,5% protein; thịt, trứng gia cầm có
nhiều axit amin, vitamin và khoáng vi lượng. Sản phẩm gia cầm dễ chế biến, dễ
ăn, ngon miệng, phù hợp với mọi lứa tuổi và tỷ lệ đồng hoá cao.
Ngành gia cầm sớm áp dụng các thành tựu về công nghiệp hoá và tự động
hoá, lại sớm được thử nghiệm và thành công nhất về tiến bộ di truyền trong công
tác chọn giống và lai tạo, sử dụng có hiệu quả ưu thế lai.
Sự phát triển của ngành gia cầm cũng kéo theo sự phát triển của nhiều
ngành nghề khác như: Công nghệ thức ăn chăn nuôi, công nghệ hoá học, công
nghệ sinh học trong nuôi dưỡng, nhân giống và ấp trứng nhân tạo, công nghệ
3
sản xuất thiết bị chuyên ngành, công nghệ giết mổ và chế biến các sản phẩm gia
cầm... Các sản phẩm phụ của chăn nuôi gia cầm như lông, phân gà và chất độn
chuồng, phụ phẩm ở trạm ấp và lò mổ gia cầm... cũng được tận dụng với hiệu
quả cao.
Trên thực tế chăn nuôi gia cầm đã trở thành một nghề không thể thiếu
trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp của mọi quốc gia. 
pdf 229 trang thiennv 11/11/2022 8400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Chăn nuôi gia cầm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_chan_nuoi_gia_cam.pdf

Nội dung text: Giáo trình Chăn nuôi gia cầm

  1. Có thể nói khi các bộ giống gà thuần chủng và ông bà cao sản được tiếp tục nhập vào nước ta những năm gần đây như: Hybro HV85 (1985), Goldline 54 (1990), BE (1993), thì hệ thống giống gà công nghiệp ở nước ta đã vươn lên ngang tầm vóc các nước trong khu vực Thời kỳ 1991 - 1996 là giai đoạn phát triển nhanh nhất có hiệu quả nhất của chăn nuôi gà công nghiệp. Ở thời kỳ này, rất nhiều giống gà bố mẹ cao sản mà thế giới cô đã được nhập vào nuôi ở nước ta như gà thịt: Hubbard, Arbor Acres (AA), Avian, ở miền Nam, gà AA, ISA, Lohmann, Ross ở miền Bắc, các gà chuyên trứng màu như: ISA Brown, Hyline, Brown Nick, Dekalb, Tetra, Lohmann Brown. Các giống gà chuyên trứng chuyên thịt cao sản này đã tạo bước nhảy vọt về chỉ tiêu năng suất trong chăn nuôi gà công nghiệp. Khi tiếp nhận giống mới, chúng ta được tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ mới, các tiến bộ kỹ thuật mới về chọn giống, nuôi dưỡng, phòng bệnh, về dinh dưỡng, ấp nhân tạo và cả về tổ chức sản xuất, quản lý và tiêu thụ sản phẩm. Đến nay chúng ta đã có các giống gà chuyên thịt công nghiệp và chỉ với 45-49 ngày nuôi đã đạt khối lượng sống trên 2kg/con, tiêu tốn 1,9-2,2kg thức ăn/kg tăng trọng, nhiều thịt và thịt ngon. Các giống gà đẻ trứng trắng trứng màu một năm cho 280-320 quả trứng, tiêu tốn 1 5-1,7kg thức ăn/10 quả trứng. Việc không ngừng nghiên cứu, lựa chọn các tổ hợp lai tối ưu giữa các giống trong điều kiện nước ta, đặc biệt là việc nghiên cứu để xác định tiêu chuẩn dinh dưỡng và phương pháp cho ăn đối với các giống gà nhập nội đã đạt được những tiến bộ kỹ thuật có giá trị khoa học và thực tiễn cao. Muốn cho gà mái bố mẹ giống thịt đạt sản lượng trứng cao, sản xuất nhiều gà con/mái với chất lượng tốt, phải cho gà ăn hạn chế giai đoạn hậu bị (3-20 tuần tuổi), với lượng thức ăn cả kỳ là: 8,2-8,4kg cho gà mái và 10,8-11,0kg cho gà trống, trên nền thức ăn tổng hợp có 2900-3000 Kcal ME/kg TĂ và 20-21% protein cho gà 1-6 tuần tuổi và 2700 Kcal ME/kg TĂ, 16% protein cho gà 7-20 tuần tuổi. Khối lượng lúc 20 tuần tuổi: gà mái l,9-2,l kg, gà trống 2,6-2,8kg là thích hợp nhất. Giai đoạn gà đẻ (23-66 tuần tuổi): sử dụng thức ăn hỗn hợp cho gà mái có 2700 Kcal ME/kg TĂ và 16-17% protein. Việc cho ăn tách trống mái giai đoạn gà đẻ, sử dụng khẩu phần thức ăn hỗn hợp cho gà trống là 125gr/ngày và thức ăn chua 12% protein, 2800 Kcal ME/kg TĂ đã làm giảm chi phí thức ăn, tăng chất lượng tinh dịch, tăng tỷ lệ trứng có phôi và tỷ lệ ấp nở, tăng sức khoẻ của gà trống. Gà broiler khi chưa cân bằng các axit quan, thì sử dụng thức ăn hỗn hợp có 23 - 14% protein, 3100-3200 Kcal ME/kg TĂ giai đoạn 1-4 tuần tuổi và 21% protein, 3200-3300 KCal ME/kg TĂ giai đoạn 5 tuần tuổi trở đi là phù hợp nhất. Gà đạt khả năng tăng trọng cao, tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng thấp và hiệu quả 12
  2. sử dụng protein cao. Sau 3-4 tuần tuổi, gà broiler nuôi tách trống mái thì hiệu quả chăn nuôi sẽ cao hơn so với nuôi hỗn hợp. Gà broiler nuôi vào mùa hè, nên tăng chất lượng thức ăn (chủ yếu protein và ME) 3-5% để gà phát triển tốt và cho hiệu quả cao dù trời nắng gà ăn ít. Các nghiên cứu để hạn chế hàm lượng Aflatoxin và độc tố trong thức ăn và hạn chế lượng kháng sinh tồn dư trong gà công nghiệp đang là vấn đề thời sự nhằm đảm bảo ngành chăn nuôi gia cầm phát triển vững chắc, tạo sản phẩm nhiều, rẻ, ngon, an toàn cho sức khoẻ con người. Hiện nay 75-80% chăn nuôi gà ở nước ta là sử dụng các giống địa phương. Chăn nuôi gà chăn thả với các giống truyền thống địa phương cũng không ngừng phát triển và hiệu quả ngày càng tăng bởi các giống địa phương đã được đầu tư để bảo tồn quỹ gen nhằm chọn lọc để nâng cao năng suất. Việc kết hợp sử dụng thức ăn công nghiệp hoặc tự chế biến đảm bảo các nhu cầu dinh dưỡng và các biện pháp vệ sinh thú y, sử dụng Vaccin phòng bệnh đối với các đàn gà ta đã nâng cao đáng kể hiệu quả trong chăn nuôi nông hộ. Nhiều giống gà thả vườn, lông màu, dễ nuôi, khả năng cho thịt cao, khả năng sinh sản tốt thịt thơm ngon đã được nhập vào nước ta và được người chăn nuôi ưa chuộng như gà Tam Hoàng 882 nhập năm 1993 từ Quảng Đông (Trung Quốc), gà Jiăng Cun vàng nhập năm 1995 từ Hồng Kông. Gà Tam Hoàng (lông vàng, da vàng, chân vàng) rất được ưa chuộng ở nước ta. Gà bố mẹ đạt năng suất trứng 130-150 quả, sản xuất 95-106 gà con/mái, gà thịt nuôi 10-11 tuần tuổi đạt khối lượng cơ thể l,3- 1,6kg, tiêu tốn 3,2- 3,5kg thức ăn/kg tăng trọng, thịt thơm ngon. Ngoài ra cổ gà Lương Phượng hoa, nhập năm 1995 từ Quảng Tây (Trung Quốc), một mái sản xuất 120-130 gà con, gà thịt nuôi 10 tuần tuổi đạt khối lượng 1,5-1,6kg, tiêu tốn 2,4-2,6kg thức ăn/kg tăng trọng. Gà lông màu chịu nhiệt và ẩm độ cao, thích ứng nhanh với Stress của môi trường, có thể nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, thả vườn như Sassa nhập năm 1996 từ Pháp, Kabir nhập năm 1997 từ Israel, có các chỉ tiêu năng suất cao hơn: một mái sản xuất 140-150 gà con, gà thịt nuôi 9 tuần tuổi đạt khối lượng trên 2kg, tiêu tốn 2,2-2,4kg thức ăn/kg tăng trọng. Đáng lưu ý là các tổ hợp lai giữa các giống gà ta với các giống nhập ngoại để tạo gà lông màu thả vườn, vẫn giữ được các đặc tính quý của gà ta như dễ nuôi, khả năng tự kiếm ăn, thịt thơm ngon, mà lại tăng đáng kể khả năng đẻ trứng và khả năng cho thịt, giảm chi phí thức ăn, tăng hiệu quả kinh tế. Đó là các tổ hợp lai giữa gà Tam Hoàng với gà Ri; giữa gà Hồ, gà mía, gà Tàu vàng với gà Tam Hoàng; giữa gà Kabir với gà Ri. Các gà lai Rhode x Ri hay BT1 một năm đẻ 180-200 trứng, tiêu tốn 1,8- 1,9kg thức ăn/l0 trứng lâu nay vẫn được ưa 13
  3. chuộng để vừa nuôi lấy trứng vừa để nuôi lấy thịt. Các tổ hợp lai kinh tế đã làm đa dạng hoá tập đoàn giống gà thả vườn cho chương trình phát triển kinh tế nông hộ gia đình. Theo số liệu thống kê 1997, đàn gà ở nước ta phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở phía Bắc (66%) trong đó chủ yếu ở vùng núi và Trung du phía Bắc (27,5%) và vùng đồng bằng sông Hồng (24,7%). Đàn gà phía Nam không nhiều (34%) và chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (15,6%). Cùng với sự phát triển nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng và hiệu quả của chăn nuôi gà, chăn nuôi vịt và thủy cầm khác cũng đã được quan tâm và có bước phát triển đáng kể. Nhiều giống vịt năng suất cao đã được nhập vào nước ta như vịt Bắc Kinh (1970), vịt Anh đào Hung (1975, 1983), vịt Anh đào Tiệp (1980), vịt Szarwas (1990). Đặc biệt là nhập vịt siêu thịt CV. Super M (1989, 1990) nuôi 56 ngày, đạt khối lượng sống 2,6- 2,8kg, tiêu tốn 2,8-3,0kg thức ăn/kg tăng trọng. Vịt siêu trứng Khaki Campbell (1990) một năm đẻ 260-280 trứng, tiêu tốn l,8-2,4kg thức ăn cho 10 quả trứng và gần đây Viện Chăn nuôi đã nhập thêm vịt siêu trứng lông trắng CV. 2000. Hiện nay Việt Nam đứng thứ tư trên thế giới chăn nuôi vịt (sau Trung Quốc, Pháp và Thái Lan). Cơ cấu đàn vịt chủ yếu là giống địa phương. Các giống và vịt lai đang có xu hướng tăng dần. Vịt lai giữa C.V Super M với vịt mái Anh đào Tiệp, Anh đào Hung, con lai nuôi 56 ngày tuổi đạt 2,4-2,5kg, tiêu tốn 3,0-3,2kg thức ăn/kg tăng trọng. Trên 44% đàn vịt tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long. Miền Bắc do tập quán tiêu thụ không thường xuyên nên hạn chế việc phát triển chăn nuôi vịt. Tương lai không xa khi mở rộng được thị trường xuất khẩu các sản phẩm từ con vịt thì chăn nuôi vịt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, ven biển miền Trung sẽ phát triển rất mạnh. Hiệp hội chăn nuôi vịt ở phía Nam đang hoạt động rất hiệu quả, là một điển hình của mô hình kinh tế Hiệp hội, liên kết kinh tế giữa trung ương và địa phương, giữa nhà nước và tư nhân, khép kín từ khâu giống đến thương phẩm, giữa chăn nuôi và cung ứng, dịch vụ, đảm bảo hài hoà lợi ích của các thành viên. Chăn nuôi ngỗng không phát triển ở quy mô nhỏ ở một số địa phương, giống ngỗng Rheiland được nhập vào nước ta năm 1972 từ Hungari. Chăn nuôi ngan đang có xu hướng phát triển nhanh do thịt ngon, thị hiếu sử dụng tăng. Viện chăn nuôi đã nhập 2 dòng ngan Pháp R31 và R51 vào năm 1992 và năm 1996 với các chỉ tiêu sinh sản và khả năng cho thịt cao hơn rất nhiều so với ngan nội. Ngan Pháp khi lai với ngan nội đã cải thiện rõ rệt khả năng sinh 14
  4. sản và khả năng cho thịt, giảm chi phí thức ăn. Công thức lai giữa ngan Pháp R31 và vịt CV. Super M để tạo con Mulard với khả năng tăng trọng, khả năng cho thịt, hiệu quả sử dụng thức ăn đều cao hơn bố và mẹ. Chăn nuôi bồ câu, chim cút đang phát triển do nhu cầu tiêu dùng tăng và hiệu suất sử dụng chuồng trại cao. Đàn bồ câu Pháp mới được nhập vào nước ta từ 1996 có năng suất cao hơn hẳn bồ câu nội. Gần đây, Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương (Viện Chăn nuôi) đã thành công bước đầu trong việc nuôi thử nghiệm đà điểu châu Phi. Nhà nước đang đầu tư để sớm có trại giống đà điểu, đáp ứng nhu cầu phát triển loại gia cầm có hiệu quả cao nhất, chất lượng thịt tốt nhất, cao cấp nhất cho thế kỷ tới. Nhìn tổng quan: Chăn nuôi gia cầm nước ta đang phát triển khá nhanh và vững chắc cả về quy mô, sản lượng, chất lượng và hiệu quả. Năm 1997 cả nước có trên 160 triệu con gia cầm, trong đó gà chiếm 75% (120,6 triệu con), vịt xấp xỉ 22%, còn lại là các loại gia cầm khác. Giai đoạn 1990-1997, tổng đàn gia cầm đạt tốc độ tăng trưởng bình quân: 5,98%/năm, trong đó gà: đạt bình quân 6,05%/năm, vịt đạt: 8,01%/năm. Hiện nay Việt Nam đứng thứ 47 trên thế giới và thứ 5 ở khu vực ASEAN về sản xuất thịt và trứng gia cầm. Năm 1997, nước ta sản xuất 226,11 ngàn tấn thịt gia cầm (chiếm 15% tổng sản phẩm thịt) tăng 26,4% so với năm 1990 và sản lượng thịt gia cầm đã đạt mức tăng trưởng bình quân: 3,84%/năm. Sản lượng trứng gia cầm là 3,169 tỷ quả, tăng 1,3 tỷ quả so với năm 1990 và đạt mức tăng trưởng bình quân năm là 2,54%. Mức tiêu thụ trứng là 41 quả/người tăng 12,7% quả so với năm 1990 và đạt mức tăng trưởng bình quân 5,44%/năm. Sản phẩm gia cầm ở nước ta vẫn là cho tiêu dùng trong nước. Sắp tới khi chúng ta mở được thị trường tiêu thụ và ký các hiệp định thú y, thì thịt vịt và các sản phẩm từ con vịt và thịt gà "ta" đông lạnh chắc chắn sẽ được xuất khẩu tới các thị trường có hiệu quả cao như: Nhật Bản, Hồng Kông, Singapo, Đài Loan, Hàn Quốc Hiện nay cũng như lâu dài, ngành gia cầm nước ta cần phát triền nhanh hơn để đáp ứng yêu cầu tiêu thụ nội địa ngày càng tăng và để xuất khẩu. Nhằm khai thác tối đa tiềm năng của đất nước, chăn nuôi gia cầm cần đẩy mạnh phong trào chăn nuôi, tận dụng ở nông thôn, kết hợp phương thức nuôi bán công nghiệp và thả vườn ở mọi vùng đồng bằng, trung du, miền núi dần dần hình thành các trang trại quy mô lớn nhằm tạo sản phẩm hàng hoá về gia cầm, năng suất khá, chất lượng thịt trứng thơm ngon, an toàn vệ sinh, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đồng thời quy hoạch các vùng chăn nuôi công nghiệp theo hướng thâm canh, tạo sản phẩm hàng hoá có năng suất cao, chất lượng tốt. 15
  5. Cần hết sức chú trong việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật về thức ăn công nghiệp, thuốc thú y, nâng cấp trang thiết bị và chuồng trại, thêm các cơ sở chế biến và quản lý chất lượng sản phẩm. Ngành gia cầm Việt Nam cần sớm có các đàn giống gia cầm cao sản cấp ông bà (trước hết là gà ông bà, vịt ông bà) phù hợp với phương thức nuôi thâm canh và nuôi thả vườn ở nước ta. Đầu con và các sản phẩm gia cầm Việt Nam thời kỳ 1990-1997 Đầu con (1000 con) Sản phẩm gia cầm Tiêu thụ bình quân h i Thịt gia Trong đó Thịt Trứng Trứng Năm Tổng số cầm Gà Vịt ( 1000T) ( 1000q) (qủa) (Kg hơi) 1990 107.372,7 80.184,0 23.636,4 178,90 1.896.400 2,52 28,63 1991 108.990,2 80.578,2 24.860,5 146,38 2.016.900 2,16 29,75 1992 124.460,4 84.704,9 28.170,7 154,40 2.269.986 2,22 32,69 1993 133.392,9 95.087,2 31.312,3 169,89 2.316.940 2,39 33,04 1994 137.793,0 99.627,1 32.041,2 186,40 2.672.108 2,57 36,85 1995 142.069,1 107.958,4 32.045,6 197,10 2.825.025 2,66 38,16 1996 151.401,6 112.788,7 38.612,9 212,95 3.083.777 2,82 40,84 1997 160.550,1 120.567,0 39.983,1 226,11 3.168.646 2,95 41,30 % tăng bình 5,98 6,50 8,01 3,84 7,71 2,54 5,44 quân/năm 16
  6. 1- Vùng Núi và trung du phía Bắc 2- Đồng bằng sông Hồng 3- Bắc Trung bộ 4- Duyên hải miền Trung 5- Tây Nguyên 6- Đông Nam bộ 7- Đồng bằng sông Cửu Long 17
  7. Phần thứ nhất GIỐNG GIA CẦM VÀ CÔNG TÁC GIỐNG Chương I GIỚI THIỆU MỘT SỐ GIỐNG GIA CẦM Ở NƯỚC TA I. CÁC GIỐNG GÀ NỘI Với lịch sử hàng ngàn năm làm nông nghiệp, nhân dân ta cũng tạo ra được nhiều giống gà có giá trị còn lại đến ngày nay. Sau đây là một vài giống tiêu biểu. 1. Giống gà Ri Là giống gà phổ biến nhất mọi vùng, mọi miền. Tùy theo sự chọn lọc trong quá trình chăn nuôi mà giống này hình thành nên các dòng gà Ri có thể hình, màu sắc khác nhau ít nhiều ở mỗi địa phương. Thông thường và phổ biến nhất, thì gà mái có lông màu vàng và nâu nhạt, điểm các đốm đen ở cổ, đầu cánh và chót đuôi. Gà trống có bộ lông sặc sỡ nhiều màu nhất là lông cổ và đuôi chiếm ưu thế nhất là lông màu vàng đậm và tía sau đó là vàng nhạt hoặc trắng ở cổ. Rất ít khi thấy gà Ri có màu lông thuần nhất. Gà con mọc lông sớm chỉ hơn 1 tháng gà đã đầy đủ lông như gà trưởng thành. Gà Ri là giống nhẹ cân, gà mái: 1,2 - 1,8 kg, gà trống: 1,8 - 2,3 kg. Gà trống thiến nuôi lâu có thể đạt 2,5 kg hoặc hơn. Gà Ri có dáng thanh, chân nhỏ, đầu nhỏ, cổ và lưng dài, ngực sâu (gà mái chân rất thấp), mỏ vàng, vẩy chân vàng (có khi đen - nhất là gà miền núi). Sức đẻ: 90 - 120 trứng/mái/năm. Khối lượng trứng bình quân: 38 - 42 gam. Nếu nuôi bán chăn thả, sản lượng trứng gà Ri có thể đạt 125 - 130 quả/ mái/năm. Gà Ri thành thục sinh dục sớm (14,l ngày). Gà có đặc điểm nổi bật là cần cù, chịu khó kiếm ăn, sức chống chịu với thời tiết, bệnh tật cao, nuôi con khéo, thịt có hương vị thơm ngon nhất là gà mái tơ. Do các ưu và nhược điểm ở trên, gà Ri thích hợp với chế độ dưới chăn thả, hoặc bán chăn thả. Trong tương lai khi mà ngành gia cầm nuôi các giống cao sản phát triển, thì gà Ri có thể sẽ được coi như là một đặc sản. 18
  8. 2. Giống gà Văn Phú Là giống gà địa phương được hình thành từ lâu đời ở xã Vàn Phú, xã Sai Ngã, huyện Cẩm Khê, tỉnh Vĩnh Phú nay là tỉnh Phú Thọ. Hiện nay gà phân bố không rộng và phần lớn pha tạp. Giống gà này được hình thành trong vùng đất đai màu mỡ ven sông Hồng, hàng năm bị lũ lụt đe dọa, địa hình Trung du, đồi thấp xen kẽ với đất trồng trọt. Nhiệt độ trong năm chênh lệch không lớn. Tháng thấp nhất (tháng 1) là 17oC và tháng cao nhất (tháng 7,8) là 29oC, ẩm độ biến thiên từ 83 - 86%. Chính điều kiện khí hậu trên kết hợp với chọn lọc và chăm sóc đã tạo nên giống gà Văn Phú. Do có tập quán thi gà, nên từ lúc gà mới nở đã được chọn lọc ngay. Gà Văn Phú lông trên lưng màu đen, nhưng gốc trắng, vùng bụng, đùi có màu tro nhạt, mào phát triển. Trước đây nhờ có sự chọn lọc và nuôi dưỡng tốt nên nhân dân ta ở vùng này đã tạo ra giống gà đen có ngoại hình đẹp, cân đối, đầu vừa phải. Mào và tích tai phát triển, màu đỏ mào đơn 5 -6 khía dựng đứng, chân cao, thanh, có 2 - 3 hàng vẩy. Khi trưởng thành gà cân nặng 3,5 kg. Gà Văn Phú vừa có khả năng cho thịt vừa có khả năng cho trứng. Sức đẻ 60 - 65 trứng/mái/năm. Khối lượng trứng trung bình 50 - 55 gam. Gà Văn Phú ấp trứng và nuôi con vụng về, tỷ lệ nở và tỷ nuôi sống gà con thấp. Ngày nay giống gà này còn lại không nhiều. 3. Giống gà Đông Cảo Gà có nguồn gốc từ thôn Đông Cảo, xã Cấp Tiến, huyện Khoái Châu, Hải Hưng nay là Hưng Yên. Những nắm 1945 - 1947 gà phát triển mạnh. Hiện nay gà bị lai tạp nhiều. Trước đây gà Đông Cảo được chọn lọc nghiêm ngặt phục vụ cho lễ hội. Gà có tầm vóc to thô, cổ mình ngắn, ngực bụng ít lông, da đỏ, chân, đầu to, mào nụ. Cơ thể có dáng khối vuông. Tính tình gà hiền lành, chậm chạp. Con trống có màu lông xanh đen điểm sắc tím ở cánh, cổ. Con mái có màu lông vàng nhạt. Lúc trưởng thành con trống cân nặng 3,5 - 4,0 kg, con mái 2,5 - 3,0 kg. Sức đẻ trứng bình quân 60 - 70 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 50 - 60 gam. Gà ấp và nuôi con vụng. Tỷ lệ ấp nở thấp. Gà Đông Cảo thiên về hướng thịt rõ rệt, có thể lai với các giống gà khác tạo gà nuôi thịt. Giống gà này được nuôi nhiều ở Hưng Yên và Hải Dương. 4. Giống gà Hồ Giống gà này có ở làng Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Gà Hồ phân bố không rộng và được hình thành trong điều kiện tự nhiên của Bắc Ninh. Nhiệt độ trung bình 23,50C. Lượng mưa bình quân 1500 mm. Thuận Thành thuộc vùng hạ lưu sông Cầu, đất đai màu mỡ nên có năng suất 19
  9. lúa cao. Điều kiện này ảnh hưởng tốt đến quá trình hình thành gà Hồ. Mặt khác tập quán chăn nuôi ở đây có khá lâu đời, các hội thi gà chọi gà trước đây hàng năm vẫn diễn ra. Tiêu chuẩn chọn lọc để có gà to, đẹp, hiền lành, rất nghiêm ngặt. Bộ lông gà trống Hồ điển hình có 3 màu: sắc tía ở cổ, chỗ tiếp giáp giữa lưng và đuôi có màu mận chín, xen kẽ màu xanh biếc ở lưng và cánh. Đầu to, dẹt, mào nụ tích tai dài và màu đỏ, mỏ ngắn, mắt nâu, ngực nở, lườn dài, bụng tròn, chân cao to, xù xì, có 2 - 4 hàng vảy. Gà mái có tầm vóc cân đối mào nụ hoặc mào xoăn, lông màu nâu nhạt toàn thân. Lúc trưởng thành con trống cân nặng 3,5 - 4,0 kg, con mái: 3,0 3,5 kg. Gà đẻ muộn thường sau 7 - 8 tháng mới đẻ quả trứng đầu tiên. Sức đẻ 50 - 60 trứng/mái/năm. Tỷ lệ ấp nở thấp. 5. Giống gà Mía Gà được hình thành lâu đời ở xã Phùng Hưng, huyện Tùng Thiện, Hà Tây (nay là xã Đường Lâm, Ba Vì, Hà Tây). Gà Mía phát triển mạnh vào những năm 1952 - 1953. Hiện nay giống gà thuần rất ít, hầu như pha tạp nhiều như các giống gà khác. Gà Mía được hình thành ở vùng Trung du, đồi núi thấp, xen kẽ đất canh tác. Nhiệt độ chênh lệch không lớn lắm tháng thấp nhất là 16,20C, tháng cao nhất 28,80C. Ẩm độ 81 - 87%. Lượng mưa tập trung nhiều vào tháng 6, 7, 8. Ngoài điều kiện tự nhiên, ở đây có tập quán thi gà ở chợ Mía đã ảnh hưởng đến việc chọn lọc gà. Gà Mía to nhưng thiếu cân đối. Mình ngắn, ngực rộng nhưng không sâu, mào đơn, 5 khía răng cưa, tích tai phát triển. Dáng đi nhanh nhẹn hơn gà Hồ, Chân màu vàng có 3 hàng vảy. Gà trống tai có phủ một lớp lông đen, lông thường có 3 màu: Mận chín, đỏ tía và màu xanh đen. Gà mái đầu nhỏ, cổ thanh, ngực nông, mào đơn 4 khía, lông có màn nâu thâm, hay trắng ngà. Gà sinh trưởng nhanh, thành thục muộn sau 6 tháng mới đẻ. Lúc trưởng thành gà trống nặng 3,0 - 3,5 kg, gà mái 2,6 - 3,0 kg. Sức đẻ trứng 70 - 80quả/mái/năm. Khối lượng trứng 50 - 58 gam. Tỷ lệ trứng có phôi và tỷ lệ nở thấp. Gà có đặc điểm mọc lông chậm (gà mái đến 12 tuần tuổi và gà trống đến 15 tuần tuổi mới mọc phủ kín lông). Các giống gà Hồ, Đông Cảo, Mía tuy có năng suất thịt cao nhưng không phổ biến rộng được (chỉ quanh quẩn ở một số địa phương gần nơi xuất xứ) do khả năng sinh sản kém, tính năng động và sức chống chịu kém thua gà Ri. Ngoài các giống gà nội kể trên, ở một số địa phương còn một số giống gà khác. Ở các tỉnh Nam Bộ có giống gà ác (lông trắng, mỏ, chân đen), vùng đồng bào H' Mông có giống gà Mèo, nhưng giá trị kinh tế không có gì đặc biệt và ít phổ biến. Các giông gà khác đáng chú ý chỉ có giống gà Tre (ở Nam Bộ) là 20
  10. giống gà cảnh có thân hình bé, đuôi dài, lông màu xám lẫn màu trắng. Ngoài ra còn có một số giống như: giống gà ta vàng, tàu vàng, gà chọi, gà ta lai, gà miên II. CÁC GIỐNG GÀ HƯÓNG THỊT NHẬP NỘI (GÀ CAO SẢN) Giống gà thịt được tạo ra phải đạt được chỉ tiêu tăng trọng nhanh, tỷ lệ thịt đùi và thịt lườn lớn, tiêu tốn thức ăn cho tăng trọng thấp, số gà con nuôi thịt thu được từ một mái phải lớn. Ngày nay trên thế giới có rất nhiều giống gà thịt cao sản đã được tạo ra. Ở nước ta phổ biến các giống sau đây. 1. Giống gà thịt Hybro (HV85) Là gà chuyên dụng thịt cao sản của Hà Lan, nhập vào nước ta từ năm 1985 do CuBa giúp đỡ gồm 3 dòng S1, S3, S5. Sau đó được đổi thành V1, V3, V5. Và từ năm 1990 nhập thêm dòng A. Các dòng A, Vl được gọi là dòng trống, có nguồn gốc từ gà Comish trắng. Các dòng V3, V5 được gọi là dòng mái, có nguồn gốc là giống Plymouth Rock trắng. 1.1 Dòng A Màu lông thân trắng, ánh bạc, mào đơn màu đỏ tươi, tích tai màu đỏ, da, mỏ, chân màu vàng nhạt, chân to, đùi, lườn phát triển, dáng đi nặng nề chậm chạp. Tốc độ mọc lông nhanh. Khối lượng cơ thể lúc 7 tuần tuổi của gà trống là 1,8 - 1,9 kg, của gà mái 1,5 - 1,65 kg. Lúc trưởng thành con mái 4,2 - 4,5 kg, con trống 5,0 - 5,5 kg. Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng 2,22 kg. Sản lượng trứng 150 quả/mái/năm. Vỏ trứng màu nâu nhạt. Tỷ lệ ấp nở 77 - 80%. 1.2. Dòng V1 Đặc điểm ngoại hình tương tự dòng A. Tốc độ mọc lông nhanh. Lúc 7 tuần tuổi con trống nặng 1,8 -1,9 kg, con mái 1,35 - 1,5 kg. Lúc trưởng thành con mái cân nặng 4,0 - 4,2 kg, con trống 4,5 - 5,0 kg. Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng: 2,27 kg. Sức đẻ trứng 150 - 155 quả/mái/năm. Tỷ lệ ấp nở 78 - 82%. Vỏ trứng màu nâu nhạt. 1.3. Dòng V3 Màu lông trắng, thỉnh thoảng có con chân đen, đốm lông đen ở cánh và đầu (tỷ lệ ít). Mào đơn màu đỏ tươi. Tốc độ mọc lông lúc 1 ngày tuổi chậm. Lúc 7 tuần tuổi con mái đạt 1,3 - 1,4 kg, con trống đạt 1,6 - 1,7 kg. Lúc trưởng thành con mái đạt 3,7 - 3,8 kg, con trống đạt 4,0 - 4,5 kg.Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg 21