Giáo trình Nấm học - Nguyễn Văn Bá

Chương 1
ĐẠI CƯƠNG VỀ NẤM MỐC
Nấm mốc (fungus, mushroom) là vi sinh vật chân hạch, ở thể tản (thalophyte),
tế bào không có diệp lục tố, sống dị dưỡng (hoại sinh, ký sinh, cộng sinh), vách tế bào
cấu tạo chủ yếu là chitin, có hay không có celuloz và một số thành phần khác có hàm
lượng thấp.
Nấm học (Mycology) được khai sinh bỡi nhà thực vật học người Ý tên là Pier
Antonio Micheli (1729) qua tài liệu công bố “giống cây lạ” (Nova Plantarum Genera)
nhưng theo Giáo sư Ekriksson Gunnan (1978) thì người có công nghiên cứu sâu về
nấm mốc lại là Elias Fries (1794 - 1874).
Theo Elizabeth Tootyll (1984) nấm mốc có khoảng 5.100 giống và 50.000 loài
được mô tả, tuy nhiên, ước tính có trên 100.000 đến 250.000 loài nấm hiện diện trên
trái đất.
Nhiều loài nấm mốc có khả năng ký sinh trên nhiều ký chủ như động vật, thực
vật, đặc biệt trên con người, cây trồng, vật nuôi, sản phẩm sau thu hoạch chưa hoặc đã
qua chế biến, bảo quản. Một số là tác nhân gây bệnh, làm hư các thiết bị thủy tinh bảo
quản không tốt nhưng cũng có nhiều loài có ích như tổng hợp ra acit hữu cơ, thuốc
kháng sinh, vitamin, kích thích tố tăng trưởng thực vật đã được đưa vào sản xuất công
nghiệp và có một số nấm được dùng làm đối tượng nghiên cứu về di truyền học.
1.Hình dạng, kích thước, cấu tạo của nấm mốc
1.1 Hình dạng và kích thước
Một số ít nâm ở thể đơn bào có hình trứng (yeast=nấm men), đa số có hình
sợi (filamentous fungi=nấm sợi), sợi có ngăn vách (đa bào) hay không có ngăn vách
(đơn bào). Sợi nấm thường là một ống hình trụ dài có kích thước lớn nhỏ khác nhau
tùy loài. Đường kính của sợi nấm thường từ 3-5µm, có khi đến 10µm, thậm chí đến
1mm. Chiều dài của sợi nấm có thể tới vài chục centimet. Các sợi nấm phát triển chiều
dài theo kiểu tăng trưởng ở ngọn (Hình 1.1). Các sợi nấm có thể phân nhánh và các
nhánh có thể lại phân nhánh liên tiếp tạo thành hệ sợi nấm (mycelium) khí sinh xù xì
như bông. Trên môi trường đặc và trên một số cơ chất trong tự nhiên, bào tử nấm, tế
bào nấm hoặc một đoạn sợi nấm có thể phát triển thành một hệ sợi nấm có hình dạng
nhất định gọi là khuẩn lạc nấm (Hình 1.2) 
pdf 112 trang thiennv 10/11/2022 3580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Nấm học - Nguyễn Văn Bá", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nam_hoc_nguyen_van_ba.pdf

Nội dung text: Giáo trình Nấm học - Nguyễn Văn Bá

  1. Giáo trình Nấm học: Biên soạn PGs. Ts. Nguyễn văn Bá Hình 3.2.1 Các kiểu hình thành tiếp hợp tử ở Mucoraceae. a-f. Rhizopus. g-h. Zygorhynchus, i. Absidia, j. Phycomyces (theo Talbot, 1995) Hình 1.13. Bào tử nang ở Saccharomyces cerevisiae (theo Samson và ctv. 1995) Hình 1.14. Các kiểu bào tử đảm. a. Astrea, b. Bovista, c. Agaricales, d. Clavulina, e. Dacrymyces, f. Sistotrema, g. Repetobasidium, h. Xenasma, i-n. bào tử đảm có vách, n. Puccinia. (theo Kreisel, 1995) 9
  2. Giáo trình Nấm học: Biên soạn PGs. Ts. Nguyễn văn Bá 4. Vị trí và vai trò của nấm mốc Nấm mốc có ảnh hưởng xấu đến cuộc sống con người một cách trực tiếp bằng cách làm hư hỏng, giảm phẩm chất lương thực, thực phẩm trước và sau thu hoạch, trongchế biến, bảo quản. Nấm mốc còn gây hư hại vật dụng, quần áo hay gây bệnh cho người, động vật khác và cây trồng. Tuy nhiên, các qui trình chế biến thực phẩm có liên quan đến lên men đều cần đến sự có mặt của vi sinh vật trong đó có nấm mốc. Nấm mốc cũng giúp tổng hợp những loại kháng sinh (penicillin, griseofulvin), acit hữu cơ (acit oxalic, citric, gluconic ), vitamin (nhóm B, riboflavin), kích thích tố (gibberellin, auxin, cytokinin), một số enzim và các hoạt chất khác dùng trong công nghiệp thực phẩm và y, dược đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Ngoài ra, nấm còn giử vai trò quan trọng trong việc phân giải chất hữu cơ trả lại độ mầu mỡ cho đất trồng. Một số loài thuộc giống Rhizopus, Mucor, Candida gây bệnh trên người, Microsporum gây bệnh trên chó, Aspergillus fumigatus gây bệnh trên chim; Saprolegnia và Achlya gây bệnh nấm ký sinh trên cá. Những loài nấm gây bệnh trên cây trồng như Phytophthora, Fusarium, Cercospora đặc biệt nấm Aspergilus flavus và Aspergillus fumigatus phát triển trên ngũ cốc trong điều kiện thuận lợi sinh ra độc tố aflatoxin. Bên cạnh tác động gây hại, một số loài nấm mốc rất hữu ích trong sản xuất và đời sống như nấm ăn, nấm dược phẩm (nấm linh chi, Penicillium notatum tổng hợp nên penicillin, Penicillium griseofulvum tổng hợp nên griseofulvin ), nấm Aspergillus niger tổng hợp các acit hữu cơ như acit citric, acit gluconic, nấm Gibberella fujikuroi tổng hợp kích thích tố gibberellin và một số loài nấm thuộc nhóm Phycomycetina hay Deuteromycetina có thể ký sinh trên côn trùng gây hại qua đó có thể dùng làm thiên địch diệt côn trùng. Ngoài ra, những loài nấm sống cộng sinh với thực vật như Nấm rễ (Mycorrhizae), giúp cho rễ cây hút được nhiều hơn lượng phân vô cơ khó tan và cung cấp cho nhu cầu phát triển của cây trồng. Nấm còn là đối tượng nghiên cứu về di truyền học như nấm Neurospora crassa, nấm Physarum polycephalum dùng để tổng hợp ADN và những nghiên cứu khác. 5. Phân loại nấm mốc Đầu tiên, nấm được sắp xếp theo tiến hóa như mô hình dưới đây: (Hình 1.15) Dayal (1975) liệt kê 7 đặc tính để phân loại nấm mốc như sau: 1) đặc điểm hình thái 2) ký chủ đặc thù 3) đặc điểm sinh lý 4) đặc điểm tế bào học và di truyền học 5) đặc điểm kháng huyết thanh 6) đặc tính sinh hóa chung 7) phân loại số học 10
  3. Giáo trình Nấm học: Biên soạn PGs. Ts. Nguyễn văn Bá Hình 1.15 Cây di truyền phát sinh ngành cho thấy nấm mốc có mối liên hệ gần với thực vật (PLANTAE) và động vật (ANIMALIA) (theo Hawkswort và ctv., 1995) Theo Gwynne-Vaughan và Barnes (1937) chia nấm thành 3 lớp chính: Phycomycetes, Ascomycetes và Basidiomycetes dựa trên khuẩn ty có vách ngăn ngang hay không và đặc điểm của bào tử. Theo Stevenson (1970) đã phân loại nấm trong ngành Mycota gồm 6 lớp: Chytridiomycetes, Oomycetes, Zygomycetes, Ascomycetes, Basidiomycetes, và Deuteromycetes. Gần đây, Kurashi (1985) nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hệ thống ubiquinon trong phân loại nấm mốc cũng như ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử để khảo sát đa dạng di truyền và qua mối liên hệ di truyền phân loại lại cho chính xác hơn. 11
  4. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp Chương 2: NẤM ROI - NẤM TRỨNG (ngành phụ Chytridiomycotina) I. Lớp Nấm Roi 1.Đại cương Ngoài ngành Mycetozoa, nhóm nấm roi là một trong hai nhóm thuộc ngành giả nấm (Pseudofungi), nấm roi có động bào tử nguyên thủy với vách bằng chitin. Có thuyết cho rằng nấm roi xuất phát từ rong (algal fungi) và đã mất lục lạp?, tản thoái hóa thành túi bào tử có rễ giả (chytridium) giống như ở tổ tiên động vật nguyên sinh? 1.1Lớp Chytridiomycetes • Đặc điểm: Nấm roi chỉ có một lớp, tản đơn bào không màu với vách chitin, động bào tử một roi phía sau. Nấm roi được xem như tách khỏi các nhóm nấm khác và là nhóm nấm cổ xưa (early paleozoic time). • Sinh thái và đa dạng sinh học: Đa số sống trong nước, có mối liên hệ di truyền thể hình với một số nhóm nấm khác (Hình 2.1) (tổ tiên nấm roi) (2 roi) (1 roi sau) (1 roi t ớ ) (hai roi (roi trước dài bằng ngắn, roi nhau) sau dài) 12
  5. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp Hình 2.1. Con đường tiến hóa giả định trong các nhóm chính của nấm nước * Tản và tính đa dạng: Lớp nhỏ, thường đơn bào, hoặc sợi, tản cộng bào (coenocytic thalli), tản cổ có giá thể là hệ thống rể giả phân nhánh hoặc tế bào đáy. Thể quả hoàn toàn (holocarpic), hoặc thể quả thật (chỉ một phần tản chuyển thành cấu tạo sinh sản). Chu kỳ sinh sản Giao tử và bào tử sinh sản vô tính chuyển động bằng một chiên mao phía sau. Tùy theo cơ chế mở của túi bào tử có thể phân biệt túi bào tử không nắp (inoperculate sporangia) và túi bào tử có nắp (operculate sporangia) (Hình 2.2.). - Sinh sản vô phái: động bào tử, túi bào tử không nắp. - Sinh sản hữu phái: rất khác biệt và ở nhiều loài chưa biềt rõ. Động giao tử (planogamete) có roi phía sau, trong hầu hết nhóm đồng giao tử hoặc dộng giao tử dị giao (anisogamous planogametes) tiếp hợp, động giao tử đực hoà với giao tử cái bất động, bào tử vách dày được hình thành. Hình 2.2. a.b. Rhizophydium sphaerotheca a. túi động bào tử (z) với bào tử động b. túi bào tử động rổng (h), túi bào tử (r), túi bào tử động trưởng thành (z) ở hạt phấn thông. c. Pleotrachelus brassicae, túi bào tử động với 1-4 ống ra và túi bào tử (theo Sparrow, 1975). 13
  6. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp 3. Phân loại 3.1 Bộ Chytridiales: Hầu hết có tản nhỏ, sống trong nước, có rễ giả, giao tử di động, đẳng giao, bào tử động hình cầu nhưng khi lội thì dài ra. Có trên 500 loài đã được biết xếp lại trong Bộ lớn nhất này theo cấu tạo chi tiết của bào tử động. Đại diện Chytridium thuộc họ Chitridiaceae có túi bào tử động có nắp, ở Rhizophydium túi bào tử động không có nắp (Hình 2.2b). Hầu hết các họ có túi bào tử động không nắp là nấm ký sinh thường gặp trong đất ngập nước. Các chủng thuộc Bộ này nuôi cấy dễ dàng trên môi trường aga có ít pepton, yeat extract và glucoz. 3.2. Bộ Monoblepharidales: Đại diện Monoblepharis polymorpha, nấm hoại sinh trên thực vật và động vật, đặc biệt ở trái cây, sợi nấm phát triển nhưng không có vách ngăn ngang, túi động bào tử ở chót hình bình hẹp. Sinh sản hũu tính bằng trứng, thụ tinh với giao tử đực hình thành từ túi thành lập bên cạnh giao tử noản (Hình 2.3) Hình 2.3 Monoblepharis polymorpha, a-e. Các giai đoạn sinh sản hữu tính f. tản mang nhiều bào tử trứng dạng nang (cyst) (theo Sparrow, 1975) 3.3. Bộ Blastocladiales: Allomyces, cấp cao của nấm roi, hợp tử hình dài thành lập từ việc bắt cặp giữa hai giao tử động được phóng thích từ hai túi giao tử đực và cái riêng, Hợp tử mọc và sản sinh bào tử động, bào tử động mọc sinh ra giao tử động, cứ thế tiếp tục (Hình 2.4) Hình 2.4 Chu trình sống của Allomyces arbuscula, a. túi bào tử, b. phóng thích động bào tử, c-e. thể giao tử từ khi bào tử mọc đến mang giao tử, f. phóng thích giao tử, g-i. thành lập hợp tử động, j-k. 14 thành lập thể bào tử, z- rtúi động bàotử,l
  7. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp II. Lớp Nấm Trứng hay Nấm Noãn (Oomycetes) Aisworth (l973) đã đặt tất cả Ngành phụ Mastigomycotina vào lóp Nấm trứng, chứa những bào tử động có hai chiên mao (roi), một nằm ở đẳng sau và một ở phía trước. Lớp Nấm trứng không có chitin trong vách tế bào của chúng. Sinh sản hữu tính là noãn giao. 1. Những đặc tính chung - Lớp Nấm trứng hiện diện nhiều nơi cư trú, phần lớn chúng là những nấm sống trong môi trường nước và sống ký sinh trên tảo, nấm mốc ở nước, những côn trùng sống trong nước và những động vật khác cũng như thực vật. Một số ở dạng cao hơn sinh trưởng trong đất, ví dụ một số trong bộ Saprolegniales và Peronosporales - Hê sợi khuẩn ty hay khuẩn ty [mycelium] phân nhánh, sợi nhỏ, có chung tế bào và sinh trưởng nhiều trong chất nền. Tuy nhiên một số nấm trong lớp Nấm trứng là đơn bào - Vách tế bào có cellulose, điều này rất hiếm thấy ở hầu hết các nấm khác. Theo Bartnicki-Garcia (1970), thì vách tế bào của Lớp Nấm trứng chủ yếu gồm cellulose β- glucan, không có chitin. Tuy nhiên, Lin và ctv (1976) đã báo cáo có chitin trong Apodochlya - Phần lớn lớp Nấm trứng có hình quả thật (ecarpic), phát triển những thể sinh sản trong một số phần của tản (thallus) và tản tiếp tục chức năng như một thể bào chất (soma) - Hầu hết lớp Nấm trứng tạo bào tử động (zoospore); Bào tử động là những thể hai roi. Một roi mao ở dạng buộc theo hướng lùi về phía sau và roi khi ớ dạng kim tuyến theo hướng về phíạ trước ; Roi được gắn ở phía trước hay phía sau. Bào tử động là những thể hình quả lê hay thể hình thận và không có vách tế bào. Theo Lange và Olson (1983 ) thì những bào tử động hai chiên mao của lớp Nấm trứng lớn hơn những bào tử động một chiên mao của lớp Chytridiomycetes. - Nhiều nấm trong lớp này tao những bào tử vô tính không di động thông thường ở đầu mút hay ớ bên của một khuẩn ty phân nhánh hay không phân nhánh. Những bào tử không di đông như thế được gọi là bào tử đính hay còn gọi là bào tử (conidia) và nhánh sinh bào 15
  8. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp tứ mang những bào tử đính này được gọi là cọng mang bào tử hay túi bào tử (conidiophore). - Sinh sản giới tính là noãn giao, xảy ra bằng cách tiếp xúc túi giao tử, và kết quả là thành lập bào tử noãn (oospore). Trong Lagenidiales, sự dung hợp xảy ra giữa hai tản thể quả hoàn chỉnh có kích cỡ khác nhau. nhưng phần lớn những thành viên của bộ Saprolegniales, Peronosporales và Leptomitales sự dung hợp xảy ra giữa một túi đực (hùng cơ) và một túi noãn (noãn phòng) dạng cầu có một trứng ; Những tế bào sinh dục có lông roi không được tạo thành trong lớp Nấm trứng. 2. Phân loại lớp Nấm trứng Ainsworth (l966) chia lớp này thành bốn bộ (order) như sau: Lagenidiales, Leptomitales, Peronosporales, Saprolegniales. Tuy nhiên, Sparrow (1976) chia lớp này thành sáu bộ như sau: Eurychasmales, Saprolegniales, Lagenidiales, Peronosporales, Thraustochytriales và Labyrinthulales Lớp Oomycetes Bộ Peronosporales Họ Pythiaceae 2.1. Giống [Chi] Pythium Đây là giống lớn nhất của họ Pythiaceae, được đại diện bởi 92 loài (Waterllouse, l968) nhưng theo Waterhouse (1973) nhiều loài chỉ hiện diện trong môi trường nước như những thực vật hoại sinh trong khi đó một số có thể sống ký sinh yếu trên thực vật hay động vật sống trong nước, phần lớn loài sống trong đất, một vài loài liên quan nấm rễ, Pythium là những loài hiếm có vật chủ đặc hiệu (Rangaswamy, 1962). 16
  9. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp Hình 2.5. A, những câỵ con bình thường; B, những cây con bị ngập úng (Sharma, 1998) Một số bệnh nghiêm trọng ở những cây giống con, như bị ngập úng, thối rễ, thối cành hoa ở cây con ở đồng bằng sông Cửu Long là do những loài của Pythium gậy ra (hình 2.5). Theo Webster (l980), Pythium hiện diện thông thường trong đất canh tác hơn là ở đất tự nhiên nhất là cây con trong vườn ươm mát hay vườn rau. 2.1.1. Cấu trúc dinh dưỡng Hê sợi khuẩn ty phát triển tốt và gồm khuẩn ty mịn, phân nhánh tốt, và không tạo giác mút [giác bào] nào (haustorium); Vách khuẩn ty gồm cellulose (Alexopoulos và Mims, 1979), vật chất bên trong tế bào chất là dạng hột và chứa những giọt dầu nhỏ và glycogen, những phần cũ hơn của hệ sợi chứa tế bào chất có hốc nhỏ, những khuẩn ty còn non là cộng bào nhưng những vách chéo phát triển trong khuẩn ty trưởng thành (Hawker; 1966; Webster, 1980). Ty thể, thể lưới, mạng lưới nội chất và các ribô-thể cũng được thấy ở dưới kính hiển vi điện tứ. 2.1.2. Sinh sản vô tính Giai đoạn vô tính được thành lập bởi túi bào tử và chúng có thể ở chót hay xen giữa và có hình dạng biến đổi, chúng có thể là hình cầu, có nhiều sợi nhỏ hay phồng lên. Túi bào tử chứa nhủ trong suốt, ớ tại thời điểm phát triển của túi bào tử, phần xen giữa hay ở chót của khuẩn ty phình to ra, trở thành hình cầu và khởi đầu chức năng như túi bào tử đầu tiên (hình 2.6); Những bào tử động mới được thành lập tiếp tục di chuyển rất nhanh bên trong túi, sự di chuyển này tiếp tục trong một vài phút. Vách của túi vỡ ra nhanh như bọt khí xà phòng và các bào tử động được phóng thích theo mọi hướng. Những bào tử động có hình quả thận và là những thể hai tiên mao và hai tiên mao được gắn ở mặt bên của chúng (hình 2.6). Sau một số lần, những bào tử động bị mất chiên mao và được bao vào nang và mỗi bào tử động trong số chúng nẩy chồi bằng một ống phôi trong khuẩn ty dinh dưỡng mới và khuẩn ty mới này nhiễm vào hạt giống. 17
  10. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp Hình 2.6. Sinh sản vô tính ở nấm Pythium (Sharma, 1998) 18
  11. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp Zoospore = bào tử động Hình 2.7. Thành lập và phóng thích động bào tử ở nấm Pythium (Sharma, 1998) Tuỵ nhiên, ớ P. aphanidernatium, một ống dài phát triển từ túi bào tử (hình 2.7) và tế bào chất của túi bào tứ di chuyển vào trong túi, để tế bào chất trước vào trong tình trạng trống; Sự phân cắt tế bào chất trong những phần đơn nhân bắt đầu trong túi bào tử nhưng hoàn tất trong túi. Chiên mao (roi) bắt đầu phát triển trong túi; túi bị vỡ dẫn đến phóng thích nhũng bào tử động; Những bào tứ động lần lần rụng roi và hình thành nang hay bào tử nang (encysted zoospore). Mỗi bào tử động nảy chồi bằng một ống phôi như ở P. debaryanum, trong một số loài Pythium, khuẩn ty xen giữa có những bào tử hình cầu, vách dày được gọi là bào tử vách dày (chlamydospore), chúng nẩy chồi bằng cách tạo khuẩn ty hình ống dài. 2.1.3. Sự tiến hóa của bào tử (conidia) Pythium có những loài tạo túi bào tử và tạo bào tử và cho thấv chúng có sự chuyển tiếp rỏ ràng để hình thành túi bào tử và chứa bào tử bên trong và dỉ nhiên sẽ không tạo bào tử động. 2.1.4. Sinh sản hũu tính Sinh sản hữu tính là sự noãn giao, và xảy ra khi độ ẩm không đủ cho sinh trưởng thông thường, hai cơ quan sinh dục được gọi Ià túi giao tử đực hay hùng cơ và túi noãn hay noãn phòng và thông thường phát triển rất gần trên cùng khuẩn ty; Phần lớn các loài là đồng tản, thường thì hùng cơ phát triển dưới noãn phòng (hình 2.8). Tuy nhiên, một số loài là dị tản như P. heterothallicum và P. sylvaticum, đôi khi trong nuôi cấy những dạng dị tản, những dạng đồng tản cũng phát triển (Pratt và Green, 1973). 19
  12. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp Hình 2. 8. Sinh sản hũu tính ở nấm Pythium debarvanum (Sharma, 1998) Noãn phòng ở P. debaryanum thông thường phát triển ở tại chóp của nhánh khuẩn ty, nhưng đôi khi nó cũng xen giữa, noãn phòng có dạng hình cầu, vách trơn láng (hình 2.8) nhưng ở P. mamilatum, vách noãn phòng vẫn gấp khúc trong những nơi nhô ra dài (Drechsler, l960). 2.1.5. Thụ tinh Giống Pythium là một ví dụ điển hình của sự tiếp xúc giao tử, hùng cơ được gắn vào vách của noãn phòng và trở nên bằng phẳng, từ mỗi hùng cơ phát triển một ống thụ tinh mịn, ống này thâm nhập vào vách túi noãn và chu chất và tiếp xúc với trứng (hình 2.8). Sự giảm phân xảy ra trong hùng cơ cũng như trong noãn phòng trong thời gian trung bình, và tất cả các nhân đơn bội. Thông qua ống thụ tinh, nhân đực chức năng đi vào trong noãn cầu, tiếp xúc với nhân cái chức năng và tiếp hợp với nhau và tạo thành nhân hợp tử nhị bội, noãn cầu đơn bội thay đổi thành bào tử noãn nhị bội có cấu trúc vách dày, trơn, đơn nhân Trong quá trình này, toàn bô vật liệu của hùng cơ đi vào noãn phòng, và do đó hùng cơ trở nên trống rỗng sau quá trình thụ tinh. 20
  13. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp 2.1.6. Sự mọc mầm của bào tử noãn Ở P. debaryanum và nhiều loài khác, các bào tử noãn cần thời gian tiềm sinh nhiều tuần trước khi mọc mầm, nhiêt độ tương đối cao khoảng 28oC, bào tủ noãn nảy chồi bằng cách tạo ra một ống phôi phát triển nhanh thành một hệ sợi sinh dưỡng (hình 2.9) nhưng ở nhiệt độ thấp hơn (10 - 17oC) một ống phôi ngắn (5 - 20 µm) được đưa ra ngòi ở chóp của bào tử noãn và phát triển thành một cái túi. Theo Drechsler (1952, 1960) vật liệu của bào tử noãn ở P. ultimum đi vào túi này thông qua ống nhỏ và được khu biệt thành nhiều bào tử động (hình 2.9); Webster (l980) đã đề cập loại thứ ba, trong đó bào tử noãn trong một số loài phát triển một ống phôi ngắn chứa túi bào tử ở tại chóp của nó. Như đã đề cập ở trên, chu trình sống chỉ ra rằng hệ sợi sinh dưỡng ở P. debaryanum là nhị bội và sự phân chia giảm đi, xảy ra trong hai loại giao tử (Sansome, l96l, l963). Hình 2.9. Bào tử noãn của Pythium mọc mầm zoospore = bào tử động vesicle = túi oospore = bào tử 2.1.7. Những bệnh khác do giống Pythium a. Thối trái do bầu, bí: Cùng với Fusarium và Phytopthora, nấm Pythium gây ra bệnh trên của bầu, dưa chuột, dưa hấu . làm do rễ bị mềm đi do nước ngấm vô quá nhiều b. Thối trái hay thối cuống đu đủ: Nấm Pythium sẽ làm cuống trái đu đủ thối rửa; triệu chứng chính của nó là xuất hiện những phần xốp, ngấm nước trên cuống trực tiếp tại lớp đất. Phần đáy cúa cuống bị bóc ra do thối rửa và xâm nhlễm và có thể dẫn đến cây ngã toàn bộ; Thối cuống có thể được kiểm soát bằng cách cho cấy sinh trưởng trong đất đã rút hết nước, những cây bị nhiễm phải được loại bỏ và đốt; Phun hỗn hợp Bordeaux có hiệu quả nhất định. 21
  14. Giáo trình Nấm học - Biên soạn: PGs. Ts. Nguyễn văn Bá và PGs. Ts. Cao Ngọc Điệp c. Thối thân rễ ớ củ gùng: Thối thân rễ ở củ gừng là do Pythium myriotylum, P. aphanidermatum. Phần đáy của cây trở nên bị sũng nước và mềm và lá có màu vàng lợt, cuối cùng thân rễ bắt đầu thúi và thay đổi khối thịt bên trong; Nó có thể được kiểm soát bằng cách xử lý, thân rễ và đất bằng thuốc hoá học có gốc đồng diệt nấm nên chọn những hạt giống khoẻ mạnh là một trong những biện pháp có hiệu quá. 2.2. Giống [Chi] Phytophthora Giống Phytophthora được đại diện bởi 40 loài (Waterllotlse, l973), nhưrng chỉ khoảng 40 loài được biết, theo Webster (l980), Singh (l982) thì Phytophthora chứa gần 70 loài đã được mô tả trong đó những loài thông thường nhất là P. infestans, là nguyên nhân gây cháy lá (late blight) ở khoai tây trong đó một số loài là ký sinh có hại, trong khi đó số khác sống hoại sinh. Phytophthora arecae, P. cactorum tấn công vào cây ngập nước và làm trái cây hư. Gần đây, Drenth và Guest (ACIAR, 2004) xác định Phytophthora chỉ có 60 loài. 2.2.1. Cấu trúc dinh dưỡng Hệ sợi khuẩn ty hình ống, gồ ghề, trong suốt, phân nhánh và cùng tán (hình 2.10), tuy nhiên vách ngăn có thể phát triển ở giống già (Webster, 1980), khuẩn ty nói chung là gian bào nhưng giác mút được thành lập và thâm nhập vào tế bào chủ. Nhánh khuẩn ty thông thuờng cho thấy thắc eo tại điểm gốc của nó, khuấn tỵ có bề rộng là 3 - 8 µm. Vách khuẩn ty chủ yếu cấu tạo bởi glucan và cellulose có ít hoặc không có, tế bào chất của khuẩn ty chứa ty thể, mạng lưới nội chất, ribô thể, nhiều hạt dầu, không bào lớn và nhân; Một phần khuẩn ty có gian bào phình ra trong vách tế bào chủ trong dạng mảnh, chồi bện phát triển trong một giác mút (hình 2.11), chỗ phình ra trước tiên mở to ra trong đầu có hình gậy chứa vùng eo hẹp, gọi là cuống; Nơi phình ra của khuẩn ty hoặc giác mút non cho vào ống bao màng tế bào chất của vật chủ; Giác mút vẫn được bao quanh bởi bao do một màng bên ngoài của giác mút và tế bào chất của tế bào vật chủ. Ở P. infestans (Webster, 1980) giác mút có những nơi phồng lên giống ngón tay. 2.2.2. Sinh sản vô tính Hệ khuẩn ty bên trong thông thường đi ra ngoài qua khí khổng ở dạng chùm (hình 2.10); Cọng mang túi bào tử (sporangiophore) cũng có thể đi ra ngoài bằng cách chọc thủng lớp biểu bì lá, củ, thân hay chổ có thương tích và cọng bào tử trong suốt, phân nhánh tự do và không giới hạn, sự sinh sản tùy thuộc vào độ ẩm cao hay thấp, túi bào tử (sporangium) phát triển ở đầu chóp của mỗi nhánh thể mang bọc bào tử, bọc bào tử có vách dày, trong suốt, đa nhân có hình hạt đậu hay quả lê và chứa nhủ (papilla) ở giai đoạn cuối, nhủ là lớp tế bào nối liền túi bào tử với cọng bào tử và khi mưa hay gió lớn thì lớp nhủ này phân tán để cho túi bào tử phát tán theo gió vào không khí nếu không gặp ký chủ thì chúng sẽ chết sau vài giờ tồn tại trong không khí. Sự nẩy chồi của túi bào tử hay bọc bào tử bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và đô ẩm; túi bào tử cho thấy sự mọc mầm gián tiếp ở nhiệt độ thấp và điều kiện ẩm ướt do những bào tử động tạo ra đầu tiên, chúng được phóng thích nhanh và nhiễm vào vật chú. Nhưng ở nhiệt đô cao và điều kiện khô ráo, bọc bào tử cho thấy sự mọc mầm trực tiếp ớ điều kiện 22