Giáo trình Sinh lý bệnh thú y (Phần 1) - Nguyễn Quang Tuyên

Bài mở đầu
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN SINH LÝ BỆNH THÚ Y
1. ĐỊNH NGHĨA MÔN HỌC
Sinh lý bệnh (PHthophysiology) theo nghĩa tổng quát nhất là môn học về những
thay đổi chức năng của cơ thể, cơ quan, mô và tế bào khi chúng bị bệnh. Sinh lý bệnh
học là một môn khoa học nghiên cứu những hoạt động của sự sống trong cơ thể bệnh,
cụ thể là nghiên cứu những biến đổi bệnh lý về cơ năng các cơ quan, hệ thống và mô
bào, đồng thời nghiên cứu những nguyên nhân, điều kiện gây bệnh và tìm ra quy luật
chung của sự phát sinh, phát triển và kết thúc của quá trình bệnh lý.
Môn sinh lý gia súc nghiên cứu tất cả cơ năng, hệ thống trong cơ thể gia súc (động
vật) bình thường và tìm ra được quy luật nhất định, cũng như vậy trên cơ thể bệnh
chúng ta cũng nghiên cứu tuần tự và so sánh lại với quy luật bình thường để thấy được
những thay đổi như thế nào và từ đó rút ra kết luận với từng trường hợp. Chính vì vậy
người ta thấy mỗi một bệnh có một quy luật riêng và nó cũng có những biểu hiện bệnh
lý chung.
Ví dụ: Trong tất cả các loại nhiễm khuẩn chúng ta đều thấy các quá trình bệnh lý
như viêm, sốt, khi kiểm tra máu thấy bạch cầu tăng và đó là những quy luật chung.
Trong khi đó ở bệnh dịch tả lợn chúng ta thấy cơ thể lợn sốt, viêm nhưng bạch cầu hạ;
ở bệnh lao phổi chúng ta lại thấy cơ thể vật bệnh sốt liên miên, thường hay sốt vào
buổi chiều, ra mồi hôi nhiều và đó là những quy luật riêng.
Những quy luật riêng tạo nên những biến đổi trên cơ quan, tổ chức gọi là quá trình
bệnh lý điển hình và các quá trình này tạo nên bệnh tích điển hình.
Từ những quy luật đó khái quát lại và nêu lên quy luật hoạt động của từng bệnh,
tạo cơ sở lý luận cho các môn học lâm sàng tìm biện pháp khống chế.
2. NỘI DUNG MÔN HỌC
Nội dung của môn sinh lý bệnh học được chia làm ba chương:
Chương 1 : Các khái niệm và quy luật chung về bệnh
Bao gồm: khái niệm về bệnh, nguyên nhân gây bệnh, sinh bệnh học, đặc tính của
cơ thể đối với sự phát bệnh (bệnh lý của quá trình miễn địch).
Chương 2: Sinh lý bệnh các quá trình bệnh lý chung
Bao gồm: rối loạn tuần hoàn cục bộ, rối loạn chuyển hóa các chất, viêm, rối loạn
điều hoà thân nhiệt, quá trình bệnh lý của sự phát triển mô bào.
Chương 3: Sinh lý bệnh các cơ quan, hệ thống
Nghiên cứu rối loạn chức năng của các cơ quan, hệ thống: hệ thống máu và cơ
4
quan tạo máu, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ tiêu hóa, hệ tiết niệu và hệ thống thần kinh.
Với những nội dung trên môn sinh lý bệnh học là môn học cơ sở của ngành thú y,
có liên quan chặt chẽ với nhiều môn học khác như: sinh lý gia súc, sinh hóa học, dược
lý học, vi sinh vật học và các môn lâm sàng thú y như: bệnh nội khoa, chẩn đoán bệnh,
bệnh ký sinh trùng, bệnh truyền nhiễm, bệnh sản khoa...
Đặc biệt sinh lý bệnh và giải phẫu bệnh là hai cấu thành của môn Bệnh lý học, là
hai môn học có cùng chung một đối tượng nghiên cứu nhưng sinh lý bệnh chủ yếu
nghiên cứu những biến đổi về cơ năng, còn giải phẫu bệnh thì nghiên cứu những biến
đổi về hình thái trên cơ thể bệnh.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN SINH LÝ BỆNH THÚ Y
Phương pháp nghiên cứu của môn sinh lý bệnh học là phương pháp thực nghiệm,
một phương pháp rất khách quan và khoa học. Phương pháp này tiến hành gây bệnh
nhân tạo trên cơ thể động vật, sau đó quan sát toàn bộ quá trình diễn biến của bệnh,
cuối cùng phân tích và rút ra quy luật chung của quá trình bệnh lý. Trong phương pháp
thực nghiệm, thường sử dụng hai phương pháp là phương pháp thực nghiệm cấp tính
hay còn gọi là cấp diễn và phương pháp thực nghiệm mãn tính hay còn gọi là trường
diễn.
3.1. Phương pháp thực nghiệm cấp tính (cấp diễn)
Phương pháp này thường phân tích các chức năng của các cơ quan riêng biệt, có
khi cô lập ra khỏi cơ thể để nghiên cứu, tức là làm nhanh có kết quả ngay để có thể
nắm được các quy luật Người ta thường sử dụng phương pháp này trong một số trường
hợp chẩn đoán nhanh và dùng để giảng dạy cho sinh viên.
Ví dụ: Người ta thường cô lập tim ếch hoặc cô lập một đoạn ruột để nghiên cứu.
Ưu điểm: phương pháp này tương đối đơn giản, quan sát biến đổi về cơ năng
trong một thời gian ngắn.
Nhược điểm: Gây tổn thương trên cơ thể bệnh, kích thích từng cơ quan riêng biệt
một cách nhân tạo, thậm chí còn tách rời một số cơ quan khỏi cơ thể hoặc tiến hành
nghiên cứu dưới điều kiện gây mê. Trong những điều kiện thực nghiệm như vậy thì
không thể biểu hiện được bản chất của bệnh một cách đầy đủ, kết quả thu được không
sát so với khi con vật hoạt động bình thường 
pdf 63 trang thiennv 10/11/2022 5720
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Sinh lý bệnh thú y (Phần 1) - Nguyễn Quang Tuyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_sinh_ly_benh_thu_y_phan_1_nguyen_quang_tuyen.pdf

Nội dung text: Giáo trình Sinh lý bệnh thú y (Phần 1) - Nguyễn Quang Tuyên

  1. đều tác động lên cơ thể sinh ra hậu quả là bệnh. Bất cứ một bệnh nào cũng đều có nguyên nhân nhất định gây nên. Mặc dù hiện nay rất nhiều bệnh chưa tìm được nguyên nhân nhưng ai cũng tin rằng bất cứ bệnh nào cũng phải có nguyên nhân. - Có nguyên nhân nhưng không nhất thiết phát sinh ra hậu quả (tức bệnh) nếu không có điều kiện thuận lợi. Như trên ta đã nói về mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện, trong đó điều kiện phát huy tác dụng quyết định của nguyên nhân. Song cũng cần phải hiểu rõ rằng, trong sinh học nói chung cũng như trong y học nói riêng, vì tính chất phức tạp của hiện tượng sống, phản ứng của sinh vật còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà trình độ khoa học, kỹ thuật hiện nay còn chưa phát hiện và kiểm soát được. Cho nên đáp ứng của sinh vật đối với yếu tố gây bệnh có thể thay đổi tuỳ theo điều kiện bên ngoài cũng như bên trong. Điều kiện bên ngoài thì muôn hình muôn vẻ, còn điều kiện bên trong thì vô cùng phức tạp cho nên tính phản ứng thường thay đổi theo từng cơ thể. Do vậy, cùng một nguyên nhân trong những điều kiện nhất định thì tác động gây nên bệnh nhưng ở những điều kiện khác thì lại không gây ra bệnh. Cùng một nguyên nhân, có thể có những hậu quả khác nhau tuỳ theo điều kiện, ví dụ: bệnh cúm ở người, khỉ điều kiện sống như nhau nhưng tuỳ thuộc vào từng cá thể mà có người bị nặng, có người bị nhẹ, có người không mắc bệnh. Cùng một nguyên nhân tuỳ nơi tác động và tuỳ theo đáp ứng của cơ thể mà hậu quả (là bệnh) có thể khác nhau, ví dụ: Tụ cầu khuẩn có thể gây nên áp xe khi vào da, gây nên ỉa lỏng khi vào ruột và gây nhiễm khuẩn huyết khi vào máu. - Một hậu quả (triệu chứng bệnh) có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra như viêm, sốt là những quá trình bệnh lý điển hình, trong đó các triệu chứng rất dễ dàng được xác định song lại do rất nhiều nguyên nhân gây nên: cảm lạnh cũng dẫn đến sốt; chấn thương cũng gây nên sốt. Chính đây là khó khăn thường gặp khi đi từ những triệu chứng tới xác định được bệnh và nguyên nhân gây bệnh, đời hỏi phải có phương pháp suy luận đúng đắn và logic để phân biệt giữa hiện tượng và bản chất. Như vậy một quan niệm khoa học về bệnh nguyên học phải có tính chất toàn diện, nhìn nhận cả vai trò của nguyên nhân, điều kiện cũng như thề tạng. Song mỗi một yếu tố có tầm quan trọng và vị trí nhất định trong quá trình gây bệnh. Ngăn ngừa nguyên 16 nhân, hạn chế tác dụng của điều kiện gây bệnh, tăng cường hoạt động tết của thể tạng, đó là những mặt hoạt động tích cực, là điều kiện quan trọng trong công tác điều trị và phòng bệnh. Điều trị không chỉ tìm ra được nguyên nhân mà còn phải thấy được cả những điều kiện trong đó bệnh cảnh diễn ra. 2.4. Phân loại các yếu tố bệnh nguyên 2.4.1. Yếu tố bệnh nguyên bên ngoài 2.4.1.1. Yếu tố cơ học Chủ yếu là chấn thương cho các mô bào và các cơ quan, hệ thống của cơ thể. Hậu quả tại chỗ bị tổn thương, mất máu, nhiễm khuẩn thứ phát và hậu quả toàn thân là cơ thể bị sốc. 2.4.1.2. Yếu tố lý học - Nhiệt độ: + Nếu nhiệt độ quá 500C có thể gây biến tính các protein và men trong tế bào, ảnh hưởng xấu tới chức năng hoặc gây chết tế bào. + Nếu nhiệt độ quá cao: gây viêm, bỏng hoặc cháy tại chỗ tiếp xúc; + Nếu nhiệt độ đủ cao và tác đụng lên toàn thân: gây nhiễm nóng;
  2. + Nhiệt độ quá lạnh gây tê cóng, hoại tử tại chỗ tiếp xúc hoặc gây nhiễm lạnh khi tác động lên toàn thân. - Tia phóng xạ: Gây huỷ hoại các men tế bào, tác hại tương tự nhiệt độ trên 500C nhưng chủ yếu là tác hại lên ADN, nhất là khi tế bào đang phân chia (như tế bào non ở tuỷ xương). Cơ chế tác động: tia.xạ với năng lượng mang theo chúng tạo ra các sản phẩm ton hóa và các gốc tự do, gây rối loạn chuyển hóa cho tế bào, kể cả gây chết tế bào. - Dòng điện: tuỳ thuộc diện tiếp xúc rộng hay hẹp và điện trở thấp hay cao. + Tuỳ thuộc vào điện áp: điện áp càng cao thì càng nguy hiểm, nhất là từ 220V trở lên. + Tuỳ thuộc vào dòng điện: dòng một chiều tác dụng rất nhanh; dòng xoay chiều: tần số 25-50 rất nguy hiểm. + Có thể gây bệnh tại chỗ (bỏng) hay toàn thân. + Tuỳ thuộc cơ quan (nếu dòng điện qua tim, não gây nguy hiểm; qua cơ gây co cứng). + Tuỳ thuộc vào khả năng điện ly của các dịch trong cơ thể. 2.4.1.3. Yếu tố hóa học và độc chất Tuỳ bản chất hóa học và liều lượng của hóa chất mà có thể gây bệnh tại chỗ (nơi 17 tiếp xúc) hay toàn thân (khi xâm nhập vào cơ thể) với các cơ chế rất khác nhau. - Hai cách tác động chủ yếu là gây tổn thương, phá huỷ (hoại tử, tan huyết ), hoặc gây rối loạn chuyển hóa, suy giảm hay kích thích quá mức chức năng cơ quan (ngộ độc, suy thận, suy gan, hôn mê, co giật ). Các axit mạnh, kiềm mạnh và một số chất khác có thể gây bỏng, cháy, hoại tử da và niêm mạc khi tiếp xúc. - Nhiều chất có tác dụng huỷ men trong tế bào, hoặc gây ngộ độc toàn thân do làm rối loạn chuyển hóa (với các cơ quan đích khác nhau nhất là các cơ quan tích luỹ và đào thải chúng như gan, thận) với mức độ, hậu quả khác nhau. - Các chất hóa học bao gồm: + Chất vô cơ (chì, hợp chất thuỷ ngân, arsenic ); + Các chất hữu cơ (benzen, phenylhydrazin, một số dược chất nếu quá liều ); + Một số sản phẩm của động vật hay thực vật (nọc rắn, nọc bò cạp, chất độc trong mật cá trắm, gan cóc, trong một số nấm độc, lá ngón, lá han ). 2.4.1.4. Yếu tố sinh học Bao gồm các loại sinh vật, vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, côn trùng. Tuỳ theo nguyên nhân gây bệnh mà người ta xếp vào hai loại bệnh đó là: - Bệnh truyền nhiễm - Bệnh ký sinh trùng 2.4.2. Yếu tố bệnh nguyên bên trong 2.4.2.1. Yếu tố di truyền Đó là những biến đổi bệnh lý thông qua cơ chế di truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau qua tế bào sinh dục mang đến bệnh. Qua nghiên cứu người ta đã thấy, một số bệnh phát sinh là do thiếu một số tiền chỉ huy tổng hợp nên các loại men, mà thiếu các men ấy sẽ phát sinh ra bệnh. Ví dụ: Bệnh phenylxeton niệu là do thiếu men pHrahyđroxylaza nên phenylalanin không chuyển thành tyrôxin được mà phân huỷ thành phenylxeton và được đào thải ra ngoài qua nước tiểu. Yếu tố di truyền có thể cũng là điều kiện để cho bệnh phát sinh. Ở một số con giả súc cái ấy không biểu hiện ra bệnh nhưng mang gen lặn trong
  3. nhiễm sắc thể. Ví dụ trên lặn mang bệnh có ký hiệu là x+, đen không bệnh ký hiệu là x, con cái có ký. hiệu là Xx+, con đực không có bệnh có ký hiệu là XY. Ta có sơ đồ sau: 18 Như vậy 1/2 số con đực (x+Y) sinh ra mắc bệnh 1/2 số con cái (x+X) sinh ra mang gen bệnh Nếu cả con đực và cái mang đến bệnh thì khi chúng giao phối ta có sơ đồ sau: Như vậy ta thấy: 1/2 số con đực sinh ra mắc bệnh (x+Y) 112 số con cái sinh ra mắc bệnh (x+x+) 1/2 số con cái sinh ra mang đến bệnh (x+X) Tóm lại chỉ có 1/4 số con sinh ra là khoẻ mạnh và 3/4 số con khác là mắc bệnh hoặc mang đến bệnh. Lưu ý: Có một số trường hợp trước không bị bệnh nhưng do bị đột biến trên sau khi bị chất phóng xạ hoặc bị nhiễm độc hóa học đã trở thành người mang đến bệnh và di truyền được. 2.4.2.2. Yếu tố thể tạng Thể tạng có thể định nghĩa như là tổng hợp các đặc điểm chức năng và hình thái của cơ thệ. Những đặc điểm này khá bền vững, được hình thành trên cơ sở tính di truyền và quyết định những.phản ứng của cơ thể đối với tác nhân bên ngoài trong quá trình sống. Như vậy thể tạng có tính chất rất phức tạp trong đó yếu tố di truyền đóng vai trò chủ chốt, quyết định. Trước một yếu tố gây bệnh, những cơ thể có thể tạng khác nhau sẽ có đáp ứng khác nhau hay nói cách khác thể tạng là cơ sở vật chất của tính phản ứng và chịu ảnh hưởng của một số yếu tố nhất định như chủng loại, giới tính, tuổi tác, hoạt động của hệ thần kinh, nội tiết và môi trường mà trong đó con vật sinh sống. Cho nên thay đổi môi trường sống có thể làm thay đổi phản ứng tính của cơ thể và do đó làm thay đổi phần nào thể tạng. Ví dụ: Bệnh chậm thể tạng giống như bệnh Eczema do cơ thể thích hợp với một loại nấm nào đó, cho nên không thể chữa được nhưng không lây lan sang người khác, mà nó được di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. 3. ĐẠI CƯƠNG VỀ BỆNH SINH HỌC 3.1. Định nghĩa 19 Bệnh sinh học hay sinh bệnh học (Pathogenesis) là môn khoa học nghiên cứu những quy luật cơ bản của sự phát sinh, phát triển, diễn biến và kết thúc của một quá trình bệnh lý hay cơ chế sinh bệnh. Đối với mỗi một bệnh như ta đã biết đều có một nguyên nhân nhất định tác động và sau đó là sự phát sinh diễn biến của bệnh. Vì vậy nắm được cơ chế sinh bệnh là yêu cầu cơ bản trong công tác phòng trị bệnh, trên cơ sở đó có thể ngăn chặn sớm được những diễn biến xấu của bệnh, hạn chế được tác hại, đồng thời xác định những biện pháp tích cực để bảo vệ đàn vật nuôi. 3.2. Ảnh hưởng của bệnh nguyên tới quá trình bệnh sinh Cùng một yếu tố bệnh nguyên nhưng bệnh sinh có thể thay đổi tuỳ theo cường độ, liều lượng, thời gian tác dụng và vị trí tác dụng của bệnh nguyên. 3.2.1. Ảnh hưởng của cường độ và đều lượng bệnh nguyên Có rất nhiều bằng chứng và ví dụ trong thực tiễn nói lên hai yếu tố này của bệnh nguyên ảnh hưởng lớn tới quá trình bệnh sinh. Cùng tác động vào một vị trí trên cơ thể nhưng cường độ dòng điện hoặc các tác nhân vật lý khác như nhiệt độ, tia xạ, ánh sáng, lực cơ học mạnh hay yếu sẽ làm
  4. bệnh diễn ra rất khác nhau. - Cùng một chất độc, cùng một đường xâm nhập nhưng liều lượng khác nhau (lớn hay nhỏ) sẽ gây ra những bệnh có diễn biến khác nhau. - Cùng một loại vi khuẩn, nếu độc lực hay số lượng khác nhau cũng làm bệnh sinh diễn ra không giống nhau. Các tác nhân hóa học và sinh học khác cũng có ảnh hưởng tương tự. - Những yếu tố vốn không gây bệnh lại có thể gây bệnh nếu cường độ và số lượng đạt một ngưỡng nào đó. âm thanh có cường độ cao, hoặc không khí có áp lực quá ngưỡng đều trở thành những yếu tố bệnh nguyên rất hiệu quả. 3.2.2. Thời gian tác dụng của bệnh nguyên Những yếu tố bệnh nguyên có cường độ cao hay liều lượng lớn thường chỉ cần thời gian ngắn cũng đủ làm bệnh phát sinh. Nếu cường độ thấp hơn hoặc liều lượng nhỏ hơn thì thường cần thời gian tác động dài hơn. Nhưng điều đáng lưu ý là diễn biến của bệnh cũng thường thay đổi. Ví dụ: khi ăn lạc bị mốc trong thời gian dài có thể dẫn tới mắc bệnh ung thư; tiếng ồn dù cường độ không cao nhưng nếu cứ tác động liên tục ngày đêm lên cơ quan thính giác sẽ gây bệnh và diễn biến của bệnh khác hẳn trường hợp cơ thể chịu một âm thanh cường độ quá cao (tiếng nổ). Tương tự như vậy, tác dụng lặp đi lặp lại nhiều lần của một yếu tố bệnh nguyên dù chưa đạt ngưỡng cũng có thể sinh bệnh (lượn, mất ngủ). 20 3.2.3. Vị trí tác dụng của bệnh nguyên Mỗi cơ quan của cơ thể phản ứng khác nhau với cùng một bệnh nguyên. Mặt khác, tầm quan trọng sinh học của mỗi cơ quan cũng không giống nhau. Do vậy, vị trí tác động của bệnh nguyên trên cơ thể ảnh hưởng rất rõ tới bệnh sinh. Bệnh cảnh, diễn biến của bệnh lao rất khác nhau, tuỳ theo đó là lao phổi, lao xương, lao thận hay lao màng não tuy bệnh nguyên là một. - Bệnh nguyên dù cùng một cường độ và liều lượng nhưng gây được bệnh hay không, nặng hay nhẹ, cấp tính hay mãn tính còn tuỳ thuộc vị trí tác động. ánh sáng chói chỉ gây được bệnh nếu chiếu vào võng mạc mà không phải vào đâu khác. Chấn thương vào đầu có bệnh cảnh khác hẳn vào cơ bắp hay vào xương. Dòng điện chạy qua tim hoặc qua não gây hậu quả khác hẳn qua các chi. Ví dụ: Bệnh lậu ở người: khi cầu khuẩn lậu tác dụng ở đường sinh dục gây viêm mãn tính, còn khi cầu khuẩn lậu ở giác mạc mắt gây viêm cấp tính. 3.2.4. Đường lây lan của nguyên nhân bệnh trong cơ thể Đường lây lan thường phụ thuộc vào tính chất của nguyên nhân bệnh và vị trí sinh bệnh. Thông thường bệnh nguyên lan theo ba đường chính: , - Lan theo tổ chức: từ nơi phát bệnh lan rộng ra vùng lân cận tiếp giáp. - Lan theo dịch thể: thường các yếu tố bệnh nguyên là độc tố, vi khuẩn, vi rút lan theo dịch lâm ba, máu đến toàn thân. - Lan theo thần kinh: các yếu tố bệnh nguyên còn là những xung động đau. Các loại vi rút như vi rút bệnh dại, độc tố uốn ván lan theo thần kinh. Trong thực tế khi bệnh phát sinh thì yếu tố bệnh nguyên có thể lan theo nhiều đường chứ không phải lan theo một đường riêng biệt, vì trong kết cấu tổ chức của cơ thể sinh vật nơi nào cũng có mặt các hệ thống mạch quản, thần kinh và mạch lâm ba. Vì vậy, chúng ta phải xem xét những bệnh nào lan theo đường nào là chủ yếu để biết và kịp thời ngăn chặn.
  5. 3.3. Quan hệ giữa cục bộ và toàn thân trong quá trình bệnh sinh Theo thuyết thần kinh của Páp-lốp thì cơ thể là một khối thống nhất, các cơ quan, mô bào đều có sự liên hệ chặt chẽ với nhau và chịu sự điều tiết chung của thần kinh. Bất cứ một cơ thể nào, hoạt động nào cũng đều chịu sự điều tiết chung của vỏ não. Vì vậy các quá trình bệnh lý dù xảy ra ở bộ phận cục bộ nào cũng phụ thuộc vào trạng thái chung của cơ thể và ngược lại thông qua cung phản xạ nó ảnh hưởng tới toàn thân. 3.3.1. Mối Liên hệ giữa toàn thân và cục bộ Toàn thân khoẻ mạnh thì sức đề kháng tại chỗ cũng sẽ tốt hơn, do đó yếu tố gây bệnh khó xâm nhập hoặc nếu có vào được thì cũng nhanh chóng bị tiêu diệt hoặc bị đào thải ra ngoài. Ngoài ra, ta thấy tuổi có liên quan đến sức đề kháng. Tuổi trưởng 21 thành cơ thể khoẻ mạnh, vết thương mau lành, phản ứng nhanh, tuổi già dễ mắc bệnh, phản ứng kém, vết thương lâu lành. 3.3.2. Mối liên hệ giữa cục bộ và toàn thân Bất kỳ một tổn thương nào (viêm nhiễm) ở cục bộ cũng đều ảnh hưởng tới toàn thân, đầu tiên thấy đau, cơ thể mệt mỏi, các chất độc tại ổ viêm sẽ ngấm vào cơ thể gây trạng thái nhiễm độc. Thành phần của máu thay đổi, nếu bạch cầu đa nhân trung tính mà tăng lên thì nhất định sẽ bị viêm nhiễm ở một nơi nào đó và gây sốt toàn thân, đồng thời làm thay đổi hoạt động của hệ thống nước tiểu. Như vậy, khi cục bộ bị tổn thương thì tất cả các cơ quan khác tăng cường hoạt động, cơ quan hô hấp thay đổi, cơ quan tiêu hóa giảm, tiết sữa giảm vì tất cả tập trung lực lượng vào đấu tranh bảo vệ cơ thể. Vì vậy có thể nói bất kỳ một quá trình bệnh lý nào cũng biểu hiện tại chỗ của tình trạng bệnh lý toàn thân. Ý nghĩa: Nắm được điều này giúp ta chăm sóc hộ lý tốt hơn. 3.4. Vòng bệnh lý Bệnh diễn ra theo trình tự gồm các bước (gọi là các khâu) nối tiếp nhau theo cơ chế phản xạ, khâu trước là tiền đề tạo điều kiện cho khâu sau hình thành và phát triển, cho tới khi bệnh kết thúc, như sơ đồ sau: Nhiều trường hợp, một khâu nào đó ở phía sau lại trở thành tiền đề (nuôi dưỡng) cho một khâu trước đó: từ đó hình thành một vòng bệnh lý, với đặc điểm là có khả năng tự duy trì. Vòng này có thể diễn biến cấp tính hoặc kéo dài. Trong đa số trường hợp, vòng bệnh lý làm cho quá trình bệnh sinh ngày càng nặng hơn, có thể quan sát dễ dàng qua các biểu hiện lâm sàng. Xem sơ đồ dưới đây: Thường thì vòng bệnh lý không tự mất đi mà cần có sự can thiệp. Khi phát hiện vòng bệnh lý cần tìm cách cắt đứt nhiều khâu, nhất là khâu chính. Sau đây là một vài ví dụ: - Ở bệnh lợn đóng dấu mãn tính, vi khuẩn lợn đóng dấu gây viêm nội tâm mạc, loét sùi van tim, do đó ảnh hưởng tới tuần hoàn chung gây thiếu oxy. Từ thiếu oxy gây 22 rối loạn chuyển hóa rồi tác động trở lại gây phì đại tim dẫn đến suy tim. Khi suy tim dẫn đến thiếu oxy và lặp lại thành vòng kín. - Khi đột ngột mất đi 20% lượng máu, cơ thể sẽ huy động một loạt biện pháp do hệ giao cảm và hệ tim mạch chi phối nhằm bù đắp một phần khối lượng máu, duy trì huyết áp ở mức cần thiết tối thiểu, đảm bảo cơ bản về lưu lượng tuần hoàn và nhu cầu oxy cho các cơ quan quan trọng nhất. Cơ thể thích nghi dần, vòng bệnh lý sẽ không hình thành trong thời gian chờ đợi tuỷ xương sản xuất đủ lượng hồng cầu cần thiết.
  6. Nếu mất tới 40% lượng máu, các biện pháp trên chỉ giúp cơ thể thích nghi được một thời gian ngắn và mẫu thuẫn sẽ phát sinh, hệ tim mạch bị quá tải chức năng lại kém được nuôi dưỡng. Có thể thấy huyết áp tụt dần, mạch nhanh và yếu dần, kèm theo tình trạng lơ mơ, da lạnh, thể trạng xấu dần đi Để ra khỏi tình trạng trên, hệ giao cảm và tuần hoàn lại càng phải tăng công suất. Như vậy vòng bệnh lý đã hình thành. Ý nghĩa: Nắm được sự tiến triển của bệnh, ta có thể phát hiện được khâu chính trong quá trình sinh bệnh và có tác động cần thiết ngăn cản diễn biến xấu của vòng bệnh lý. Qua đây thấy rằng khâu chăm sóc hộ lý nhằm cắt được vòng bệnh lý đi là khâu vô cùng quan trọng. 3.5. Các hiện tượng bệnh lý Trong một cơ thể bị bệnh ta có thể nhìn thấy được nhiều hiện tượng bệnh lý khác nhau. Chúng ta cần phải phân biệt và xác định những hiện tượng đó một cách chính xác. Các hiện tượng đó là: 3.5.1. Phản ứng bệnh lý Phản ứng bệnh lý là phản ứng của tế bào, của tổ chức hay cơ quan đối với tác nhân gây bệnh với cường độ và chất lượng vượt ra ngoài giới hạn bình thường. Ví dụ: Khi bị lạnh, cơ thể phản ứng lại bằng cách co mạch giảm thải nhiệt, tăng sản nhiệt trong cơ thể, đó là phản ứng sinh lý. Nếu co mạch quá mức dẫn đến thiếu máu từ đó dẫn đến hoại tử cơ. Nhưng nếu trung tâm điều hoà nhiệt bị rối loạn dẫn đến hoạt động quá mức của cơ quan sinh nhiệt thì sinh ra sốt, còn trong một số bệnh khác thì biểu hiện ho, nôn ve thực chất đó là phản ứng bảo vệ sinh lý nhưng nếu quá mức thì sẽ gây bệnh. 23 3.5.2. Quá trình bệnh lý Quá trình bệnh lý là một phức hợp gồm nhiều phản ứng bệnh lý. Ví dụ: Trong quá trình viêm người ta thấy có phản ứng vận mạch (co, giãn mạch), phản ứng tăng sinh tế bào, phản ứng của thần kinh Trong quá trình sốt ngoài phản ứng tăng sản nhiệt còn có nhiều phản ứng nhằm giảm thải nhiệt. Quan niệm về quá trình bệnh lý có tính chất động, nó bao gồm cả quá trình diễn biến của bệnh. 3.5.3. Trạng thái bệnh lý Là một quá trình bệnh lý biến chuyển chậm, kéo dài thành cố tật. Ví dụ: Những người bị liệt, những người bị viêm khớp sau khi khỏi để lại vết viêm làm cho khớp không cử động được nữa hoặc là viêm vú làm cho tuyến vú teo đi không cho sữa. 3.6. Các giai đoạn phát triển của bệnh Trong quá trình phát triển của bệnh, cơ thể có những biến đổi khác với khi ở trạng thái bình thường. Đặc trưng cho những biến đổi đó là triệu chứng. Khi các nguyên nhân gây bệnh tác động gây những biến đổi trong cơ thể biểu hiện ra bên ngoài gọi là triệu chứng. Hoặc triệu chứng là những biểu hiện của động vật sống được quan sát và miêu tả như bỏ ăn, ỉa chảy, bồn chồn, mất nước và là kết quả của những biến đổi tổ chức. Triệu chứng của bệnh thì muôn hình, muôn vẻ, nó bao gồm nhiều biến đổi về hoạt động, về chức năng, biến đổi về chuyển hóa vật chất, biến đổi về thân nhiệt, về hô hấp, về tim mạch đến những thay đổi về thành phần của máu, nước tiểu và cơ, sự biến đổi về hình thái của cơ quan hay tổ chức. Triệu chứng thay đổi tuỳ theo các loại bệnh khác nhau, tuỳ theo từng giai đoạn
  7. phát triển của bệnh. Triệu chứng phụ thuộc vào đặc điểm cơ thể vào lứa tuổi vào quá trình phát triển của bệnh, phụ thuộc vào môi trường ngoại cảnh bên ngoài. Nhìn chung quá trình phát triển của bệnh không những diễn biến theo những quy luật nhất định mà quá trình này còn có tính chất giai đoạn nhất định. Người ta thường chia ra bốn thời kỳ cơ bản trong quá trình phát triển của bệnh. Sự phân chia này có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu và giúp cho việc phòng trị bệnh được chính xác hơn. Tuy nhiên, việc định ra ranh giới các thời kỳ một cách rõ ràng chính xác là rất khó khăn, cho nên sự phân chia ra các thời kỳ cũng chỉ là tương đối trong quá trình phát triển liên tục của bệnh. Dựa vào các triệu chứng người ta phân chia ra thành các thời kỳ phát triển của bệnh như sau: 3.6.1. Thời kỳ nung bệnh (thời kỳ ủ bệnh) Thời kỳ nung bệnh được bắt đầu từ khi nguyên nhân bệnh xâm nhập vào cơ thể 24 hoặc là nguyên nhân bệnh bắt đầu phát huy tác dụng cho đến khi mà cơ thể có những phản ứng đầu tiên. Lúc này nguyên nhân bệnh chưa đủ số lượng và độc lực để làm cho bệnh phát triển, đồng thời sức đề kháng của cơ thể còn mạnh, vì thế chưa có những phản ứng biểu hiện của bệnh. Cơ thể cũng có thể tiêu diệt nguyên nhân bệnh, bệnh không phát hoặc có thể tiến triển sang một giai đoạn khác. Thời kỳ này dài hay ngắn là phụ thuộc vào các yếu tố sau đây: - Số lượng, độc lực và cường độ tác động của nguyên nhân bệnh. - Trạng thái cơ thể và tính mẫn cảm của cơ thể đối với sự tác động của nguyên nhân. - Vị trí mầm bệnh xâm nhập. - Điều kiện ngoại cảnh (cả điều kiện bên ngoài: thời tiết khí hậu, chế độ dinh dưỡng, chế độ chăm sóc quản lý ). Bảng 1. Thời kỳ ủ bệnh của một số bệnh truyền nhiễm Bệnh Thời gian ủ bệnh ngắn nhất Thời gian ủ bệnh dài nhất Thời gian ủ bệnh trung bình Nhiệt thán Ung khí thán Tụ huyết trùng Sẩy thai truyền nhiễm Lao 2-4 giờ 4-6 giờ 4-6 giờ 5-7 giờ 6-7 ngày 14-15 ngày 14-15 ngày 6-8 ngày 1-2 tháng