Giáo trình Sinh lý người và động vật (Phần 2)

Chương 8
Sinh lý sinh dục và sinh sản
8.1.Ý nghĩa và quá trình phát triển
8.1.1 Ý nghĩa của sự sinh sản
1) Ý nghĩa sinh học của sinh sản
Một trong những thuộc tính đặc trƣng nhất của các hệ thống sống
là khả năng sinh sản. Để đảm bảo sự tồn tại của loài, mọi sinh vật đều cố
gắng tạo những cá thể mới giống mình, để thay thế các cá thể chết do tai
nạn, bệnh tật, già cỗi hoặc do bị động vật khác ăn thịt. Tuy quá trình sinh
sản khác nhau ở những loài khác nhau nhƣng nói chung chỉ gồm hai dạng
chủ yếu. Sinh sản hữu tính và sinh sản vô tính.
+ Trong sinh sản vô tính, chỉ có 1 cá thể tham gia hoặc bằng cách phân
đôi, hoặc bằng cách nẩy chồi, để tạo ra hai hoặc nhiều cá thể mới. Ngay
đối với động vật cao nhƣ ngƣời, vẫn có thể sinh sản vô tính, chẳng hạn khi
tế bào trứng đã thụ tinh, phân đôi để thành “trẻ sinh đôi cùng trứng”.
+ Trong sinh sản hữu tính, có hai cá thể tham gia, mỗi cá thể sản xuất một
loại tế bào biệt hoá, gọi là giao tử (tinh trùng ở đực, trứng ở cái).
Trứng thƣờng là tế bào lớn, chứa nhiều chất dự trữ, nhằm nuôi dƣỡng cơ
thể trong giai đoạn đầu, khi chƣa thể nhận đƣợc thức ăn ngoài. Tinh trùng
thƣờng là tế bào bé, nghèo chất dự trữ, nhƣng lại có đuôi dài hình roi, giúp
tinh trùng bơi tới gần trứng. Tinh trùng đột nhập vào trong trứng nhờ hiện
tƣợng thụ tinh. Trứng đã thụ tinh thành hợp tử, về sau phân chia nhiều lần
liên tiếp, thành một cơ thể mới.
164
164
Sinh sản hữu tính ƣu điểm hơn sinh sản vô tính, nhờ đã thực hiện một sự
kết hợp và chọn lựa giữa các tính trạng di truyền của bố và mẹ, do đó vừa
giống bố mẹ, vừa thừa hƣớng đƣợc tính trạng trội nhất của bố hoặc mẹ.
Sinh sản hữu tính về mặt này làm quá trình tiến hoá diễn ra nhanh hơn, và
có hiệu quả hơn, so với sinh sản vô tính.
2). Ý nghĩa xã hội của sinh sản
+ Sinh sản đối với con ngƣời: Mặc dù sinh sản cũng là bản năng và cần
thiết cho sự phát triển của xã hội loài ngƣời, song nó chỉ có ý nghĩa tích
cực khi tốc độ gia tăng dân số và tỷ lệ sinh đẻ phù hợp với sự phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia và trên toàn cầu.
Tình hình gia tăng dân số quá nhanh, tỉ lệ sinh đẻ quá cao trong thế
kỷ 20 này của xã hội loài ngƣời đã đƣa thế giới tới tình trạng “Bùng nổ về
dân số" và dẫn đến nguy cơ mất cân bằng với sự phát triển kinh tế, sử
dụng tài nguyên thiên nhiên, huỷ diệt môi trƣờng sống ...
Những số liệu thống kê cho thấy: Ở đầu thế kỷ 17 loài ngƣời mới chỉ có
500 triệu, sang đầu thế kỷ 19 tăng lên 1 tỷ, sang năm 1930 tăng lên 2 tỷ
(sau khoảng 100 năm ), năm 1975 đã là 4 tỷ (chỉ sau khoảng 50 năm). Nhƣ
vậy, sự tăng gấp đôi lần đầu là 200 năm, lần sau 100 năm, nhƣng lần tiếp
theo chỉ còn 50 năm.
Riêng ở Việt nam ta, tình hình càng đáng lo ngại hơn. Năm 1921 số
dân Việt nam là khoảng 15.584.000, 39 năm sau (1960 ) đã tăng gần gấp
đôi, thành khoảng 30.172.000; 20 năm sau (1980) lại tăng gần gấp đôi lần
nữa, thành 53.853.620 và hiện nay, dân số Việt nam đã đạt con số 80,7
triệu ngƣời. Tốc độ gia tăng dân số và tỷ lệ sinh đẻ quá cao đang là gánh
nặng của đất nƣớc chúng ta, nó trực tiếp ảnh hƣởng đến tốc độ tăng trƣởng
kinh tế vốn còn nghèo và chƣa phát triển, đến tài nguyên thiên nhiên, công
ăn việc làm, ăn, ở, đi lại, học hành, sức khoẻ ...của xã hội so với thế giới.
Do vậy, việc giảm thấp tỷ lệ sinh đẻ nhằm hạn chế tốc độ gia tăng dân số
trở thành vấn đề chiến lƣợc và cấp bách của toàn cầu và mỗi quốc gia,
nhất là các nƣớc đang phát triển. Bốn chỉ tiêu cụ thể là: không tảo hôn
trƣớc 18 tuổi; sinh con đầu lòng sau 22 tuổi; phấn đấu chỉ sinh 2 con, con
sau cách con trƣớc ít nhất 5 năm. Để dành thế chủ động trong sinh đẻ, rõ
ràng cần nắm các kiến thức về sinh lý sinh sản.
+ Sinh sản đối với gia súc: Sự sinh sản là một quá trình sinh học phức tạp
của cơ thể động vật đồng thời là chức năng tái sản xuất của gia súc, gia
cầm. Để tăng cƣờng chức năng này nhằm nâng cao sức sản xuất của đàn
gia súc, trên cơ sở thực tiễn công tác chọn giống và tạo giống mới, hoàn
165
165
thiện những giống chủ yếu, nuôi dƣỡng tốt những đàn gia súc non cao sản,
cần có sự hiểu biết đầy đủ về sinh lý sinh sản gia súc. Các nhà chăn nuôi
cũng cần nắm những kiến thức về các khía cạnh khác nhau của chức năng
sinh dục, chu kỳ tính, thụ tinh,thụ thai và có chửa, cũng nhƣ cơ chế thần
kinh thể dịch trong vai trò điều tiết chức năng sinh sản. Những kiến thức
nêu trên làm cơ sở tăng cƣờng khả năng sinh sản đàn gia súc với chất
lƣợng sản phẩm cao. 
pdf 182 trang thiennv 10/11/2022 6020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Sinh lý người và động vật (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_sinh_ly_nguoi_va_dong_vat_phan_2.pdf

Nội dung text: Giáo trình Sinh lý người và động vật (Phần 2)

  1. 173 chuyển xuống bìu còn nằm lại trong ổ bụng sẽ không có khả năng sinh tinh trùng. d) Tinh trùng có hai loại mang nhiễm sắc thể giới tính khác nhau và có lƣợng bằng nhau: loại mang nhiễm sắc thể Y và loại mang nhiễm sắc thể X. Tế bào trứng chỉ có một loại mang nhiễm sắc thể X.Chúng khác nhau về đặc điểm cấu tạo, khả năng sống và tốc độ vận chuyển (hình 8.5). Tinh trùng Y nhỏ, nhẹ, vận động nhanh hơn tinh trùng X, nhƣng khả năng sống của tinh trùng Y kém so với tinh trùng X, đặc biệt trong môi trƣờng acid. Khi thụ thai, nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y gặp tế bào trứng mang nhiễm sắc thể X, sẽ thành cặp nhiễm sắc thể XY, nhƣ vậy là sinh con trai Nếu tinh trùng mang nhiễm sắc thể X gặp tế bào trứng mang nhiễm sắc thể X thì sẽ thành cặp nhiễm sắc thể XX, nhƣ vậy là sinh con gái. Hiện nay kỹ thuật huỳnh quang có thể xác định đƣợc nhiễm sắc thể Y ở tế bào hay tinh trùng, kỹ thuật này có thể áp dụng để xác định con trai hay con gái. Với kỹ thuật bảo quản tế bào trong nitơ lỏng ở nhiệt độ - 1730C, tinh trùng có thể bảo quản đƣợc trong nhiều năm. Việc này có ý nghĩa trong đời sống và chăn nuôi. 8.2.2.1.2. Chức năng nội tiết a) Bản chất: Hormon sinh dục nam là loại steroid C19 cấu trúc phân tử có nhóm -OH ở C1, do tế bào Leydig bài tiết là chủ yếu. Chất tác dụng chính của hormon sinh dục nam là testosterone. Một lƣợng nhỏ testosterone do vỏ thƣợng thận và buồng trứng bài tiết. Testosterone đƣợc chuyển thành dihydrotestosterone có tác dụng ở một số tổ chức đích (tuyến tiền liệt). Testosterone đƣợc chuyển hoá ở gan thành những chất kém tác dụng nhƣ androsterone và dehydroepiandrosterone. b) Tác dụng: -Tác dụng biệt hoá sinh dục: ở thời kỳ bào thai hay ở một số loài (gặm nhấm: chuột, hamster ) lúc mới sinh, testosterone có tác dụng biệt hoá sinh dục. Khi dậy thì, testosterone làm phát triển cơ quan sinh dục phụ: tuyến tiền liệt, túi tinh to ra và túi tinh bắt đầu bài tiết fructose để nuôi dƣỡng tinh trùng và những giới tính thứ phát. - Cùng với FSH, testosterone tác dụng đến sự phát triển và đặc biệt chuyển tiền tinh trùng thành tinh trùng, ảnh hƣởng đến sự hoạt động của tinh trùng và có tác dụng dinh dƣỡng đối với cơ quan sinh dục phụ. - Testosterone tác dụng đến chuyển hoá, đặc biệt là tác dụng đồng hoá protein và kích thích sự tăng trƣởng. Những chất dẫn của testosterone nhƣ nerobol, nerobolin là những chất tăng đồng hoá, có tác dụng tăng tổng hợp protein của cơ. 173
  2. 174 - Đối với động vật cái: testosterone có tác dụng ức chế nang tố, ức chế rụng trứng, ức chế bài tiết sữa và gây nam hoá. c. Điều hoà bài tiết do LH của tiền yên. LH có tác dụng dinh dƣỡng tế bào Leydig và kích thích bài tiết testosterone. 8.3. Sinh lý sinh dục cái 8.3.1.Cấu tạo hệ sinh dục cái gồm hai phần: Phần trong có hai buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung (dạ con) và âm đạo. Phần bên ngoài có âm hộ, âm vật, môi lớn, môi bé và các tuyến sinh dục phụ (hình 8.7). Hình 8.7. Cấu tạo cơ quan sinh dục nữ 8.3.1.1. Buồng trứng Buồng trứng là một đôi tuyến hình bầu dục, mỗi buồng trứng trung bình nặng 5 -6g, nằm trong hố chậu giữa hai xƣơng cánh chậu và đƣợc cố định bởi các dây chằng.Ở tuần thứ 30 của thai nhi, cả hai buồng trứng có khoảng 6.000.000 nang trứng nguyên thuỷ. Sau đó phần lớn chúng bị thoái hoá để chỉ còn lại khoảng 2.000.000 nang vào lúc mới sinh và đến tuổi dậy thì chỉ còn lại khoảng 300.000 - 400.000 nang. Trong suốt thời kỳ sinh sản 174
  3. 175 của phụ nữ (khoảng 30 năm) chỉ có khoảng 400 nang này phát triển tới chín và xuất noãn hàng tháng (hình 8.8). Số còn lại bị thoái hoá.Trứng chỉ bắt đầu chín và rụng kế từ tuổi dậy thì (13 -15 tuổi) và trung bình một tháng chỉ có một trứng chín, kéo dài đến thời kỳ mãn kinh (khoảng 45 -50 tuổi). Trứng chín là một tế bào hình cầu, có đƣờng kính khoảng 0,2mm chứa đủ chất dinh dƣỡng để nuôi tế bào trứng đã thụ tinh trong một thời gian ngắn, khi trứng chƣa làm tổ đƣợc ở thành dạ con. Trứng đã rụng chỉ có khả năng thụ tinh trong một thời gian ngắn, trong vòng 24 giờ. 8.3.1.2. Ống dẫn trứng (vòi Fallop) Ống dẫn trứng gồm một đôi ống dài 10 -12cm, đƣờng kính từ 0,5 -2mm, một đầu thông với dạ con, đầu kia loe rộng thành hình phễu mở ra trƣớc buồng trứng. Trứng chín và rụng sẽ đƣợc phễu đón nhận vào trong ống dấn trứng. Ở đây trứng đƣợc di chuyển dần về phía dạ con nhờ nhu động của lớp cơ trơn ở thành ống, phối hợp với sự hoạt động của các lông rung động trên các tế bào biểu bì thuộc lớp niêm mạc lót trong lòng ống. 8.3.1.3. Dạ con (tử cung) Dạ con là nơi tiếp nhận trứng đã thụ tinh và nuôi dƣỡng thai. Lúc đẻ, cơ thành dạ con có nhiệm vụ co bóp để đẩy thai ra ngoài. Dạ con nằm trong hố chậu, sau bóng đái và trƣớc trực tràng. Bình thƣờng dạ con có hình trái lê gồm phần đáy, phần thân và phần cổ. Đáy dạ con có hai lỗ thông với hai ống dẫn trứng, cổ dạ con thông với âm đạo. Thành dạ con có 3 lớp: -Ngoài cùng là lớp màng liên kết bao bọc. -Giữa là lớp cơ trơn rất dày và là phần tử chủ yếu của dạ con gồm các sợi cơ đan chéo nhau theo mọi hƣớng và có khả năng dãn nở rất lớn. Bình thƣờng dạ con là khối cơ chắc, dài khoảng 7,5cm, rộng 5cm và dày chừng 2mm ở giữa là một khoang hẹp (buồng dạ con). Khi mang thai dạ con có sức chứa tới 2500cm3 (gấp 600 lần lúc bình thƣờng) nhờ sự dãn nở của các sợi cơ. Nhƣng sức co của các cơ này cũng rất lớn giúp đẩy thai ra ngoài khi đẻ. 175
  4. 176 Hình 8.8. Cấu tạo buồng trứng và sự rụng trứng -Trong cùng là niêm mạc chứa nhiều mạch máu và các tuyến tiết chất nhày (đặc biệt là ở phần cổ dạ con). Lớp này có nhiều thay đổi theo chu kỳ rụng trứng hàng tháng. 8.3.1.4. Âm đạo Âm đạo là một ống dài khoảng 8cm nhƣng có khả năng chun dãn rất lớn. Âm đạo tiếp liền với dạ con ở phía trong và thông với bên ngoài qua âm hộ đƣợc giới hạn bởi các môi bé và môi lớn. Phía trên âm hộ là lỗ tiểu. Nhƣ vậy, đƣờng sinh dục và đƣờng tiết niệu ở nữ tách biệt nhau. Trên lỗ tiểu là âm vật (âm hạch), tƣơng ứng với dƣơng vật ở nam giới, nơi tập trung nhiều dây thần kinh và có khả năng cƣơng cứng khi bị kích thích. 176
  5. 177 Ở con gái (chƣa chồng) giữa âm đạo và âm hộ có một vách ngăn gọi là màng trinh. Giữa màng trinh có một lỗ nhỏ là nơi để máu thoát ra trong các kỳ hành kinh. Ngoài ra đổ vào cửa âm đạo (mặt trong các môi bé) có đôi tuyến hình chùm, gọi là tuyến tiền đình (hay tuyến Bartholin). 8.3.1.5. Tuyến vú Về nguồn gốc tuyến vú là tuyến da, do sự biến đổi của tuyến mồ hôi mà ra. Hoạt động của tuyến vú có liên quan chặt chẽ với chức năng sinh dục. Số đôi tuyến vú phụ thuộc vào số con sinh đẻ của từng lứa ở mỗi loài. Các loài ăn sâu bọ thƣờng có 7-11 đôi, ăn thịt 2- 5 đôi, linh trƣởng 1 đôi. Ở ngƣời, giai đoạn đầu của bào thai có 9 đôi (dƣới 2 tháng), về sau tiêu biến dần chỉ còn lại đôi thứ tƣ (từ trên xuống) tiếp tục tồn tại và phát triển. Mỗi tuyến vú có khoảng 15- 20 thuỳ nhỏ, đó là các tuyến sữa, mỗi tuyến sữa có ống dẫn thông ra núm vú. Các tuyến sữa nằm quanh núm vú, một số ống dẫn của các thuỳ đƣợc chập lại thành ống chung, do đó số lỗ trên núm vú ít hơn số tuyến. Chất đệm chung quanh các tuyến là mô mỡ (hình 8.9). Tuyến vú bắt đầu phát triển từ tuổi dậy thì dƣới tác dụng của oestrogen và progesteron hai hormon này kích thích phát triển tuyến vú và lớp mỡ để chuẩn bị cho khả năng nuôi con. Khi có thai tuyến vú càng phát triển mạnh để có khả năng bài tiết sữa. Ngoài oestrogen các hormon khác cũng có tác dụng phát triển ống tuyến vú nhƣ GH, prolactin, hormon vỏ thƣợng thận, insulin. 8.3.2. Sinh lý sinh dục cái 177
  6. 178 8.3.2.1. Chức năng sinh lý của buồng trứng 8.3.2.1.1. Chức năng sản xuất tế bào trứng Buồng trứng có nhiều nang trứng, mỗi nang trứng có một trứng chƣa chín. Ở một em bé gái ra đời có khoảng 30.000 - 300.000 nang trứng. Lúc dậy thì chỉ còn vài trăm nang trứng có thể chín và phát triển thành trứng và hàng tháng có một trứng chín đƣợc phóng ra khi rụng trứng. Một số trƣờng hợp đặc biệt có thể có hai hoặc nhiều trứng cùng chín và rụng. Trƣờng hợp những loài động vật đẻ một con mỗi lứa nhƣ khỉ, trâu, bò, ngựa, voi cũng giống nhƣ vậy. Còn các loài động vật đẻ nhiều con mỗi lứa thì do nhiều trứng cùng chín và rụng một lần, cùng thụ tinh trong một lần giao hợp. Ở ngƣời, từ tháng thứ 3 trong dạ con, đã xuất hiện các noãn bào cấp 1. Đang ở giai đoạn 1 của lần giảm phân thứ nhất. Noãn bào cấp 1 không tiếp tục quá trình phân chia mà cứ ở nguyên nhƣ thế cho tới tuổi chín sinh dục. Sau tuổi chín sinh dục, mỗi tháng cũng chỉ 1 noãn bào chuyển mình và tiếp tục quá trình giảm phân để chín thành trứng. Nhƣ vậy, lần giảm phân thứ nhất bị bỏ dở chỉ đƣợc khôi phục sớm nhất sau 13 - 14 năm, chậm nhất sau 45 - 48 năm và cũng chỉ đối với khoảng 450 trứng. Trong lần giảm phân thứ nhất ấy, do sự phân phối bào chất không đồng đều nên toàn bộ chất dự trữ của noãn bào I đƣợc dồn hết cho 1 trong 2 tế bào con, về sau đƣợc gọi là noãn bào II. Tế bào con còn lại chỉ chứa nhân và gọi là thể cực 1. Trong lần giảm phân thứ hai, noãn bào II cũng lại phân chia không đồng đều và thành noãn tử với thể cực II, thể cực đầu cũng phân chia và cho 2 thể cực nữa. Nhƣ vậy từ noãn bào I, chỉ cho 1 trứng hoạt động và 3 thể cực không thụ tinh đƣợc, về sau sẽ thoái hoá (xem hình 8.6). Ở ngƣời rụng trứng vào ngày thứ 14. Trứng rụng rơi vào loa vòi, rồi di chuyển vào vòi Fallope, sau đó đến tử cung. Nếu không thụ thai thì trứng sẽ bị tiêu đi. Nang vỡ khi rụng trứng sẽ tạo thành hoàng thể (thể vàng). Tế bào hoàng thể bài tiết progesterone và estrogen. Nếu thụ thai, hoàng thể sẽ tồn tại cho đến lúc đẻ. Nếu không thụ thai hoàng thể tồn tại đến 2 -3 ngày trƣớc kinh nguyệt mới. Chu kỳ buồng trứng hoạt động nhƣ vậy trong suốt quãng đời hoạt động sinh dục nữ. Từ dậy thì trở đi, các nang trứng chịu tác dụng của những kích tố hƣớng sinh dục của tiền yên lần lƣợt phát triển ở nhiều giai đoạn khác nhau trong buồng trứng. Trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt, có một nang trứng vỡ, giải thoát trứng. Từ dậy thì đến tuyệt kinh, trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt có một nang trứng vỡ (xem hình 8.8). 8.3.2.1.2. Chức năng nội tiết của buồng trứng Buồng trứng bài tiết hai hormone: estrogen và progesterone 178
  7. 179 a.Estrogen - Bản chất: estrogen là một steroid loại C18 đặc biệt vòng A là một nhân thơm, nhân phenol. Những estrogen đã tìm thấy là estradiol, estron, estriol. Trong đó estradiol là chất tác dụng mạnh nhất, estriol yếu nhất. Estrogen do những tế bào lớp áo trong (theca interna cells) của noãn nang bài tiết tế bào hoàng thể, rau thai cũng bài tiết estrogen và một lƣợng nhỏ do vỏ thƣợng thận và tinh hoàn bài tiết. - Tác dụng + Đối với nữ: ++ Estrogen làm noãn nang phát triển và có vai trò quan trọng trong những biến đổi có chu kỳ của tử cung (làm dày niêm mạc tử cung), cổ tử cung cũng biến đổi tế bào âm đạo gây sừng hoá, những tế bào đa giác không có nhân.++ Tạo đặc tính sinh dục thứ kỳ ở nữ.++ Chuyển hoá: Tăng tổng hợp ARN thông tin, giữ muối và nƣớcvừa phải. Phụ nữ lên cân, giữ muối và nƣớc trƣớc kinh nguyệt. +Đối với nam: tác dụng tăng sinh làm cho tuyến tiền liệt, túi tinh, ống dẫn tinh phát triển. Điều hoà bài tiết: estrogen đƣợc bài tiết do LH của tiền yên theo cơ chế điều hoà ngƣợc. b. Progesterone - Bản chất : Progesterone là một steroid loại C21 do tế bào hoàng thể, rau thai bài tiết chủ yếu, một lƣợng nhỏ do thƣợng thận, tinh hoàn. Progesterone là chất trung gian trong quá trình sinh tổng hợp hormone steroid. -Tác dụng + Progesterone là hormone trợ thai quan trọng nhất, chuẩn bị cho trứng làm tổ, tạo điều kiện cho phôi và thai phát triển và cần thiết để mang thai trong một giai đoạn nhất định. Lúc mang thai thiếu Progesterone thai không phát triển đƣợc. Progesterone có tác dụng làm cơ tử cung phát triển, mềm, không co bóp; niêm mạc tử cung phát triển mạnh, các tuyến dài ra ngoằn ngoèo nhƣ hình ren thêu. Nhƣ vậy là Progesterone có vai trò quan trọng trong những biến đổi niêm mạc tử cung trong giai đoạn phát triển hoàng thể và những biến đổi có chu kỳ ở cổ tử cung, âm đạo. +Tử cung đã có tác dụng của Progesterone có một phản ứng đặc biệt, mỗi khi có kích thích tác động đến niêm mạc, gọi là phản ứng màng rụng. Chỗ bị kích thích xuất hiện quá trình tăng sinh các tế bào liên kết và xung huyết, phản ứng này thuận lợi cho trứng đã thụ tính chạm vào làm tổ trong niêm mạc tử cung. 179
  8. 180 + Gây hiện tƣợng có mang giả trên động vật. Trên vật thí nghiệm có rụng trứng, sau trứng rụng hoàng thể đƣợc thành lập và bài tiết Progesterone Chu kỳ động dục lần sau chậm lại (nghĩa là ức chế hiện tƣợng động dục, ức chế rụng trứng, ức chế kinh nguyệt). Thời gian này là thời gian có mang giả. + Ức chế bài tiết LH (cơ chế tác dụng thuốc tránh thụ thai) và tăng cƣờng tác dụng bài tiết prolactin. + Đối với tuyến vú: Làm phát triển những thuỳ, nang. c. Điều hoà bài tiết: Progesterone đƣợc bài tiết do LH của tiền yên, theo cơ chế điều hoà ngƣợc. 8.3.2.2.Chu kỳ kinh nguyệt Chu kỳ kinh nguyệt là sự chảy máu của tử cung một cách có chu kỳ ở ngƣời và loài linh trƣởng. Ở động vật có vú khác không có chu kỳ kinh nguyệt nhƣng có chu kỳ động dục, nghĩa là không có sự chảy máu của tử cung, nhƣng vẫn có những biến đổi ở tử cung, âm đạo và hành vi sinh dục. Vào giai đoạn động dục, vật cái mới chịu đực (chịu giao phối). Chu kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ trung bình là 28 ngày, nhƣng có phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt dài hơn. Chu kỳ kinh nguyệt có 3 giai đoạn: a.Giai đoạn nang tố hay giai đoạn tăng sinh Tuyến yên bài tiết FSH. Buồng trứng: nang trứng phát triển, bài tiết estrogen và lƣợng estrogen tăng dần. Tử cung: lớp chức năng phát triển, tuyến dài dần ra, và xuất hiện động mạch xoắn. Cuối giai đoạn nang tố (giữa chu kỳ kinh nguyệt): khi lƣợng FSH và LH đạt tỷ lệ 1/3 thì rụng trứng. Mỗi chu kỳ thông thƣờng chỉ rụng một trứng nhƣng có khi hai hay ba trứng rụng. b.Giai đoạn hoàng thể tố hay giai đoạn bài tiết Tuyến yên bài tiết LH. Buồng trứng: sau khi đã rụng trứng, noãn nang trở thành hoàng thể. Tế bào hoàng thể bài tiết progesteronevà estrogen. 180
  9. 181 Tử cung: niêm mạc phát triển mạnh, tuyến cong queo và bắt đầu bài tiết. Cuối giai đoạn: lƣợng hoàng thể tố tăng cao, ức chế LH tuyến yên làm cho hoàng thể teo lại, progesteronevà estrogen giảm xuống. c.Giai đoạn chảy máu Khi hoàng thể teo lại lƣợng hormone đến niêm mạc tử cung giảm đi. Động mạch xoắn co lại, phần niêm mạc đƣợc nuôi dƣỡng bị thiếu máu (lớp chức năng). Động mạch xoắn giãn ra làm vỡ thành mạch chỗ bị hoại tử. Máu chảy ra đọng dƣới lớp niêm mạc. Máu đông lại, sau tan ra. Vì vậy máu kinh nguyệt là máu không đông. Thời gian chảy máu từ 3 - 5 ngày. Trung bình một lần kinh nguyệt mất khoảng 40-200ml máu. Ngay sau đó lớp niêm mạc lại đƣợc tái sinh dƣới tác dụng của estrogen và một chu kỳ mới lại bắt đầu (hình 8.10). Hình 8.10. Chu kỳ kinh nguyệt ở người Nghiên cứu chu kỳ kinh nguyệt ta thấy một điểm đáng lƣu ý nhất là vào ngày trứng rụng (ngày thứ 14 nếu chu kỳ gồm 28 ngày), nếu trứng gặp 181
  10. 182 đƣợc tinh trùng thì sự thụ thai sẽ xảy ra. Chu kỳ kinh nguyệt sẽ bị gián đoạn, trong khi đó hoàng thể ở buồng trứng vẫn tồn tại tiếp tục sản xuất estrogen và progesterone Với hậu quả là ngăn chặn sự rụng trứng mới, cho đến khi đứa trẻ ra đời. Chính do hai kích tố này đã có khả năng ức chế sự rụng trứng. Đó là cơ sở của việc tạo ra các loại thuốc có chứa đựng hai loại kích tố trên để tránh thai. Thực chất của viên thuốc tránh thai là tăng thêm cho tuyến hoàng thể một lƣợng nhỏ kích tố tổng hợp estrogen và progesterone Lƣợng kích tố này tồn tại nhiều sẽ gây ức chế tuyến yên tiết LH. Và kết quả là làm cho các nang Graaf mới không phát triển đƣợc và trứng không rụng sẽ không gây thụ thai ở ngƣời dùng thuốc. Ta cần biết thêm, rụng trứng và kinh nguyệt là hai hiện tƣợng ngẫu nhiên đi với nhau tuần tự nhƣ trên. Nhƣng không phải là nguyên nhân và kết quả vì có những trƣờng hợp: Có rụng trứng nhƣng không có kinh nguyệt (có phụ nữ cả đời không có kinh nguyệt nhƣng vẫn rụng trứng). Có kinh nguyệt nhƣng không rụng trứng. Điều đó cũng giống nhƣ phụ nữ uống thuốc tránh thai nhƣng vẫn có kinh nguyệt bình thƣờng. 8.3.2.3. Sự thụ tinh Thụ tinh là quá trình hoà hợp làm một của tinh trùng và trứng vốn chƣa có khả năng phân chia, thành hợp tử, có khả năng phân chia nhiều lần liên tiếp để tạo thành cơ thể mới. Sự thụ tinh có thể xảy ra ngoài cơ thể (thƣờng thì trong môi trƣờng nƣớc, nhƣ đối với cá và phần lớn động vật ở nƣớc) hoặc trong cơ quan sinh dục cái (thụ tinh trong) nhờ hiện tƣợng giao hợp. Tuy nhiên về thực chất, thụ tinh trong hay ngoài vẫn giống nhau. Đối với các loài thụ tinh trong, tinh trùng đƣợc nhận vào âm đạo sẽ vƣợt cổ tử cung vào dạ con, rồi tìm đƣờng lên ống dẫn trứng. Đa số tinh trùng chết, số còn lại sẽ gặp trứng ở khoảng 1/3 phía trên của ống dẫn trứng ( trứng đã vƣợt quá 1/3 ống dẫn không còn khả năng thụ tinh vì đã bị các sản phẩm do ống dẫn tiết ra bọc kín. Chỉ có một tinh trùng thụ tinh cho trứng. Vì sơ đồ thụ tinh trong là nhƣ vậy, nên muốn tránh thụ thai, chỉ cần dùng dụng cụ ngăn cản không cho tinh trùng gặp trứng. Trứng đƣợc bọc trong vành phóng xạ, gồm nhiều tế bào bao noãn. Enzyme hyaluronidase và các enzyme thuỷ phân trong lysosome của đầu tinh trùng đã giúp tinh trùng xuyên qua vành phóng xạ để áp sát trứng ở một điểm của màng trứng đã lồi ra để đón đầu tinh trùng. Sau khi 1 đầu tinh trùng đã lọt qua màng trứng, từ điểm xâm nhập, sẽ lan toả tức thời 1 làn sóng làm màng cứng lại ngăn không cho các tinh trùng khác đột nhập. Đuôi tinh trùng bị bỏ lại ngoài màng, đầu chứa nhân theo trung tử tiến đến gần nhân của trứng. Sự 182
  11. 183 liên kết giữa 2 nhân đơn bội đã khôi phục lại trạng thái lƣỡng bội. Đó là sự thụ tinh mà kết quả là trứng đã thụ tinh hay hợp tử (hình 8.11). Sự thụ tinh có thể thất bại do nhiều nguyên nhân. Trong chứng vô sinh của nam (3 - 4% nam) tinh trùng có quá ít hoặc hoàn toàn không có trong tinh dịch (dƣới 150 triệu trong một lần xuất tinh). Vô sinh cũng hay gặp ở nữ (14%) chủ yếu do ống dẫn trứng bị tắc (vì béo quá hoặc vì nhiễm trùng) do buồng trứng bị màng dày vây bọc, hoặc do tuyến yên không tiết đủ hormone kích dục. Ở một số phụ nữ, chất dịch do cổ dạ con tiết còn làm chết tinh trùng. Ngoài ra, tinh trùng vào cơ quan nữ chỉ giữ đƣợc khả năng thụ tinh tối đa khoảng 48 giờ. Bản thân trứng cũng chỉ có khả năng thụ tinh trong vòng 24 giờ tính từ khi rụng. (Bò: 20 giờ; Lợn: 8 - 12 giờ; Thỏ: 6 giờ). Cho nên, một trong các phƣơng pháp tránh thai là làm lệch pha tinh trùng và trứng. Cụ thể là chỉ cần tính giờ rụng trứng, xem nhƣ ngày nằm chính giữa 2 đợt kinh, rồi bố trí lịch giao hợp tránh ngày đó và cả ngày hôm trƣớc, ngày hôm sau, phòng xa trứng rụng sớm, hoặc rụng muộn. Ngoài ra, phải tính thêm 2 - 3 ngày trƣớc để đề phòng tinh trùng vào sớm vẫn còn sống sót cho tới lúc rụng trứng. Bạch cầu biểu mô âm đạo là mối đe doạ lớn: Chúng thực bào mỗi lần tới hàng triệu tinh trùng. Cho nên trong chăn nuôi, để tăng tỉ lệ thụ tinh thành công, ta thƣờng tiến hành thụ tinh nhân tạo, nghĩa là lấy tinh của những con đực tốt, đã pha chế chất nuôi dƣỡng để tăng lực và tuổi thọ tinh trùng rồi đƣa vào dạ con theo liều lƣợng tiết kiệm nhất, vào đúng giờ động dục đã đƣợc tính toán kỹ. 8.3.2.4. Sự phát triển và làm tổ của phôi Sau khi thụ tinh khoảng 30 giờ, hợp tử bắt đầu phân chia, sau đó cứ khoảng 10 giờ lại có một lần phân chia mới. Khi xuống đến dạ con khoảng 7 ngày sau thụ tinh, hợp tử đã thành một khối nhỏ gồm khoảng 32 - 64 tế bào, gọi là phôi dâu. Nếu phôi vƣợt qua ống dẫn trứng nhanh quá, thì chƣa có khả năng bám vào thành dạ con. Trong dạ con tế bào phôi tiếp tục phát triển và phân hoá thành một lớp ngoài (lớp dƣỡng bào) và một khối trong. Khối trong bám vào 1 cực của lớp dƣỡng bào và phát triển thành cơ thể con. Khi ngƣời mẹ phát hiện tắt kinh, phôi đã gồm khoảng 100 tế bào, có khoảng 14 ngày tuổi và đang thâm nhập vào nội mạc dạ con để làm tổ. Phần nội mạc bị huỷ sẽ hồi phục để bọc kín phôi.Thời gian 14 ngày từ khi trứng rụng đến khi hợp tử làm tổ là rất ngắn nên có một số trƣờng hợp, kinh nguyệt chƣa kịp đình chỉ và vẫn xảy ra: thai bị chết. 183
  12. 184 Hình 8.11. Sự thụ tinh Sau khi làm tổ trong dạ con, phôi tiếp tục phát triển, lúc đầu nhờ tiết enzyme để phân huỷ các tế bào của thành dạ con ở quanh phôi, về sau nhờ trao đổi chất với máu mẹ qua nhau thai. Lúc đầu phôi còn nhỏ, chƣa chìm sâu vào trong thành dạ con và cũng chƣa mọc nhiều lông nhung để tạo nhau thai bám chặt vào thành dạ con, nên loại bỏ phôi còn dễ. Đối với những ngƣời vỡ kế hoạch sinh đẻ, có thể uống thuốc điều kinh liều cao hoặc thuốc phá thai trong tháng đầu thụ thai. Nếu chậm hơn có thể hút điều hoà kinh nguyệt. Nếu thai đã gần 3 tháng phải đến cơ quan y tế để nạo bỏ, tuy có mất ít máu, nhƣng nói chung vẫn an toàn. Đối với các loài thụ tinh ngoài, cơ chế có khác: Phôi của chúng có túi noãn hoàng là phần lồi hình túi của ống ruột, bọc quanh noãn hoàng để hấp thụ chất nuôi dƣỡng của noãn hoàng rồi cung cấp cho các phần khác của phôi. Trứng cá và ếch nhái tƣơng đối lớn, đã có nhiều noãn hoàng 184