Giáo trình Bệnh truyền nhiễm thú y (Phần đại cương)
MỞ ĐẦU
Truyền nhiễm học thú y là môn học nghiên cứu các quy luật hình
thành, tiến triển và ngừng tắt của các bệnh truyền nhiễm ở động vật ở cấp
độ cá thể (bệnh cảm nhiễm) cũng nhƣ cấp độ đàn hay tập đoàn (dịch).
Những quy luật của bệnh cụ thể đƣợc nghiên cứu trong học phần "Bệnh
truyền nhiễm thú y chuyên khoa", là phần tiếp tục của học phần này. Học
phần "Bệnh truyền nhiễm thú y đại cƣơng" này nghiên cứu 1) những thuộc
tính chung nhất của các yếu tố hình thành bệnh cảm nhiễm ở động vật,
diễn biến, hình thức và hệ quả của bệnh cảm nhiễm cũng nhƣ nghiên cứu
sự phổ biến của bệnh trong tập đoàn (thƣờng gọi là dịch tễ học bệnh truyền
nhiễm, hay dịch học bệnh truyền nhiễm) và 2) những nguyên tắc và kỹ
thuật phổ quát áp dụng chẩn đoán và phòng chống bệnh truyền nhiễm.
Những nhiệm vụ của môn học bệnh truyền nhiễm là nghiên cứu những quy
luật thuộc về đặc tính bệnh, đặc tính mầm bệnh, quan hệ giữa mầm bệnh
và cơ thể động vật trong điều kiện thống nhất với ngoại cảnh, các hiện
tƣợng bệnh lý, điều kiện phát sinh và lây lan bệnh, sự phát sinh, tiến triển
và ngừng tắt của dịch khi không có và có sự can thiệp của con ngƣời,... và
từ nhận thức về những quy luật đó, đề ra các biện pháp cụ thể, có cơ sở
khoa học chắc chắn, nhằm mục đích cuối cùng là phòng và chống, tiến tới
thanh toán các bệnh truyền nhiễm, góp phần tích cực bảo vệ sức khỏe đàn
gia súc, gia cầm và động vật khác, thông qua đó gián tiếp hoặc trực tiếp
bảo vệ sức khỏe của con ngƣời.
I. Sơ lược lịch sử phát triển các học thuyết về bệnh truyền nhiễm
Từ thời thƣợng cổ, con ngƣời đã đặc biệt chú ý đến nhiều bệnh
truyền nhiễm giết hại hàng loạt gia súc và ngƣời. Ngƣời ta cho rằng
nguyên nhân của bệnh dịch là sự trừng phạt của thần linh, nhƣng thần y
Hyppocrat (Hyppocrates, 459 - 377 tr. CN) đã tỏ ra nghi ngờ khi thấy rằng
bệnh dịch lan tràn nhiều quốc gia và tấn công con ngƣời không phân biệt
giai cấp và đã đề ra thuyết khí độc (miasma) để giải thích nguyên nhân của
bệnh. Ông giải thích dịch bệnh phát sinh nhiều sau các hiện tƣợng tự nhiên
của vũ trụ nhƣ xuất hiện sao chổi, động đất, lũ lụt,... là do không khí bị ô
nhiễm và không còn tốt đối với sức khỏe. Thuyết này đƣợc ngƣời ta tin
trong suốt thời gian kéo dài của lịch sử loài ngƣời, đặc biệt đến thời cận
đại ngƣời ta vẫn còn tin nguyên nhân gây bệnh sốt rét là khí độc, chính vì
vậy trong ngôn ngữ Châu Âu bệnh sốt rét đƣợc gọi là maleria (xuất phát từ
"mal-" và "aer"). Cho rằng sự lan truyền của bệnh là do khí độc của bệnh,
Hyppocrates tin vào thuyết dân gian rằng những ngƣời chăm sóc ngƣời
bệnh lao phổi cũng thƣờng mắc bệnh lao phổi, rằng trong không khí hít
vào có những phần tử nhỏ bé. Đồng thời, nghĩ rằng nguyên nhân xảy ra lƣu
hành bệnh dịch hạch cũng tƣơng tự nên ngƣời ta đã đốt khói, chƣng hƣơng
thơm thực vật và đã đạt đƣợc mục tiêu phòng dịch nhất định. Aristot
(Aristoteles, 384 - 322 tr. CN) đã mô tả những nghi vấn về hiện tƣợng
bệnh tật lan truyền từ ngƣời này sang ngƣời khác. Sau Aristoteles, đại y
nhân của thời cổ đại Galen (Galenos, 131 - 201) cũng đã nhận thấy dịch
hạch, bệnh ghẻ, viêm mắt, bệnh dại, bệnh phổi,... có tính truyền nhiễm.
Các sách thú y của thời thƣợng cổ Ai Cập, của cổ Hy Lạp (khoảng
1200 năm tr. CN) đã nói đến bệnh gia súc. Aristoteles cũng đã mô tả bệnh
dại, uốn ván, tỵ thƣ, qua nhiều vụ giết hại nhiều ngƣời và gia súc. Tuy thời
ấy con ngƣời đã dùng những quan điểm thần thoại giải thích nguyên nhân
bệnh, nhƣng trƣớc tai họa khủng khiếp của dịch gây ra, con ngƣời đã biết
dùng những biện pháp phòng bệnh. Ngay từ thời thƣợng cổ ngƣời Trung
Quốc đã biết lấy vảy đậu mùa đem sấy khô trên bếp, rồi nghiền nhỏ bỏ vào
mũi ngƣời để phòng bệnh đậu mùa. Thổ dân châu Phi lấy thanh kiếm nhọn
chọc vào phổi bò mắc bệnh viêm phổi để cho dịch phổi ngấm ƣớt đầu mũi
kiếm rồi đem rạch vào da chân bò khỏe để phòng bệnh trên cho bò.
Truyền nhiễm học thú y là môn học nghiên cứu các quy luật hình
thành, tiến triển và ngừng tắt của các bệnh truyền nhiễm ở động vật ở cấp
độ cá thể (bệnh cảm nhiễm) cũng nhƣ cấp độ đàn hay tập đoàn (dịch).
Những quy luật của bệnh cụ thể đƣợc nghiên cứu trong học phần "Bệnh
truyền nhiễm thú y chuyên khoa", là phần tiếp tục của học phần này. Học
phần "Bệnh truyền nhiễm thú y đại cƣơng" này nghiên cứu 1) những thuộc
tính chung nhất của các yếu tố hình thành bệnh cảm nhiễm ở động vật,
diễn biến, hình thức và hệ quả của bệnh cảm nhiễm cũng nhƣ nghiên cứu
sự phổ biến của bệnh trong tập đoàn (thƣờng gọi là dịch tễ học bệnh truyền
nhiễm, hay dịch học bệnh truyền nhiễm) và 2) những nguyên tắc và kỹ
thuật phổ quát áp dụng chẩn đoán và phòng chống bệnh truyền nhiễm.
Những nhiệm vụ của môn học bệnh truyền nhiễm là nghiên cứu những quy
luật thuộc về đặc tính bệnh, đặc tính mầm bệnh, quan hệ giữa mầm bệnh
và cơ thể động vật trong điều kiện thống nhất với ngoại cảnh, các hiện
tƣợng bệnh lý, điều kiện phát sinh và lây lan bệnh, sự phát sinh, tiến triển
và ngừng tắt của dịch khi không có và có sự can thiệp của con ngƣời,... và
từ nhận thức về những quy luật đó, đề ra các biện pháp cụ thể, có cơ sở
khoa học chắc chắn, nhằm mục đích cuối cùng là phòng và chống, tiến tới
thanh toán các bệnh truyền nhiễm, góp phần tích cực bảo vệ sức khỏe đàn
gia súc, gia cầm và động vật khác, thông qua đó gián tiếp hoặc trực tiếp
bảo vệ sức khỏe của con ngƣời.
I. Sơ lược lịch sử phát triển các học thuyết về bệnh truyền nhiễm
Từ thời thƣợng cổ, con ngƣời đã đặc biệt chú ý đến nhiều bệnh
truyền nhiễm giết hại hàng loạt gia súc và ngƣời. Ngƣời ta cho rằng
nguyên nhân của bệnh dịch là sự trừng phạt của thần linh, nhƣng thần y
Hyppocrat (Hyppocrates, 459 - 377 tr. CN) đã tỏ ra nghi ngờ khi thấy rằng
bệnh dịch lan tràn nhiều quốc gia và tấn công con ngƣời không phân biệt
giai cấp và đã đề ra thuyết khí độc (miasma) để giải thích nguyên nhân của
bệnh. Ông giải thích dịch bệnh phát sinh nhiều sau các hiện tƣợng tự nhiên
của vũ trụ nhƣ xuất hiện sao chổi, động đất, lũ lụt,... là do không khí bị ô
nhiễm và không còn tốt đối với sức khỏe. Thuyết này đƣợc ngƣời ta tin
trong suốt thời gian kéo dài của lịch sử loài ngƣời, đặc biệt đến thời cận
đại ngƣời ta vẫn còn tin nguyên nhân gây bệnh sốt rét là khí độc, chính vì
vậy trong ngôn ngữ Châu Âu bệnh sốt rét đƣợc gọi là maleria (xuất phát từ
"mal-" và "aer"). Cho rằng sự lan truyền của bệnh là do khí độc của bệnh,
Hyppocrates tin vào thuyết dân gian rằng những ngƣời chăm sóc ngƣời
bệnh lao phổi cũng thƣờng mắc bệnh lao phổi, rằng trong không khí hít
vào có những phần tử nhỏ bé. Đồng thời, nghĩ rằng nguyên nhân xảy ra lƣu
hành bệnh dịch hạch cũng tƣơng tự nên ngƣời ta đã đốt khói, chƣng hƣơng
thơm thực vật và đã đạt đƣợc mục tiêu phòng dịch nhất định. Aristot
(Aristoteles, 384 - 322 tr. CN) đã mô tả những nghi vấn về hiện tƣợng
bệnh tật lan truyền từ ngƣời này sang ngƣời khác. Sau Aristoteles, đại y
nhân của thời cổ đại Galen (Galenos, 131 - 201) cũng đã nhận thấy dịch
hạch, bệnh ghẻ, viêm mắt, bệnh dại, bệnh phổi,... có tính truyền nhiễm.
Các sách thú y của thời thƣợng cổ Ai Cập, của cổ Hy Lạp (khoảng
1200 năm tr. CN) đã nói đến bệnh gia súc. Aristoteles cũng đã mô tả bệnh
dại, uốn ván, tỵ thƣ, qua nhiều vụ giết hại nhiều ngƣời và gia súc. Tuy thời
ấy con ngƣời đã dùng những quan điểm thần thoại giải thích nguyên nhân
bệnh, nhƣng trƣớc tai họa khủng khiếp của dịch gây ra, con ngƣời đã biết
dùng những biện pháp phòng bệnh. Ngay từ thời thƣợng cổ ngƣời Trung
Quốc đã biết lấy vảy đậu mùa đem sấy khô trên bếp, rồi nghiền nhỏ bỏ vào
mũi ngƣời để phòng bệnh đậu mùa. Thổ dân châu Phi lấy thanh kiếm nhọn
chọc vào phổi bò mắc bệnh viêm phổi để cho dịch phổi ngấm ƣớt đầu mũi
kiếm rồi đem rạch vào da chân bò khỏe để phòng bệnh trên cho bò.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Bệnh truyền nhiễm thú y (Phần đại cương)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- giao_trinh_benh_truyen_nhiem_thu_y_phan_dai_cuong.pdf
Nội dung text: Giáo trình Bệnh truyền nhiễm thú y (Phần đại cương)
- 11 đƣợc ban hành và đã góp phần thiết thực vào việc phòng chống bệnh truyền nhiễm. Với những điều kiện làm công tác khoa học ngày càng thuận lợi, ngành thú y đã phát hiện thêm một số bệnh mới, nghiên cứu cải tiến các loại thuốc tiêm phòng, sử dụng các phƣơng pháp mới trong chẩn đoán và điều trị. Qua thực tiễn công tác, chúng ta đã hiểu biết sâu thêm về quy luật của một số bệnh chính ở nƣớc ta, nhờ đó mà có kế hoạch tiêu diệt hoặc khống chế một số bệnh, hạn chế tác hại của nhiều bệnh truyền nhiễm khác. Tổ chức ngành thú y từ Trung ƣơng đến xã ngày càng đƣợc tăng cƣờng và củng cố. Cơ sở vật chất kỹ thuật thú y ngày càng đƣợc phát triển. Các cơ sở nghiên cứu khoa học, trƣờng đào tạo cán bộ thú y đƣợc mở rộng. Các công ty chế tạo thuốc thú y trong nƣớc, với sự đầu tƣ và hợp tác với nƣớc ngoài, đã chế tạo đƣợc hàng loạt vacxin phòng bệnh, đủ tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm. Nhiều tiến bộ kỹ thuật thú y đƣợc nghiên cứu áp dụng trong chẩn đoán, phòng bệnh và điều trị ở nƣớc ta. Thành tích hạn chế dịch bệnh và những thành tích khác của ngành thú y là kết quả vận dụng đƣờng lối của Đảng vào công tác khoa học kỹ thuật, dựa vào lực lƣợng nhân dân là chính, lấy vệ sinh phòng bệnh là chính kết hợp với tiêm phòng và chữa bệnh, trong công tác phòng chống dịch, vận dụng lý luận khoa học tiên tiến kết hợp với tình hình dịch bệnh cụ thể ở nƣớc ta. Tuy nhiên, nhiệm vụ của ngành thú y còn rất nặng nề, bệnh dịch mới và bệnh tái phát sinh là những vấn đề chung của thời đại mà ngành thú y phải luôn nâng cao cảnh giác để tích cực phòng chống bệnh cho gia súc, gia cầm, cũng nhƣ bảo vệ môi trƣờng sống và sức khỏe con ngƣời, nhƣ lời Viện sĩ Pavlov "Bác sĩ chữa bệnh cho ngƣời, bác sĩ thú y chữa bệnh cho nhân loại".
- 12 CHƢƠNG 1 CƠ CHẾ PHÁT BỆNH TRUYỀN NHIỄM (BỆNH CẢM NHIỄM) I. Cảm nhiễm và phát bệnh 1. Mầm bệnh (căn bệnh, bệnh nguyên) Khác với bệnh không truyền nhiễm, các bệnh truyền nhiễm có một đặc tính chung là có tính lây lan và do một loại, hoặc đôi khi một số loại, vi sinh vật gọi là mầm bệnh gây nên. Một mầm bệnh là một vi sinh vật đóng vai trò nguyên nhân trực tiếp và không thể thiếu của một bệnh truyền nhiễm. Mầm bệnh có nhiều loại và mỗi loại thƣờng gây nên bệnh với những đặc điểm riêng, nhƣng chúng có điểm chung là tính gây bệnh (hay độc tính) đối với ký chủ. Vi khuẩn là nhóm lớn vi sinh vật có đặc điểm chung là có nhân nguyên thủy, tức nhân chƣa có màng nhân và cấu tạo từ một ADN xoắn kép, vòng khép kín, cơ thể thƣờng là đơn bào và sinh sản bằng trực phân. Phần lớn vi khuẩn đòi hỏi những điều kiện nhất định, chẳng hạn tính kết bám (bám dính) lên tế bào, mới gây đƣợc bệnh. Vi khuẩn tác động bằng nội độc tố, ngoại độc tố hoặc bằng các cơ chế lý, hóa khác. Xoắn khuẩn (bộ Spirochaetales) tuy cũng là một loại vi khuẩn nhƣng chúng gây ra những bệnh có đặc điểm riêng. Phần lớn bệnh do xoắn khuẩn gây nên là bệnh bại huyết, gây sốt định kỳ và xuất hiện định kỳ xoắn khuẩn trong cơ thể, bệnh do xoắn khuẩn thƣờng cho miễn dịch không bền. Rickettsia cũng là những vi khuẩn nhƣng có cơ cấu trao đổi chất không hoàn thiện nên phụ thuộc vào tế bào ký chủ, do đó là những vật ký sinh nội bào. Chúng gây những bệnh sốt phát ban do chấy rận truyền lây. Những động vật chân đốt này có thể truyền Rickettsia trong nhiều thế hệ của chúng. Trong thiên nhiên có những thú rừng hoặc gia súc mang trùng. Bệnh do Rickettsia gây ra thƣờng cho miễn dịch mạnh và bền. Chlamydia có những đặc điểm tƣơng tự Rickettsia nhƣng không có cơ cấu trao đổi chất nên phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn năng lƣợng của ký chủ và có hình thái chuyển hóa tuần hoàn từ trạng thái nhỏ (thể cơ bản) sang trạng thái lớn (thể lƣới).
- 13 Mycoplasma cũng là những vi khuẩn nhƣng kích thƣớc nhỏ và không có vách tế bào nên thƣờng có hình thái đa dạng. Chúng gồm nhiều loại. Vi khuẩn thuộc nhóm này đƣợc phân lập đầu tiên là sinh vật gây bệnh viêm phổi - màng phổi có tên tắt là PPO (pleuropneumonia organism), cho nên các Mycoplasma phân lập đƣợc từ các trƣờng hợp khác thƣờng đƣợc gọi là PPLO (pleuropneumonia-like organisms). Chúng thƣờng gây ra những bệnh mãn tính nhƣng lây lan mạnh, có hiện tƣợng mang trùng lâu dài và gây miễn dịch bền vững. Xạ khuẩn (Actinomyces) và nhóm liên quan xạ khuẩn (các chi Streptomyces, Nocardia, ) cũng là những vi khuẩn vì có đặc điểm chung là nhân nguyên thủy nhƣng chúng lại có cơ thể hình sợi thƣờng cong, xoắn và phân nhánh. Xạ khuẩn lan rộng dần từ một điểm (đặc biệt trong bệnh phẩm) theo hình phát xạ của ánh sánh mặt trời và sinh bào tử đồng loạt nhƣ các nấm (vì vậy trƣớc đây chúng đƣợc coi là nấm bậc thấp). Virut là nhóm lớn vi sinh vật rất nhỏ, chƣa có cấu trúc tế bào, có những thuộc tính ở ranh giới giữa vật vô sinh và vật hữu sinh. Chúng thƣờng có tính hƣớng đối với một loại tổ chức nhất định, do đó thƣờng gây những biểu hiện giống nhau ở những động vật khác loài. Bệnh do virut gây nên thƣờng lây lan mạnh, có hiện tƣợng mang trùng và làm trỗi dậy những bệnh ghép khác nhƣng cũng thƣờng gây miễn dịch mạnh và bền. Nấm (hay chân khuẩn) là sinh vật nhân thực, tức nhân có màng nhân, phụ thuộc vào hình thái mà thƣờng đƣợc chia thành nấm men và nấm sợi. Thuật ngữ "nấm mốc" chỉ các loại nấm sợi không đạt kích thƣớc lớn nhƣ nấm mũ (lớp Nấm đảm). Đa số nấm sợi và men gây bệnh thƣờng sống hoại sinh trong thiên nhiên, có bào tử có thể sống lâu dài ở ngoại cảnh. Một số nấm gây bệnh thƣờng có hai dạng hình thái phụ thuộc vào điều kiện phát triển bên trong hay bên ngoài cơ thể động vật. Khi nhuộm tiêu bản bệnh phẩm những nấm này ta thƣờng thấy chúng có dạng hình cầu hay hình trứng (dạng nấm men) nhƣng khi nuôi cấy ở môi trƣờng nhân tạo chúng lại có dạng sợi (khuẩn ty). Vì vậy, chúng thƣờng đƣợc gọi là nấm nhị hình. Nhìn chung, các bệnh do các nấm gây ra thƣờng mãn tính và cho miễn dịch không vững chắc. Nguyên trùng (protozoa) cũng là các sinh vật nhân thực, thƣờng đƣợc coi là động vật bậc thấp. Vì thế nguyên trùng gây bệnh đƣợc coi là các động vật ký sinh (zooparasites) trong khi các yếu tố khác nêu trên (vi khuẩn, virut, nấm) đều đƣợc coi là các thực vật ký sinh (phytoparasites). Vì vậy, nhiều tài liệu bệnh cảm nhiễm (bệnh truyền nhiễm gia súc) không
- 14 mô tả loại tác nhân gây bệnh này một cách không thích đáng. Các nguyên trùng ký sinh đƣờng máu gây nên bệnh truyền nhiễm có đặc điểm là thƣờng do côn trùng hút máu truyền lây. Bệnh không có miễn dịch thực sự mà thƣờng chỉ cho miễn dịch có trùng. Việc xác định một vi sinh vật có phải là một mầm bệnh hay không là không dễ. Trên cơ thể động vật có nhiều loại vi sinh vật chung sống tạo thành khu hệ vi sinh vật "bình thƣờng", hay còn gọi là vi khuẩn chí bình thƣờng, không gây bệnh, đã thiết lập đƣợc sự cân bằng với ký chủ nên cả hai bên tồn tại và phát triển một cách cùng có lợi. Vi sinh vật gây bệnh (mầm bệnh) cũng có thể gây bệnh ẩn tính hoặc nhiều khi bệnh trải qua không thấy có biểu hiện gì. Vì vậy, cần phải có những tiêu chuẩn khách quan cho việc xác định mầm bệnh. Koch, khi nghiên cứu bệnh lao đã đề ra bốn nguyên tắc xác định mầm bệnh (định đề Koch). Những nguyên tắc này là 1) vi sinh vật gây bệnh nhất định phân lập đƣợc từ tất cả các trƣờng hợp bệnh và phân bố của nó trong cơ thể nhất trí với bệnh biến, 2) có thể bồi dƣỡng đƣợc vi sinh vật đó dƣới dạng lứa cấy thuần khiết trong ống nghiệm, 3) nhất định gây bệnh thực nghiệm đƣợc với vi sinh vật gây bệnh đó ở động vật mẫn cảm và 4) từ động vật cảm nhiễm thực nghiệm lại có thể phân lập đƣợc vi sinh vật đó. Những nguyên tắc của Koch đã đóng vai trò to lớn trong quá trình phát hiện mầm bệnh truyền nhiễm, nhƣng từ cuối thế kỷ XIX, càng ngày ngƣời ta càng thấy nhiều vi sinh vật là nguyên nhân của bệnh nhƣng không thể đáp ứng điều kiện của Koch. Chẳng hạn, vi khuẩn bệnh Tyzzer (Tizơ) không thể nuôi cấy trong ống nghiệm nhƣng có thể gây bệnh thực nghiệm cho động vật, ngƣợc lại các vi khuẩn gây bệnh cơ hội thì rất dễ nuôi cấy trong ống nghiệm nhƣng rất khó tạo đƣợc bệnh thực nghiệm. Để xác định một vi sinh vật có phải là mầm bệnh hay không việc đƣơng nhiên cần phải tính đến đáp ứng miễn dịch của động vật chủ chống lại vi sinh vật đó. Do đó, điểm cần thêm vào định đề Koch là sự gia tăng hàm lượng kháng thể đặc hiệu vào kỳ hồi phục. Gần đây, cùng với sự tiến bộ của sinh học phân tử việc giám định vi sinh vật mầm bệnh với vi sinh vật không gây bệnh đã trở nên dễ dàng hơn. Nhờ kỹ thuật tạo dòng gen (gene cloning) làm khả thi việc phân lập và đánh dấu gen chi phối tính gây bệnh nhất định nên làm cho việc nghiên cứu cảm nhiễm - phát bệnh ngày càng tiến triển. Từ đó, những "định đề Koch ở mức phân tử" đã đƣợc đề xuất và gồm những điểm sau: 1) kiểu hình hay tính trạng phải liên quan đến vi sinh vật mầm bệnh trong một loài hay một chi, 2) việc bất hoạt hóa
- 15 vị trí gen xác định liên quan tính gây bệnh nhất định dẫn đến giảm về lƣợng độc lực hoặc tính gây bệnh của vi sinh vật, và 3) phục hồi hoặc di nạp lại gen chi phối tính gây bệnh đã biến dị hay đã mất nhất định phục hồi tính gây bệnh của vi sinh vật. Nhờ định đề Koch, việc phân loại vi khuẩn thành gây bệnh và không gây bệnh tiến triển nhanh chóng. Tùy loài, có vi khuẩn phát huy tính gây bệnh không phải là những vi khuẩn thƣờng trú của cơ thể (vi khuẩn lao, vi khuẩn tỵ thƣ, ) nhƣng cũng có vi khuẩn thƣờng trú lại trở nên gây bệnh, nhƣ E. coli là vi khuẩn thƣờng trú của đƣờng ruột nhƣng lại là nguyên nhân gây bệnh đƣờng sinh dục tiết niệu. Do đó, phƣơng pháp nghiên cứu bệnh trong tập đoàn hay nghiên cứu dịch (tễ) học đƣợc vận dụng và ngày càng khẳng định ý nghĩa của mình trong việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa bệnh (hiện tƣợng) và mầm bệnh (bản chất) của bệnh truyền nhiễm. Một trong những tính chất cơ bản của mầm bệnh là tính gây bệnh của chúng. Điều kiện đầu tiên và cơ bản nhất của mầm bệnh là phải có tính gây bệnh hay năng lực ký sinh. Vi sinh vật trong thiên nhiên có nhiều loại: tự dƣỡng và dị dƣỡng. Trong số dị dƣỡng cũng có loại hoại sinh sống nhờ các chất xác chết của động vật và thực vật, loại ký sinh sống nhờ các tế bào động vật và thực vật, loại tùy tiện có thể sống trong điều kiện vừa ký sinh vừa hoại sinh. Ngoài ra, còn có loại ký sinh bắt buộc chỉ sống và phát triển trong cơ thể ký chủ. Hiện tƣợng ký sinh của vi sinh vật là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài, trong đó chọn lọc tự nhiên là cơ chế phổ quát. Ban đầu chúng là loại ký sinh không thƣờng xuyên, sau dần sống thích ứng trên cơ thể sinh vật, trở thành ký sinh bắt buộc và cơ thể trở thành một môi trƣờng sống thuận lợi duy nhất đối với chúng. Sự thích nghi của mầm bệnh dần tạo cho mầm bệnh các kiểu trao đổi chất khác nhau, có hình thái và đặc điểm sinh lý đặc trƣng cho từng loại. Đặc tính đó đƣợc truyền từ đời này sang đời khác. Trong quá trình tiến hóa thích nghi với cơ thể súc vật, nhiều loại mầm bệnh nhƣ Rickettsia và virut đã hƣớng đến ký sinh ở trong tế bào tổ chức (ký sinh nội bào). Nhiều mầm bệnh có xu hƣớng cƣ trú và sinh sản ở những tổ chức nhất định hoặc với mỗi loại cơ thể nhất định, nhƣ virut lở mồm long móng ký sinh ở súc vật loài móng chẵn, vi khuẩn tỵ thƣ ở động vật một móng. Có loại gây bệnh cho tất cả các loài gia súc nhƣ virut dại. Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp ở vi khuẩn giữa các chủng gây bệnh và không gây bệnh chỉ có sự khác biệt nhỏ là sự tồn tại của yếu tố ngoại lai
- 16 (ví dụ, plasmid ở Salmonella và phage ở Corynebacterium diphtheriae, ) trong các chủng gây bệnh. Các yếu tố ngoại lai này cũng có thể là kết quả của quá trình tiến hóa ký sinh lâu dài của vi khuẩn và dần dần trở nên có khả năng dịch chuyển độc lập. Tính gây bệnh hay độc tính là thuộc tính cơ bản của mầm bệnh, là sự khác biệt quan trọng giữa vi sinh vật gây bệnh và vi sinh vật không gây bệnh. Tính gây bệnh của một vi sinh vật gắn liền với năng lực xác lập sự tồn tại và phát triển (sinh sản) của nó trong cơ thể ký chủ. Đặc tính này đƣợc đo lƣờng bằng đại lƣợng độc lực. Độc lực biểu hiện mức độ cụ thể của tính gây bệnh. Đƣơng nhiên đại lƣợng này không chỉ diễn tả hay đánh giá đặc tính của mầm bệnh nói chung mà là đặc tính đối với loại cơ thể ký chủ cụ thể. Nhƣ vậy, độc lực còn nói lên khả năng chống đỡ của ký chủ cụ thể đối với mầm bệnh xác định. Một mầm bệnh có thể có độc lực cao đối với cá thể này hay loài này nhƣng lại có độc lực thấp hoặc không có độc lực đối với cá thể khác hay loài khác. Mầm bệnh có độc tính là nhờ khả năng xâm nhập và phát triển trong cơ thể, điều này phụ thuộc vào năng lực của nó tiết ra các yếu tố chống lại các cơ chế của cơ thể ngăn cản vật ngoại lai xâm nhập (các yếu tố kết bám, hay bám dính), các loại chất độc chất ngăn cản các cơ năng bảo vệ cơ thể, chất phá hủy các tổ chức của cơ thể trong quá trình xâm nhập và phát triển đó. Độc lực của mầm bệnh không cố định. Nhìn chung, mầm bệnh phân lập ở động vật bệnh cấp tính hoặc trong ổ dịch có độc lực cao hơn chính mầm bệnh đó đã qua nuôi dƣỡng kéo dài trong phòng thí nghiệm. Các vi sinh vật cùng loài phân lập ở những ổ dịch khác nhau cũng có độc lực khác nhau. Độc lực của mầm bệnh cũng có thể làm tăng giảm hoặc làm mất hoàn toàn bằng nhiều phƣơng pháp nhân tạo. Điều kiện tự nhiên cũng có thể làm biến đổi độc lực của mầm bệnh. Con ngƣời đã sử dụng khả năng biến đổi của độc lực vào việc phòng chống bệnh truyền nhiễm nhƣ tiêu độc, chế các loại vacxin, Số lượng: Tính gây bệnh (hay thƣờng gọi là độc tính) là thuộc tính nhất thiết phải có của vi sinh vật gây bệnh. Nếu không có các hàng rào bảo vệ cơ thể cũng nhƣ quá trình phát triển miễn dịch của ký chủ ngăn trở sự xâm nhập và phát triển của mầm bệnh, thì mỗi tế bào vi khuẩn hay mỗi virion virut đều có tính gây bệnh, tức cũng có thể xâm nhập và phát triển trong cơ thể ký chủ. Trong thực tế, tính đề kháng của ký chủ làm một lƣợng lớn tế bào hay virion bị tiêu diệt, vì vậy, mầm bệnh phải có một ngƣỡng số lƣợng nhất định mới thiết lập đƣợc khả năng xâm nhập và sau
- 17 đó phát triển trong ký chủ. Do đó, độc lực (đại lƣợng dùng để đo lƣờng độc tính) của một mầm bệnh còn phụ thuộc vào số lƣợng (thể tích dịch chứa mầm bệnh, hoặc số tế bào hoặc số virion) của mầm bệnh đó. Đại lƣợng này thƣờng đƣợc đo bằng các thí nghiệm trên động vật thí nghiệm cụ thể. Số lƣợng của mỗi vi sinh vật mầm bệnh là yếu tố quan trọng trong quá trình sinh bệnh của nó. Có mầm bệnh chỉ cần số lƣợng rất ít, có khi chỉ cần một tế bào vi khuẩn tụ huyết (Pasteurella) cũng đủ gây bệnh cho thỏ, từ 2 - 5 tế bào vi khuẩn sẩy thai truyền nhiễm (Brucella) có thể gây bệnh cho chuột lang. Nhƣng có mầm bệnh đòi hỏi số lƣợng phải nhiều mới gây đƣợc bệnh nhƣ nha bào nhiệt thán phải tới 24 nghìn cái mới gây bệnh ở thỏ, còn vi khuẩn Brucella phải tới 200 - 500 triệu tế bào mới gây bệnh ở cừu. Khi số lƣợng tế bào vi khuẩn tăng lên thì khả năng gây bệnh tăng lên, bệnh tiến triển càng nặng. Trong phòng thí nghiệm, để diễn tả độc lực của mầm bệnh ngƣời ta quy ước dùng liều ít nhất có thể gây chết, ký hiệu là DLM (dosis lethalis minima), tức là dùng số lƣợng mầm bệnh ít nhất nuôi trong những điều kiện nhất định về môi trƣờng, nhiệt độ và thời gian có thể giết chết một động vật nhất định. Tuy nhiên, do chịu ảnh hƣởng quá mạnh của tính đề kháng cá thể của động vật thí nghiệm đại lƣợng này rất khó xác định. Do đó trên thực tế, để có thể xác định độc lực một cách chính xác hơn (và ổn định hơn), ngƣời ta thƣờng dùng liều gây chết 50% số động vật thí nghiệm (ký hiệu LD50 - mean lethal dose), còn đối với những mầm bệnh không thể gây chết động vật mà chỉ gây bệnh mãn tính thì ngƣời ta sử dụng liều gây nhiễm 50% (ID50 - mean infective dose). Đƣơng nhiên, do biểu hiện độc tính của mầm bệnh chịu ảnh hƣởng mạnh từ phía ký chủ nên biểu thị độc lực của một mầm bệnh thƣờng phải nêu rõ loại động vật thí nghiệm. Ngƣời ta có thể ghi "mỗi ml dịch bệnh phẩm chứa bao nhiêu LD50 đối với chuột nhắt trắng sơ sinh" nhƣng mặt khác ngƣời ta cũng có thể xác định đƣợc số lƣợng tế bào vi khuẩn mầm bệnh tạo nên một liều gây chết trung bình đó. Để xác định LD50 ngƣời ta có một số phƣơng pháp, trong đó thƣờng sử dụng phƣơng pháp Reed và Muench. Phƣơng pháp này có ƣu điểm sử dụng một số lƣợng khá ít động vật thí nghiệm. Ví dụ dƣới đây trình bày cách xác định LD50 bằng phƣơng pháp này. Bảng: Thí nghiệm tiêm 0,2 ml bệnh phẩm pha loãng dần để xác định LD50 của bệnh phẩm Số động Số động Số động Số động vật Tỷ lệ Nồng Số động vật thí vật sống vật chết sống sót chết độ vật chết nghiệm sót cộng dồn cộng dồn (%)
- 18 10-1 6 6 0 21 0 100 10-2 6 5 1 15 1 93,7 10-3 6 4 2 10 3 76,9 10-4 6 4 2 6 5 54,5 10-5 6 2 4 2 9 18,2 10-6 6 0 6 0 15 0 -4 -5 -(4+x) Rõ ràng liều LD50 nằm ở khoảng giữa 10 và 10 , tức là 10 . Ta có thể tính đƣợc x dựa vào công thức: x = [tỷ lệ (%) cận trên - 50(%)] : [(tỷ lệ (%) cận trên - tỷ lệ (%) cận dƣới)], do đó x = (54,5 - 50)/(54,5 - 18,2) = 4,5/36,3 = 0,12. Vậy, 1 LD50 của bệnh phẩm mà ta thử nghiệm là 0,2 ml dịch bệnh phẩm đó ở nồng độ pha loãng 104,12, tức là 0,2 ml dịch bệnh phẩm đã pha loãng 13182 lần, hay 1 ml chứa 65910 LD50. Đường xâm nhập: là yếu tố ảnh hƣởng nhiều đến độc lực của mầm bệnh. Đƣờng xâm nhập của các loại mầm bệnh đƣợc xác lập trong quá trình tiến hóa lâu đời của chúng để thích nghi với đời sống ký sinh, tạo điều kiện thích hợp nhất để chúng gây bệnh và bảo tồn nòi giống. Vì vậy, trải qua quá trình chọn lọc tự nhiên, mỗi loại mầm bệnh thiết lập đƣợc một con đƣờng thích hợp nhất để vào cơ thể. Những mầm bệnh khác nhau có những đƣờng xâm nhập khác nhau. Một loài mầm bệnh có thể có một hoặc nhiều đƣờng xâm nhập, trong đó vẫn có một đƣờng xâm nhập chính. Đƣờng xâm nhập có ý nghĩa quan trọng trong hiện tƣợng nhiễm trùng. Nếu đƣờng xâm nhập thích hợp thì mầm bệnh dễ dàng gây bệnh và bệnh thể hiện điển hình. Nếu đƣờng xâm nhập không thích hợp thì mầm bệnh có thể không gây bệnh (virut viêm phổi lợn qua da) hoặc gây bệnh nhẹ và cho miễn dịch (vi khuẩn viêm phổi - màng phổi bò qua da đuôi) hoặc cần số lƣợng nhiều gấp nhiều lần mới gây đƣợc bệnh. Ngoài ra, cùng một đƣờng xâm nhập nhƣng ở những vị trí khác nhau trên cơ thể thì có thể gây nên những hiện tƣợng bệnh lý khác nhau. Những đƣờng xâm nhập chủ yếu của mầm bệnh vào cơ thể là đƣờng tiêu hóa, đƣờng qua da, niêm mạc, đƣờng sinh dục - tiết niệu và đƣờng máu. Khả năng xâm nhập vào cơ thể, sinh sôi nảy nở trong cơ thể, khả năng gây bệnh với một số lƣợng lớn nhất định, cùng với khả năng chịu đựng đƣợc ngoại cảnh, hợp lại tạo thành khả năng xâm nhiễm của mầm bệnh. Khả năng này làm cho mỗi bệnh truyền nhiễm có tính chất dịch (tễ) học riêng biệt. Những điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm.
- 19 2. Cảm nhiễm (nhiễm trùng) 2.1. Khái niệm Cảm nhiễm (thƣờng gọi là nhiễm trùng) là trạng thái, quá trình hay hiện tƣợng mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể động vật mẫn cảm, là một hiện tƣợng sinh học phức tạp xảy ra khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể động vật, trong những điều kiện nhất định của ngoại cảnh. Sau khi xâm nhập và phát triển trong cơ thể, mầm bệnh tác động nhiều mặt đến cơ thể. Để phản ứng lại, cơ thể chiến đấu với mầm bệnh trong quá trình cảm nhiễm tiến triển. Kết quả của cảm nhiễm có thể dẫn đến phát bệnh hay không phát bệnh tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu phát bệnh do cảm nhiễm một mầm bệnh nào đó thì những biểu hiện thƣờng đặc trƣng cho bệnh đó. Cùng với sự hình thành và phát triển học thuyết mầm bệnh của Koch và Pasteur, nhiều ngƣời, khi phân tích nguyên nhân và phƣơng pháp phòng bệnh truyền nhiễm, đã nhấn mạnh vai trò to lớn sức đề kháng của cơ thể. Nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh vai trò chủ động của cơ thể trong quá trình nhiễm trùng và đã tìm mọi biện pháp làm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật. Tạo điều kiện thuận lợi cho cơ thể và bất lợi đối với mầm bệnh là biện pháp ngăn chặn nhiễm trùng hoặc làm giảm nhẹ sự tiến triển của quá trình đó. Metchnicov đã đƣa ra một khái niệm "cảm nhiễm là cuộc đấu tranh giữa hai sinh thể hữu cơ". Hiện tƣợng đấu tranh giữa cơ thể và mầm bệnh lại xảy ra trong điều kiện nhất định của ngoại cảnh nên còn chịu ảnh hƣởng của rất nhiều nhân tố ngoại cảnh. Trong nhiều trƣờng hợp, ảnh hƣởng qua lại của các nhân tố đó đã dẫn đến kết quả là hiện tƣợng cảm nhiễm, phát bệnh hoặc mầm bệnh không thiết lập đƣợc sự tồn tại của nó trong cơ thể động vật. Học thuyết đánh giá đúng tầm quan trọng của cơ thể và môi trƣờng là thuyết stress. Thuyết này cho rằng (và đã đƣợc chứng minh rằng) khi cơ thể bị kích thích bởi mầm bệnh hoặc yếu tố ngoại cảnh bất kỳ, thần kinh trung ƣơng tiếp nhận và xử lý kích thích để bảo vệ cơ thể, kích thích còn đƣợc truyền xuống vùng dƣới thị và tuyến yên. Từ thùy trƣớc của tuyến yên hormon ACTH (adrenocorticotropic hormon) kích thích tuyến thƣợng thận đƣợc tiết xuất và theo máu đi khắp cơ thể và tác động vào vỏ thƣợng thận làm tổ chức này tiết steroid chống viêm dạng cortisol giúp cơ thể duy trì sự thăng bằng trƣớc sự kích thích của yếu tố kích thích (yếu tố gây bệnh). Trong khi đó, thùy trƣớc tuyến yên còn tiết STH (somatotropic hormon) có tác dụng tăng cƣờng phản ứng của tổ chức liên kết, tăng cƣờng tổng hợp protein, trong đó có tổng hợp kháng thể, tăng cƣờng phản ứng