Thông tin y học: Giải thưởng nobel y học năm 2012: Nội dung khoa học và triển vọng ứng dụng của những phát minh được giải
Giải thưởng Nobel về Y học năm 2012 đã được trao cho TS. John Gurdon và TS. Shinya Yamanaka với các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực chuyển nhân tế bào soma và nghiên cứu tế bào gốc (TBG). Các nghiên cứu này được thực hiện cách nhau hơn 40 năm, theo hai cách tiếp cận khác nhau, nhưng có điểm chung là đều tái lập trình bộ máy di truyền của tế bào trưởng thành đã biệt hóa, làm cho chúng trở về trạng thái sơ khai của TBG vạn tiềm năng, có khả năng phát triển thành tất cả các loại tế bào cần thiết của một cơ thể. Trên bình diện khoa học, những phát minh này đã làm thay đổi lớn nhận thức của nhân loại về quá trình biệt hóa tế bào và tính uyển chuyển (hay mềm dẻo - Plasticity) của trạng thái đã biệt hóa của tế bào. Về ý nghĩa thực tiễn trong lĩnh vực y học, bằng nhiều phương pháp, các nhà khoa học này có thể tạo ra tế bào vạn tiềm năng giống TBG phôi, có đặc điểm di truyền phù hợp với người bệnh.
Từ những tế bào này, có thể tạo ra các tế bào và mô mới để chữa bệnh bằng liệu pháp TBG và y học tái tạo, vượt qua được khó khăn về thiếu tế bào, mô, tạng để cấy ghép. Tuy nhiên, vẫn còn một số trở ngại kỹ thuật cần vượt qua để có thể ứng dụng vào điều trị bệnh cho người. Hơn thế nữa, ngay cả khi có thể ứng dụng được, các tế bào này cũng có giới hạn nhất định. Bài viết này giới thiệu nội dung khoa học và triển vọng ứng dụng trong y học từ nh÷ng thành tựu của giải Nobel Y học năm 2012, đồng thời phân tích một số hạn chế của các loại tế bào được tạo ra bằng phương pháp này và một số vấn đề kỹ thuật còn cần được giải quyết
File đính kèm:
thong_tin_y_hoc_giai_thuong_nobel_y_hoc_nam_2012_noi_dung_kh.pdf
Nội dung text: Thông tin y học: Giải thưởng nobel y học năm 2012: Nội dung khoa học và triển vọng ứng dụng của những phát minh được giải
- TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2012 THÔNG TIN Y HỌC: GIẢI THƯỞNG NOBEL Y HỌC NĂM 2012: NỘI DUNG KHOA HỌC VÀ TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG CỦA NHỮNG PHÁT MINH ĐƯỢC GIẢI TÓM TẮT Giải thưởng Nobel về Y học năm 2012 đã được trao cho TS. John Gurdon và TS. Shinya Yamanaka với các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực chuyển nhân tế bào soma và nghiên cứu tế bào gốc (TBG). Các nghiên cứu này được thực hiện cách nhau hơn 40 năm, theo hai cách tiếp cận khác nhau, nhưng có điểm chung là đều tái lập trình bộ máy di truyền của tế bào trưởng thành đã biệt hóa, làm cho chúng trở về trạng thái sơ khai của TBG vạn tiềm năng, có khả năng phát triển thành tất cả các loại tế bào cần thiết của một cơ thể. Trên bình diện khoa học, những phát minh này đã làm thay đổi lớn nhận thức của nhân loại về quá trình biệt hóa tế bào và tính uyển chuyển (hay mềm dẻo - plasticity) của trạng thái đã biệt hóa của tế bào. Về ý nghĩa thực tiễn trong lĩnh vực y học, bằng nhiều phương pháp, các nhà khoa học này có thể tạo ra tế bào vạn tiềm năng giống TBG phôi, có đặc điểm di truyền phù hợp với người bệnh. Từ những tế bào này, có thể tạo ra các tế bào và mô mới để chữa bệnh bằng liệu pháp TBG và y học tái tạo, vượt qua được khó khăn về thiếu tế bào, mô, tạng để cấy ghép. Tuy nhiên, vẫn còn một số trở ngại kỹ thuật cần vượt qua để có thể ứng dụng vào điều trị bệnh cho người. Hơn thế nữa, ngay cả khi có thể ứng dụng được, các tế bào này cũng có giới hạn nhất định. Bài viết này giới thiệu nội dung khoa học và triển vọng ứng dụng trong y học từ nh÷ng thành tựu của giải Nobel Y học năm 2012, đồng thời phân tích một số hạn chế của các loại tế bào được tạo ra bằng phương pháp này và một số vấn đề kỹ thuật còn cần được giải quyết. * Từ khóa: Giải Nobel Y học 2012; Tái lập trình tế bào; Tế bào vạn tiềm năng. MỞ ĐẦU các tế bào phân chia làm tăng số lượng tế bào. Biệt hoá là hiện tượng các tế bào Tất cả các tế bào trong cơ thể mỗi sinh ra có cấu trúc và chức năng không người đều có cùng nguồn gốc từ một tế giống với tế bào đã sinh ra nó, làm xuất bào ban đầu là zygote, được hợp nhất từ hiện loại tế bào mới. Quá trình biệt hoá tinh trùng của người cha và trứng của biến tế bào thành tế bào chuyên biệt để người mẹ. Zygote là tế bào toàn năng, từ thực hiện các chức năng chuyên trách đây phân chia tạo ra nhiều thế hệ tế bào trong cấu tạo và chức năng của mô, cơ con cháu. Mỗi loại tế bào con cháu sẽ quan và cơ thể. Cơ thể có hàng trăm loại thực hiện một chức năng sinh lý khác tế bào chuyên biệt khác nhau; mỗi loại tế nhau trong hoạt động sống của cơ thể. bào được tạo ra theo một con đường biệt Có hai hiện tượng thường xuyên diễn hoá riêng và tất cả con đường ấy đều có ra trong suốt quá trình hình thành và phát chung xuất phát điểm là tế bào trứng triển của phôi, thai và cơ thể là sự tăng được thụ tinh ban đầu, sau đó toả dần ra lên về số lượng và chủng loại tế bào, thành nhiều nhánh và số nhánh tăng dần được thực hiện bởi hai quá trình tương lên trong quá trình phát triển từ phôi ứng là tăng sinh (proliferation) và biệt hoá thành cơ thể trưởng thành. (differentiation). Tăng sinh là hiện tượng 140
- TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2012 Khả năng một tế bào ban đầu phân hoặc tế bào xương không cần các sợi chia, tạo ra các tế bào cuối cùng có chức tham gia co bóp như của tế bào cơ. Khi năng sinh lý khác nhau được gọi là tiềm các gen bị tắt, tế bào sẽ mất đi khả năng năng biệt hóa của tế bào. Tế bào càng chuyển thành loại tế bào có chức năng nhiều tiềm năng, càng có thể tạo ra nhiều khác, không theo lộ trình biệt hoá của nó loại tế bào khác nhau. Những tế bào ít nữa. Tế bào càng biệt hoá, càng nhiều tiềm năng chỉ có thể tạo ra một vài kiểu tế gen bị tắt đi và càng ít khả năng chuyển bào chức năng nhất định. Những tế bào đổi thành loại tế bào khác. Thông không tiềm năng, không phân chia, thường, một tế bào đã biệt hoá theo một không tạo ra thêm tế bào nào khác nữa con đường nào đó sẽ không còn khả mà chỉ thực hiện một chức năng chuyên năng quay trở lại thành tế bào ít biệt hoá biệt như hồng cầu vận chuyển oxy và khí hơn như tế bào đã sinh ra nó hay chuyển carbonic; tế bào thần kinh đảm trách sự qua con đường biệt hoá khác để hình dẫn truyền xung thần kinh; tế bào cơ có thành loại tế bào khác nữa. Điều này đã chức năng co giãn được Corrad Hal Waddinton (1957) ví tế bào chưa biệt hóa như tảng đá ở trên đỉnh núi, khi biệt hóa, nó lăn theo sườn núi xuống thung lũng và nằm yên ở đáy thung lũng trong trạng thái tế bào đã biệt hóa. Do vậy, việc đảo ngược trạng thái của tế bào đã biệt hóa thành tế bào chưa biệt hóa chẳng khác nào dịch chuyển tảng đá từ đáy thung lũng ngược lên đỉnh núi [5]. TÁI LẬP TRÌNH NHÂN TẾ BÀO SOMA ĐÃ BIỆT HÓA Mặc dù những nhận thức trên về quá trình biệt hóa tế bào và trạng thái đã biệt hóa của tế bào đã có lúc được coi như Hình 1: Tiềm năng biệt hóa của chân lý. Tuy nhiên, vẫn có nhiều nhà các tế bào [4]. khoa học tiến hành thí nghiệm nhằm tìm Nghiên cứu di truyền biểu sinh hiểu kỹ hơn nữa về vấn đề này. Năm (epigenetics) cho thấy, hầu hết tế bào 1952, Robert Briggs và Thomas King đã trong cơ thể đều có đủ bộ gen di truyền phát triển công nghệ chuyển nhân tế bào giống như của zygote để điều khiển hoạt soma đã biệt hóa và chưa biệt hóa vào động xây đắp và vận hành cơ thể. Tuy trứng đã thụ tinh, sau đó loại bỏ nhân của nhiên, khi tế bào đã biệt hoá và trở nên loài ếch Rana pipien. Các tác giả này chuyên biệt, các gen không cần thiết cho chọn ếch vì trứng to, dễ thao tác và phôi hoạt động của tế bào bị tắt đi không hoạt của chúng phát triển bên ngoài không động nữa. Ví dụ, các tế bào của phổi cần tử cung. Khi chuyển nhân của tế bào không cần sử dụng gen điều khiển phản lấy từ phôi vào bào tương của trứng đã ứng hoá học để khử độc như tế bào gan loại bỏ nhân, trứng này phát triển thành 141
- TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2012 nòng nọc. Ngược lại, lấy nhân của tế bào Phát minh của Gurdon đã làm thay đổi đã biệt hóa hơn chuyển vào bào tương cơ bản nhận thức về nhân của tế bào của trứng đã loại bỏ nhân thì họ không soma đã biệt hóa vẫn có khả năng điều tạo ra được nòng nọc. Từ đó, các tác giả khiển sự phát triển của tế bào thành tất kết luận: có những biến đổi không phục cả tế bào soma và mô khác nhau sau khi hồi trong nhân của tế bào đã biệt hóa, đặt vào môi trường nguyên sinh chất của làm mất tiềm năng phát triển của tế bào trứng. [5]. 2. Các bước phát triển của công 1. Công trình của Gurdon. nghệ tái lập trình nhân tế bào bằng chuyển nhân. Năm 1962, John Gurdon tiến hành nghiên cứu trên loài ếch Xenopus laevis, Phát minh của Gurdon đã mở ra một trong đó, ông loại bỏ nhân của trứng ếch lĩnh vực nghiên cứu mới với trọng tâm là bằng phương pháp chiếu tia tử ngoại rồi kỹ thuật chuyển nhân tế bào soma nhằm chuyển nhân của tế bào đã biệt hóa là tế tìm hiểu quá trình tái lập trình tế bào và tế bào biểu mô ruột của nòng nọc vào trứng bào biến đổi như thế nào trong quá trình đã loại bỏ nhân đó, kết quả đã tạo ra biệt hóa. Năm 1997, động vật nhân bản vô tính đầu tiên là cừu Dolly được tạo ra được nòng nọc biết bơi. Điều này cho bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào soma thấy thông tin di truyền cần thiết để tạo ra dựa trên nền tảng kỹ thuật của Gurdon tế bào biệt hóa khác nhau của cả cơ thể với một số cải tiến kỹ thuật quan trọng, ếch còn nguyên vẹn trong nhân của một trong đó, nhân được chọn để chuyển là tế bào biểu mô ruột và có thể tái lập trình nhân tế bào biểu mô tuyến vú để cho được thông tin di truyền trong nhân của thích hợp hơn trong giai đoạn sớm của tế bào đã biệt hóa về trạng thái sơ khai phát triển phôi của động vật có vú. Sau như tế bào vạn tiềm năng của phôi cừu Dolly, hàng loạt động vật có vú đã nguyên thủy. được nhân bản vô tính như chuột nhắt, bò, lợn, mèo Nghiên cứu thú vị của Hochedlinger và Jaenisch (2002) chuyển nhân tế bào lympho T hoặc B đã biệt hóa, đồng thời cũng đã trải qua quá trình tái sắp xếp gen liên quan đến tạo kháng thể đặc hiệu hoặc tạo thụ thể của tế bào lympho T đặc hiệu với kháng nguyên, đã cho bằng chứng xác đáng là vẫn có thể Hình 2: Thí nghiệm của John Gurdon: tái lập trình cả tế bào đã biệt hóa sâu như (1) phá hủy nhân của trứng ếch bằng tia vậy để tạo ra chuột nhân bản vô tính tử ngoại; (2) chuyển nhân của tế bào hoàn chỉnh [1]. biểu mô ruột đã biệt hóa của nòng nọc vào trứng đã loại bỏ nhân; (3) trứng T¸I LËP TR×NH NGUYªN VÑN C¶ TÕ chuyển nhân phát triển thành nòng nọc BµO SOMA Đ· BIÖT HãA THµNH TÕ biết bơi bình thường [5]. BµO V¹N TIÒM N¨NG 142
- TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2012 Phát minh của Gurdon chỉ ra rằng có nhắt, cho thấy một số tế bào được thể tái lập trình nhân của tế bào soma đã chuyển gen phát triển thành các colony biệt hóa sau khi đặt vào trong môi trường có những đặc điểm giống TBG phôi vạn nguyên sinh chất của trứng đã loại bỏ tiềm năng. Bằng cách giảm dần từng gen nhân; giới khoa học tiếp tục theo đuổi trong số những gen này, cuối cùng việc trả lời câu hỏi liệu có thể tái lập trình Yamanaka đã xác định được chỉ cần tổ cả tế bào nguyên vẹn đã biệt hóa trở lại hợp 4 yếu tố phiên mã (Myc, Oct3/4, trạng thái rất non chưa biệt hóa hay Sox2 và Klf4) đủ để cảm ứng nguyên bào không? Khi đó, nhiều nhà khoa học cho sợi của chuột nhắt thành TBG vạn tiềm rằng, điều này là không thể vì cần có sự năng và ông gọi các tế bào này là TBG tái sắp xếp vô cùng phức tạp bên trong tế vạn tiềm năng cảm ứng (induced bào mới có thể mở khóa cho trạng thái pluripotent stem cell - tế bào iPS). Bằng biệt hóa của tế bào. Khi mọi người đã thử nghiệm sinh u quái cho thấy, tế bào biết về TBG phôi vạn tiềm năng được iPS có thể phát triển thành nhiều loại tế phân lập và nuôi cấy theo phương pháp bào khác nhau và có thể phát triển thành của Martin Evans (Giải Nobel Y học năm mô sau khi tiêm vào phôi nang tạo ra 2007), cũng là lúc Yamanaka tập trung chuột khảm (chimera) [3]. Tuy nhiên, ở vào nghiên cứu tái lập trình tế bào thành loạt thí nghiệm đầu tiên, các tác giả trạng thái vạn tiềm năng. không thấy chúng phát triển thành tế bào mầm sinh dục. Một năm sau, bằng cách 1. Công trình của Yamanaka. thay đổi hệ thống chọn lọc tế bào, nhóm Nhóm nghiên cứu của Yamanaka tập nghiên cứu của Yamanaka cũng như các trung vào tìm hiểu các yếu tố quan trọng nhóm nghiên cứu khác của Rudolph quyết định trạng thái vạn tiềm năng của Jaenisch và Konrad Hochedlinger đã thu TBG phôi vạn tiềm năng. Kế thừa thành được cả dòng tế bào mầm sinh dục [5]. tựu từ chính phòng thí nghiệm của mình cũng như từ những phòng thí nghiệm khác, Yamanaka biết có rất nhiều yếu tố phiên mã biểu hiện ở TBG phôi vạn tiềm năng, trong số đó có những yếu tố đã biết rõ và một số yếu tố còn đang nghi ngời về vai trò của chúng trong việc duy trì trạng thái vạn tiềm năng của tế bào. Hơn nữa, nghiên cứu của Tada và CS (2001) cho thấy, có thể cảm ứng được tế bào soma Hình 3: Thí nghiệm của Yamanaka: Sử thành tế bào vạn tiềm năng sau khi lai dụng tổ hợp 4 yếu tố phiên mã Myc, TBG phôi vạn tiềm năng với tế bào soma Oct3/4, Sox2 và Klf4 (1) đưa vào nguyên [2]. Từ đó, Yamanaka chọn 24 yếu tố bào sợi nuôi cấy được phân lập từ da phiên mã của TBG phôi làm đối tượng chuột nhắt bao tử hoặc chuột nhắt đã khảo sát. Trong một nghiên cứu hết sức trưởng thành (2) đều tạo ra được các tế ngoạn mục, toàn bộ 24 gen mã hóa các bào vạn tiềm năng có thể phát triển yếu tố phiên mã này được đưa vào thành u quái hoặc tham gia phát triển nguyên bào sợi phân lập từ da chuột thành các mô trong cơ thể chuột khảm 143
- TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2012 (3). Các tế bào sau chuyển gen này được thế cho các yếu tố phiên mã cũng thu gọi là TBG vạn tiềm năng cảm ứng - tế được kết quả ở một số trường hợp nhất bào iPS [5]. định [5]. 2. Các bước phát triển của công TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG Y KHOA nghệ tái lập trình tế bào nguyên vẹn Các công trình nghiên cứu của bằng chuyển gen. Gurdon và Yamanaka có triển vọng ứng Phát minh của Yamanaka về tế bào dụng chung cho điều trị bệnh, giúp tạo ra iPS thực sự là một khám phá mang tính nguồn TBG có đặc điểm di truyền phù nền tảng, cho thấy có thể tái lập trình một hợp với người bệnh cần điều trị bằng tế bào soma nguyên vẹn đã biệt hóa TBG. thành tế bào vạn tiềm năng. Phát minh này đã mở ra một lĩnh vực nghiên cứu 1. Nhân bản vô tính để điều trị. hoàn toàn mới. Vào năm 2007, cả nhóm Bản chất của nhân bản vô tính để điều nghiên cứu của Yamanaka và James trị là chuyển nhân tạo TBG phôi đặc hiệu Thompson đều thành công trong việc với bệnh nhân (BN) để điều trị bệnh cho cảm ứng tạo ra tế bào iPS người. Trong chính người đó dựa trên nền tảng kỹ thí nghiệm với tế bào người, nhóm thuật của Gurdon. Để điều trị cho BN cần nghiên cứu của Yamanaka sử dụng tổ lấy nhân từ một tế bào soma nào đó của hợp 4 yếu tố được phát hiện ra trước đó BN (ví dụ nhân của nguyên bào sợi ở da (Myc, Oct3/4, Sox2 và Klf4), còn nhóm của BN); chuyển nhân của nguyên bào sợi Thompson sử dụng một tổ hợp khác gồm của BN vào trứng của một người cho Lin28, Nanog, Oct4 và Sox2. trứng nào đó đã loại bỏ nhân, kích thích Công nghệ tạo tế bào iPS được cải cho phát triển thành cấu trúc giống phôi tiến và đơn giản hóa để có thể áp dụng nang (hay phôi nhân bản vô tính). Phá trong nhiều phòng thí nghiệm trên thế huỷ phôi này, thu hoạch tế bào của khối giới. Trong số những cải tiến kỹ thuật, có tế bào bên trong chính là TBG phôi. Các tế bào này có đặc điểm di truyền giống cải tiến về phương thức chuyển gen vào với BN (vì toàn bộ chất liệu di truyền tế bào không dùng vector là retrovirut, trong nhân được lấy từ một tế bào soma tránh được nguy cơ cài gen ngẫu nhiên của BN). BN có mô hay cơ quan nào đó vào bộ gen làm mất kiểm soát của một số bị tổn thương và/hoặc mất chức năng, gen dẫn đến sinh ung thư. Việc chuyển tiến hành biệt hoá TBG phôi đặc hiệu của gen hiện nay có thể thực hiện bằng hệ BN thành các tế bào, mô ấy để chữa thống chuyển gen không tích hợp vào bộ bệnh. Các tế bào và mô mới tạo ra hoàn gen của tế bào chủ. Qua nghiên cứu toàn khoẻ mạnh, khi được ghép vào BN, chuyển gen vào các tế bào khác nhau sẽ bổ sung hoặc thay thế cho tế bào, mô cho thấy có những tế bào không cần phải cũ đã bị tổn thương và/hoặc mất chức chuyển cả 4 gen, ví dụ: chỉ cần chuyển năng mà không hề bị hệ thống miễn dịch một mình gen Oct4 vào TBG thần kinh tấn công (vì không có sự khác biệt về di của chuột nhắt trưởng thành là cảm ứng truyền giữa tế bào hay mô ghép với BN). được thành tế bào iPS. Bên cạnh chuyển gen, sử dụng hóa chất gây cảm ứng thay 144
- TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2012 Với cách làm như trên, chúng ta hy vọng, về lý thuyết, có thể sửa chữa được bất kỳ tế bào, mô và cơ quan nào bị tổn thương, mở ra triển vọng cứu chữa được vô số bệnh mà cho tới nay y học còn chưa giải quyết được. Đái tháo đường týp I, đột quỵ não, bệnh Parkinson, bệnh Alzheimer, suy gan, suy thận và một số bệnh tự miễn khác là những bệnh đang được ưu tiên tập trung nghiên cứu ứng dụng TBG. Quả thật, đây là hy vọng to lớn mà nhân loại đang mong chờ các nhà khoa học thành công trong lĩnh vực này. Cũng chính vì kỳ vọng lớn đó và sức ép từ các cuộc chạy đua trong khoa học (và có thể cả tiền tài và danh vọng) đã khiến cho GS. Hwang của Hàn Quốc vội vã công bố kết quả ngụy tạo mà họ chưa thực sự đạt đến, khiến cả thế giới hy Hình 4: Phương pháp nhân bản vô tính vọng rồi thất vọng. Bên cạnh đó, vấn đề điều trị [4]. mà dư luận thế giới quan tâm đòi hỏi các nhà quản lý ở những quốc gia cần có 2. Tạo tế bào iPS của BN. biện pháp theo dõi chặt chẽ hoạt động Bằng công nghệ của Yamanaka cho này là: từ phôi nhân bản vô tính tạo ra phép tạo ra tế bào iPS của BN làm bằng kỹ thuật chuyển nhân, thay vì hủy đi nguyên liệu biệt hóa thành tế bào chức để thu thập TBG phôi dùng cho điều trị, năng như tế bào thần kinh, tế bào cơ, tế nếu đem phôi ấy đặt vào tử cung của một bào tiết insulin để nghiên cứu mô hình người phụ nữ mang thai hộ sẽ sinh ra sinh bệnh, thử thuốc cho BN hoặc sử người nhân bản vô tính (cloned human) dụng để cấy ghép chữa bệnh. Đây là như cách người ta đã tạo ra cừu Dolly. triển vọng thu hút sự chú ý lớn nhất của dư luận, vì công nghệ này cho phép vượt qua trở ngại trên phương diện đạo đức có liên quan đến TBG phôi và nhân bản vô tính. 145
- TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2012 nhân tạo chỉ thực sự là “cứu cánh” cho những người tại thời điểm bị bệnh cần TBG để điều trị khi không có nguồn TBG nào khác phù hợp với mình (do trước đó không có cơ hội cất giữ TBG tự nhiên khác hoặc nguồn TBG khi đó đã bị bệnh và không có người nào phù hợp sinh học với mình để xin TBG chữa bệnh). Hình 5: Phương pháp tạo tế bào iPS để KẾT LUẬN điều trị [5]. Các công trình nghiên cứu có liên Nhờ triển vọng hấp dẫn trên, đã có quan đến TBG được trao giải thưởng quan điểm cho rằng những thành tựu này Nobel về Y học năm 2012 là những một khi được hoàn thiện, áp dụng được nghiên cứu đặc biệt xuất sắc. Trên thường qui vào chữa bệnh cho người thì phương diện ứng dụng trong điều trị y các loại TBG khác trở nên lạc hậu và khoa, dựa trên nền tảng khoa học từ các công trình này, có thể tạo ra nguồn TBG thậm trí là loại bỏ do không cần thiết nữa. có đặc điểm di truyền phù hợp với người Điều này có lẽ không hoàn toàn đúng. bệnh để điều trị. Tuy nhiên, cho đến thời Trên thực tế, cho đến khi có được các điểm hiện tại, những công trình này vẫn loại TBG này để sử dụng cho điều trị còn ở mức “có đóng góp to lớn cho hiểu bệnh, việc có thêm loại TBG phù hợp với biết của nhân loại” đúng như như tuyên BN để điều trị, giúp thày thuốc có thêm bố của Hội đồng Trao giải Nobel. Vẫn lựa chọn điều trị cho BN chứ không phải còn rất nhiều rào cản kỹ thuật cần vượt TBG được tạo ra theo cách của các nhà qua mới có thể ứng dụng những kỹ thuật khoa học này “ưu việt tuyệt đối”, có khả này vào việc tạo ra TBG nhân tạo để điều năng thay thế tất cả TBG khác đã biết. trị bệnh cho người một cách thường qui Trên thực tế, nguyên liệu TBG đóng vai như ứng dụng của một số loại TBG đã trò như một nhóm thuốc đặc biệt để chữa biết khác (đặc biệt là khía cạnh an toàn bệnh, có thuốc có nguồn gốc tự nhiên, có của loại TBG này khi dùng để điều trị thuốc có nguồn gốc tổng hợp nhân tạo, bệnh). việc lựa chọn thuốc nào thích hợp nhất còn tùy thuộc vào loại bệnh gì và cơ TÀI LIỆU THAM KHẢO quan phủ tạng nào bị bệnh. Tương tự, 1. Hochedlinger K, Jaenisch R. ngay cả khi có tất cả TBG trong tay, Monoclonal mice generated by nuclear người thày thuốc cần cân nhắc dùng transfer from mature B and T Donor cells. TBG tủy xương, TBG dây rốn, TBG mô Nature. 2002, 415. pp.1035-1038. mỡ, TBG vùng rìa giác mạc hay TBG 2. Tada M, Takahama Y, Abe K, Nakatsuji nhân tạo còn tùy thuộc vào chỉ định chữa N, Tada T. Nuclear reprogramming of somatic bệnh gì. Không phải bệnh gì cũng có thể cells by in Vitro hybridization with ES cells. dùng TBG nhân tạo để chữa bệnh. TBG Curr Biol. 2001, 11, pp.1553-1558. 146
- TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2012 3. Takahashi, K, Yamanaka, S. Induction 5. The 2012 Nobel Prize in Physiology or of pluripotent stem cells from mouse Medicine - Advanced Information. embryonic and adult fibroblast cultures by Nobelprize.org (truy cập ngày 25 Oct 2012). defined factors. Cell. 2006, 126, pp.663-676. 4. Wobus AM, Boheler KR. Embryonic Stem Cells: Prospects for developmental. Physiol Rev. 2005, 85, pp.635-678. Lê Văn Đông tổng hợp Ngày nhận bài: 30/9/2012 Ngày giao bản thảo in: 16/11/2012 147
- TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2012 141

