Bài giảng Chuẩn đoán bệnh thú y (Phần 2) - Vũ Văn Hải

Chương I
CÔNG TÁC KHÁM BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN.
Tóm tắt chương
Chương này được viết súc tích trong 4 trang, được trình bày trong 3 tiết. Nội dung tập
trung nói về tầm quan trọng của công tác khám bệnh và chẩn đoán cả về mặt chuyên môn,
khoa học và chính trị; cách tiến hành công tác khám bệnh và chẩn đoán trong ngành thú y
phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam chúng ta. Ngoài ra nội dung của chương cũng
dành một phần giới thiệu sơ qua nội dung của công tác khám bệnh cũng như một số nguyên
tắc cần phải tôn trọng trong chẩn đoán.
Mục tiêu của chương
Sau khi học xong chương này, sinh viên chuyên ngành thú y và chăn nuôi thú y sẽ được
cung cấp những kiến thức về tầm quan trọng của công tác khám bệnh và chẩn đoán, cách
chuẩn nơi khám bệnh, dụng cụ khám bệnh, gia súc khám bệnh.
Ngoài ra, nội dung của chương cũng nhằm giáo dục sinh viên những tác phong và đức
tính cần phải rèn luyện trong suốt quá trình học để sau này trở thành một thầy thuốc thú y có
trình độ tay nghề cao và có lương tâm nghề nghiệp.
Nội dung của chương
I. Tầm quan trọng của công tác khám bệnh và chẩn đoán
Khám bệnh là một khâu quan trọng, có lẽ là khâu chủ yếu trong công tác của bác sĩ điều
trị vì nó quyết định khá nhiều cho sự thành công hay thất bại của công tác điều trị: công tác
khám bệnh có được làm tốt mới phát hiện được đúng và đầy đủ các triệu chứng để có thể làm
được một chẩn đoán thật chính xác và đầy đủ, rồi từ đó mới định được tiên lượng, cách điều
trị và phòng bệnh đúng đắn.
Đây là một công tác:
- Khoa học: ngoài kiến thức thú y học mà tất cả các thầy thuốc bắt buộc phải có đầy đủ,
còn phải có một quan niệm biện chứng cơ thể là một khối thống nhất trong đó mỗi bộ phận
đều có liên quan hữu cơ với nhau, vì thế không chỉ khám đơn độc bộ phận có bệnh mà luôn
luôn phải khám toàn bộ cơ thể.
- Kỹ thuật: phải theo đúng quy tắc khám và kỹ thuật khám mới phát hiện được đúng
triệu chứng.
- Chính trị: cách khám bệnh kỹ lưỡng tỉ mỉ của thầy thuốc ngoài việc giúp thầy thuốc
phát hiện đúng bệnh còn củng cố lòng tin cậy của chủ gia súc, giúp họ tin tưởng vào việc điều
trị cho bệnh súc của họ và giữ được uy tín cho bản thân.
Ngày nay mặc dù các phương pháp cận lâm sàng tiến bộ và phát triển rất mạnh, nhưng
vai trò của khám bệnh lâm sàng vẫn quan trọng vì nó cho hướng chẩn đoán để từ đó có chỉ
định làm các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết, tránh tình trạng làm tràn lan, không làm
những xét nghiệm cần thiết. Vậy công tác khám bệnh nên tiến hành như thế nào? 
pdf 20 trang thiennv 10/11/2022 3070
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Chuẩn đoán bệnh thú y (Phần 2) - Vũ Văn Hải", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_chuan_doan_benh_thu_y_phan_2_vu_van_hai.pdf

Nội dung text: Bài giảng Chuẩn đoán bệnh thú y (Phần 2) - Vũ Văn Hải

  1. - Electronic Medical Record System Demonstrations on the Web. - Szolovits, P: A Revolution in Electronic Medica Record Systems via the World Wide Web. 11
  2. CHƯƠNG III MỘT SỐ KHÁI NIỆM TRONG CHẨN ĐOÁN Tóm tắt chương Chương này gồm 4 trang được trình bày trong 3 tiết. Nó nêu rõ những khái niệm thường dùng trong chẩn đoán như hội chứng, triệu chứng, chẩn đoán, tiên lượng. Tiếp đến là các phần trình bày sâu về các phân loại của chúng. Trong mỗi phần đều dẫn chứng những ví dụ cụ thể làm cho người đọc dễ hình dung và dễ nhớ. Mục tiêu của chương Sau khi học xong chương này, sinh viên sẽ nắm được các thuật ngữ chuyên ngành thường dùng và cách phân loại, sử dụng chúng trong các trường hợp khác nhau. Từ đó phục vụ rất nhiều cho việc thu thập, nhận xét, đánh giá triệu chứng và định tiên lượng, đảm bảo cho công tác chẩn đoán được tốt và mang lại hiệu quả cho việc điều trị cũng như phòng bệnh trong thú y. Nội dung của chương I. Triệu chứng (Symptom) 1. Khái niệm. Một quá trình bệnh lý có thể gây ra những rối loạn về cơ năng hay làm thay đổi về hình thái của các khí quan bộ phận trong cơ thể. Những biểu hiện của sự rối loạn đó được gọi là triệu chứng. Vì vậy có thể hiểu: Triệu chứng là những biểu hiện của sự rối loạn về cơ năng, thay đổi về hình thái của các khí quan bộ phận trong cơ thể. Ví dụ: tăng hoặc giảm tần số hô hấp, tần số tim đập; tăng hoặc giảm nhu động của dạ dày, ruột, sốt. Nhiệm vụ của chẩn đoán là phát hiện triệu chứng bệnh. Trong một quá trình bệnh lý, giá trị chẩn đoán của các triệu chứng không giống nhau. Ví dụ: Bệnh uốn ván ở trâu bò có thể xuất hiện các triệu chứng ỉa chảy, sốt cao, bỏ ăn, cơ bị co cứng Trong đó triệu chứng cơ co cứng là có giá trị nhất vì nó điển hình cho bệnh. Một triệu chứng ở các giai đoạn bệnh lý khác nhau thì ý nghĩa chẩn đoán cũng khác nhau. 2. Phân loại triệu chứng 2.1. Phân loại theo phạm vi biểu hiện 2.1.1. Triệu chứng cục bộ Là triệu chứng chỉ biểu hiện ở một khí quan, bộ phận nào đó của cơ thể. Ví dụ, âm bùng hơi vùng hõm hông trái của trâu bò trong bệnh chướng hơi dạ cỏ; âm đục ở vùng ngực trong bệnh viêm phổi. 2.1.2. Triệu chứng toàn thân Là triệu chứng xuất hiện do phản ứng của toàn bộ cơ thể đối với nguyên nhân gây bệnh. Ví dụ: sốt, bỏ ăn, tim đập nhanh, ủ rũ. 2.2. Phân loại theo giá trị chẩn đoán 12
  3. 2.2.1. Triệu chứng đặc thù Là triệu chứng chỉ có ở một bệnh, khi gặp triệu chứng ấy thì chẩn đoán đúng ngay. Ví dụ: tĩnh mạch cổ đập dương tính trong bệnh hở van ba lá. * Chú ý: không phải bệnh nào cũng có triệu chứng đặc thù. 2.2.2. Triệu chứng chủ yếu - thứ yếu Triệu chứng chủ yếu bao gồm tất cả những triệu chứng có giá trị chẩn đoán. Nó bao gồm cả triệu chứng đặc thù, triệu chứng điển hình Ví dụ: âm "vỗ nước", tiếng "cọ" vùng tim trong bệnh viêm bao tim do ngoại vật. Ngược lại triệu chứng thứ yếu thường ít có giá trị chẩn đoán. Ví dụ: rối loạn tiêu hóa, đi lại khó khăn, phù thũng trong bệnh viêm bao tim do ngoại vật. 2.2.3. Triệu chứng điển hình- không điển hình Triệu chứng điển hình là triệu chứng sinh ra do những bệnh biến điển hình của tổ chức hay khí quan trong cơ thể. Ví dụ: hoàng đản trong rối loạn chức năng gan. Lưu ý: Triệu chứng điển hình không phải là triệu chứng đặc thù. Ở ví dụ trên, hoàng đản do rối loạn chức năng gan gặp trong nhiều bệnh như Leptospirosis, Kí sinh trùng đường máu. Triệu chứng không điển hình là sự thể hiện mập mờ, không rõ. 2.2.4. Triệu chứng cố định- ngẫu nhiên Triệu chứng cố định là triệu chứng thường phát ra trong một quá trình bệnh lý. Ví dụ: tiếng ran nhất định nghe thấy trong bệnh viêm phổi thùy, bệnh viêm phổi phế quản. Ngược lại, triệu chứng ngẫu nhiên là triệu chứng lúc có lúc không trong một bệnh. Ví dụ: hoàng đản trong viêm ruột cata. 2.2.5. Triệu chứng trường diễn- nhất thời Là triệu chứng xảy ra suốt quá trình bệnh. Ví dụ: ho trong trong bệnh viêm phế quản; con vật toát mồ hôi lạnh, thân nhiệt giảm trong bệnh giun chui ống mật. Ngược lại, triệu chứng nhất thời là triệu chứng chỉ xảy ra trong một giai đoạn nào đó của quá trình bệnh. Ví dụ: tiếng ran trong bệnh viêm phổi, con vật la hét từng cơn trong bệnh giun chui ống mật (khi giun không chui lên ống mật thì con vật ngừng la hét). II. Hội chứng (syndroms) 1. Khái niệm Có một số trường hợp bệnh lý khi điển hình bình thường biểu hiện bằng một số triệu chứng nhất định, những triệu chứng nhất định đó tập hợp lại gọi là hội chứng. Thông thường khi gặp các triệu chứng đó ta không thể kết luận được bệnh gì vì nhiều bệnh cùng thể hiện triệu chứng đó. Ví dụ: - Hội chứng hoàng đản (vàng da): ở một số bệnh như: viêm ruột cata, xoắn khuẩn, ký sinh trùng đường máu, viêm gan do virus. - Hội chứng ỉa chảy: triệu chứng ỉa chảy xuất hiện trong một số bệnh như: viêm ruột cata, bệnh phó thương hàn, bệnh dịch tả 13
  4. III. Khái niệm chẩn đoán 1. Khái niệm: Chẩn đoán là phán đoán bệnh thông qua các triệu chứng. Một chẩn đoán phải chú ý đến các nội dung như: Vị trí bệnh biến trong cơ thể: bệnh ở gan, tim, phổi hay thận Tính chất của những thay đổi đó: viêm, áp xe, phù hay hoại tử; xung huyết, xuất huyết, tụ huyết, nhồi huyết hay bần huyết, bệnh kế phát, bội nhiễm hay tái phát. Hình thức, mức độ những rối loạn chức năng: phổi viêm ở các thời kỳ gan hóa hay nhục hóa, ổ viêm thuộc dạng viêm loét hay viêm tăng sinh Nguyên nhân gây bệnh: vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng, độc chất, chấn thương, môi trường. Một quá trình bệnh lý thường rất phức tạp. Do vậy, để kết quả chẩn đoán chính xác và hoàn thiện, khi tiến hành chẩn đoán cần khám kỹ càng, phân tích nhiều mặt, tiến hành nhiều khâu. Kết hợp khám cơ bản và xét nghiệm chuyên biệt. Kết luận chẩn đoán không phải là bất di bất dịch mà có thể thay đổi theo quá trình bệnh vì chẩn đoán nhiều mặt, nhiều giai đoạn mới phản ánh đầy đủ quá trình bệnh. 2. Phân loại chẩn đoán Dựa vào phương pháp hay thời gian chẩn đoán mà ta có các loại chẩn đoán sau: 2.1. Theo phương pháp chẩn đoán 2.1.1. Chẩn đoán trực tiếp Là chẩn đoán căn cứ vào các triệu chứng điển hình của bệnh. Nghĩa là cách này chỉ có kết quả khi quá trình bệnh lý của một bệnh nào đó xuất hiện triệu chứng điển hình. Ví dụ, tiếng thổi tâm thu trong bệnh hẹp lỗ nhĩ thất tim; xuất huyết trên da lợn hình vuông tròn trong bệnh đóng dấu. 2.1.2. Chẩn đoán phân biệt Với những triệu chứng phát hiện thấy trên con vật bệnh, liên hệ đến các bệnh khác có cùng một số triệu chứng, rồi loại dần các điểm không phù hợp. Cuối cùng còn lại một bệnh có nhiều khả năng nhất là bệnh mà gia súc đang mắc. Ví dụ: chẩn đoán phân biệt các bệnh sau: - Bệnh xung huyết phổi và viêm phổi: hai bệnh trên đều có triệu chứng giống nhau là khó thở nhưng trong bệnh xung huyết phổi thì con vật không sốt. Ngược lại trong bệnh viêm phổi thì con vật sốt. - Bệnh viêm ruột thể ca ta và viêm ruột: viêm ruột thể ca ta thì con vật không sốt. Nhưng viêm ruột thì con vật sốt cao. - Viêm phổi thùy và viêm phổi - phế quản: viêm phổi phế quản sốt theo kiểu lên xuống, còn viêm phổi thùy thì sốt liên miên. - Chẩn đoán phân biệt 4 bệnh đỏ của lợn (học trong vi sinh vật học- truyền nhiễm). 2.1.3. Chẩn đoán sau một thời gian theo dõi Có nhiều bệnh triệu chứng không điển hình, sau khi khám không thể kết luận được bệnh và phải tiếp tục theo dõi, phát hiện thêm các triệu chứng mới đủ căn cứ để chẩn đoán bệnh. 14
  5. 2.1.4. Chẩn đoán theo kết quả điều trị Với những trường hợp mà triệu chứng lâm sàng gần giống nhau, sau khi khám rất khó kết luận bệnh này hay bệnh khác. Do đó cần điều trị một trong số bệnh đó và theo kết quả mà rút ra chẩn đoán. Ví dụ chẩn đoán bệnh dịch tả lợn và tụ huyết trùng lợn sau khi điều trị; chẩn đoán bệnh đóng dấu lợn và tụ huyết trùng lợn sau khi điều trị. 2.2. Theo thời gian chẩn đoán 2.2.1. Chẩn đoán sớm Là chẩn đoán mà kết luận bệnh thực hiện được ở ngay thời kỳ đầu của quá trình bệnh lý. Chẩn đoán sớm là mục đích của người làm công tác thú y vì nó sẽ giải quyết được các vấn đề về phòng và điều trị bệnh hiệu quả, mang lại giá trị kinh tế. 2.2.2. Chẩn đoán muộn Là chẩn đoán mà ta chỉ có thể kết luận được bệnh ở giai đoạn cuối của quá trình bệnh, thậm chí khi gia súc đã chết, mổ khám mới có kết luận bệnh. 2.3. Chẩn đoán theo mức độ chính xác 2.3.1. Chẩn đoán sơ bộ Là kết luận bệnh sau khi khám sơ bộ. Đây là cơ sở cho những phương pháp điều trị. Chẩn đoán sơ bộ còn nhiều nghi vấn, phải tiếp tục theo dõi để bổ sung thêm để chẩn đoán được chính xác. 2.3.2. Chẩn đoán cuối cùng Là kết luận chẩn đoán sau khi áp dụng nhiều phương pháp như khám, xét nghiệm; hoặc thông qua kết quả điều trị. 2.3.3. Chẩn đoán nghi vấn Là kết luận chẩn đoán tạm thời, đưa ra khả năng có thể khi gặp các trường hợp bệnh lý có triệu chứng mập mờ, diễn biến phức tạp. Cần phải theo dõi kỹ diễn biến của bệnh và kết quả điều trị để có kết luận chính xác hơn. IV. Khái niệm về tiên lượng (prognosis) 1. Khái niệm: Tiên lượng là sự phán đoán về tương lai của bệnh như: bệnh còn kéo dài bao lâu, những bệnh nào có thể kế phát, con vật sống hay chết, có khỏi hoàn toàn không, khả năng khai thác, sản xuất của con vật sau khi khỏi như thế nào (giá trị kinh tế). Một tiên lượng chính xác đòi hỏi phải suy xét nhiều yếu tố, kết hợp chẩn đoán lâm sàng và chẩn đoán phòng thí nghiệm. Chẩn đoán là kết luận hiện tại, tiên lượng là kết luận cho tương lai. 2. Phân loại tiên lượng: Có thể có 3 kết luận về tiên lượng: - Tiên lượng tốt: là con vật khỏi bệnh, có khả năng phục hồi hoàn toàn về chức năng, vẫn còn giá trị về kinh tế. - Tiên lượng xấu: là gia súc sẽ chết, hoặc có thể sống nhưng không lành hoàn toàn, mất khả năng sản xuất và sinh sản; nếu điều trị khỏi cũng tốn kém, mất nhiều thời gian. 15
  6. - Tiên lượng nghi ngờ: là trường hợp bệnh biến phức tạp, triệu chứng rất mập mờ không thể kết luận được bệnh và xác định tiên lượng. Câu hỏi ôn tập - Khái niệm triệu chứng, phân loại theo phạm vi biểu hiện? -Triệu chứng điển hình, đặc thù, cố định, trường diễn? - Khái niệm “chẩn đoán”, phân loại chẩn đoán theo phương pháp? - Phân loại chẩn đoán dựa theo thời gian chẩn đoán? - Phân loại chẩn đoán theo mức độ chính xác? - Tiên lượng là gì? Có mấy loại tiên lượng ? Tài liệu tham khảo - Lê Hữu Nghị (2006), Chẩn đoán thú y, ĐH Nông Lâm, Huế - Hồ Văn Nam (1979), Chẩn đoán bệnh không lây, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. - Definition on the web: 16
  7. CHƯƠNG II CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁM BỆNH CHO CON VẬT Tóm tắt chương Nội dung của chương trình bày ngắn gọn các phương pháp khám bệnh lâm sàng rất thường dùng trong thú y như phương pháp nhìn, phương pháp sờ nắn, phương pháp gõ và phương pháp nghe. Ngoài ra chương cũng đề cập đến những ưu nhược điểm của các phương pháp lâm sàng và so sánh với các phương pháp chẩn đoán phòng thí nghiệm khác. Nội dung của chương được trình bày trong 10 trang ứng với 6 tiết giảng trên lớp. Mục tiêu của chương Mục tiêu của chương nhằm cung cấp cho người học những kỹ thuật khám bệnh lâm sàng quan trọng mà nó sẽ theo người học trong suốt quá trình thực tập khám bệnh ở lâm sàng và cho cả quá trình công tác sau này. Mặt khác nó cũng giúp người học chọn cho mình một phương pháp thích hợp nhất trong điều kiện cụ thể nào đó, bảo đảm an toàn cho người khám cũng như cho cả bệnh súc. Nội dung của chương I. Các phương pháp lâm sàng 1. Phương pháp nhìn (inspectio) Nhìn ngoài là phương pháp khá đơn giản nhưng chính xác. Nó được sử dụng rộng rãi trong thú y. Để đảm bảo an toàn cho người khám, sau khi con vật đã được cố định hoặc được chủ của nó cầm giữ mới được quan sát. Nhìn từ xa lại gần để làm quen với gia súc, tránh tác động đột ngột làm cho con vật có phản xạ tự vệ bất lợi cho người khám. Nhìn bằng mắt thường hoặc có thể dùng đèn chiếu tùy từng trường hợp Tùy theo mục đích và vị trí nhìn mà đứng xa hay gần con vật. Cần tập quan sát các con vật trong trạng thái sinh lý mới dễ dàng phát hiện ra triệu chứng khi chúng mắc bệnh. Nên rèn luyện cách nhìn từ tổng quát đến cục bộ. Thường thì bắt đầu bằng nhìn tinh thần gia súc, thể cốt, tình hình dinh dưỡng; sau đó đến các bộ phận như: đầu, cổ, lồng ngực, vùng bụng và 4 chân. Nhìn vùng đầu: chú y tới sự biến đổi của niêm mạc mắt, mũi, miệng, quan sát sừng, ngà, vòi chú ý sự gãy, dập. Quan sát lưng: chú ý độ cong của xương sống (lưng cong cứng trong bệnh uốn ván) Quan sát hai bên sườn, đối chiếu so sánh giữa hai bên (loài nhai lại khi bị chướng hơi dạ cỏ, bụng bên trái thường rất to; ngược lại khi con vật có thai thì bụng phải to hơn bên trái) Quan sát vùng bụng xem vú có sưng không (con cái); quan sát vùng đuôi và âm hộ (con cái) có dịch chảy ra không, dịch hoàn (con đực) có sưng không 2. Phương pháp sờ, nắn (Palpatio) Phương pháp này cũng được áp dụng khi con vật đã được cố định, đảm bảo an toàn cho người khám. Sờ nắn để xác định ôn độ, độ ẩm, đàn tính của da, cảm giác đau. Sờ nắn còn biết được tính chất của tổ chức (ung thư, áp xe, hecni hay khí thũng ) 17
  8. Sờ nắn để bắt mạch, đo huyết áp, khám trực tràng, khám thai. Có hai cách sờ nắn: + Sờ bề mặt: là sờ những bộ phận nông để biết ôn độ, độ ẩm của da, lực căng của cơ; sờ để biết tần số hô hấp, tần số mạch đập và hoạt động của thành ngực khi con vật hô hấp. + Sờ sâu: để khám các khí quan sâu như sờ dạ cỏ, kiểm tra ngoại vật, khám thai qua trực tràng. Sờ nắn tổ chức hay khí quan, tùy theo cảm giác ở tay có thể có những trạng thái sau: + Dạng ba động: sờ có cảm giác lùng nhùng, di chuyển, ấn tay có vết lõm. Trạng thái này gặp khi tổ chức bị thủy thũng, ổ mủ. + Dạng nhão bột: cảm giác như ấn tay vào túi bột, chỗ ấn để lại vết tay ấn. Trạng thái này gặp trong bệnh bội thực dạ cỏ. + Dạng cứng: như lúc sờ vào gan + Dạng rất cứng: như lúc sờ vào xương 3. Phương pháp gõ (Percussis) Các cơ quan, tổ chức của cơ thể có vị trí giải phẫu khác nhau, cấu tạo khác nhau và tính chất khác nhau nên khi bị chấn động cũng phát ra các âm khác nhau. Khi gõ vào cơ quan tổ chức là tạo ra chấn động và làm phát ra âm thanh. Khi bị bệnh, tính chất của tổ chức thay đổi nên âm thanh phát ra khác với khi tổ chức bình thường. Sự khác nhau về âm thanh phát ra lúc tổ chức lành và khi tổ chức bị bệnh cho phép ta chẩn đoán được bệnh. Do vậy, phương pháp gõ được dụng rộng dãi trong thú y cũng như y tế. Để có thể chẩn đoán được bệnh thông qua gõ, người khám cần có kinh nghiệm và có thành thạo về kỹ thuật gõ. 1. Kỹ thuật gõ 1.1. Gõ trực tiếp: là dùng ngón tay gõ trực tiếp lên thân con vật; với con vật nhỏ thì dùng các ngón tay phải co lại và gõ theo chiều lòng bàn tay úp xuống dưới; với con vật lớn thì gõ theo chiều lòng bàn tay ngửa lên trên. Cách gõ này lực gõ yếu, âm thanh phát ra nhỏ, trong thú y ít dùng. 1.2. Gõ gián tiếp: là gõ qua một vật trung gian, có hai cách gõ gián tiếp. 1.2.1. Gõ qua ngón tay: dùng ngón trỏ và ngón giữa trái áp lên thân gia súc, ngón giữa phải cong lại và gõ lên đó. Nên tập gõ từ cổ tay, không dùng lực của cánh tay. 1.2.2. Gõ có búa và bản gõ: là thay tay gõ bằng búa gõ, tay đệm bằng bản gõ. Búa gõ làm bằng kim loại hoặc bằng gỗ, sừng, nhựa; bản gõ cũng có thể được làm từ những chất liệu trên. Búa gõ và bản có có nhiều loại với kích cỡ khác nhau với mục đích là sao cho dễ cầm khi khám và gọn nhẹ. 2. Các âm phát ra khi gõ 2.1. Âm trong - âm đục Âm trong vang, âm hưởng dài gặp khi gõ vào vùng khí quản, vùng phổi Âm đục yếu, ngắn gặp khi gõ vào vùng gan, cơ. 18
  9. Âm trong hay âm đục là do tính chất của tổ chức đặc hay xốp, tính đàn hồi của tổ chức cao hay thấp, lượng khí tích trong đó nhiều hay ít. Lúc có bệnh, tổ chức vốn xốp chuyển thành đặc lại, lượng khí chứa trong đó ít hoặc bị đẩy ra hết, đàn tính của tổ chức bị mất làm cho âm gõ chuyển từ trong sang đục. Ví dụ âm đục ở vùng phổi trong bệnh viêm phổi ở thời kỳ gan hóa, nhục hóa. Ngược lại, tổ chức vốn đặc nay chứa khí, khi gõ sẽ thấy âm bùng hơi. Ví dụ gõ vào ổ ung khí thán. 2.2. Âm cao hay âm thấp Phụ thuộc vào mức độ chấn động của tổ chức được gõ. Chấn động càng nhiều thì âm gõ càng cao và ngược lại. 2.3. Âm dài - âm ngắn Do chấn động kéo dài hay tắt ngay, âm này khó phân biệt nên ít có ý nghĩa trong chẩn đoán. 2.4. Âm trống Là âm nghe được khi gõ vào túi khí trong tổ chức của cơ thể, âm này to nhưng không vang. Ví dụ gõ vào phần trên dạ cỏ (trâu, bò), phần dưới manh tràng (ngựa). Cấu trúc của tổ chức khác nhau nên âm phát ra khi gõ khác nhau, mặt khác trong thú y có nhiều con vật to, nhỏ khác nhau nên việc phân biệt các âm gõ càng trở nên phức tạp. Người khám cần phải tập gõ nhiều và nghe quen các âm gõ. Gõ chỉ áp dụng ở vùng tim, phổi, dạ dày, ruột, gan, lách và xoang trán. 4. Phương pháp nghe (thính chẩn = Auscultatio ) Nguyên lý của phương pháp nghe là dựa vào âm thanh phát ra từ các cơ quan bộ phận trong cơ thể khi chúng hoạt động. Do tính chất hoạt động, cấu tạo của các cơ quan khác nhau nên âm hưởng nghe được cũng khác nhau (giống khi gõ). Chúng ta có thể dựa vào các âm thanh nghe được để chẩn đoán bệnh cho con vật. 4.1. Nghe trực tiếp Lấy một miếng vải, một tờ giấy đặt lên vùng nghe. Sau đó người khám áp tai của mình lên đó để nghe. Phương pháp này đôi khi không nghe được ở một số vị trí khó nên chỉ dùng khi không có ống nghe. 4.2. Nghe gián tiếp Phương pháp này là dùng ống nghe (Stethoscope). ống nghe có nhiều loại, loại có một tai nghe, loại có nhiều tai nghe. Nhưng phổ biến hay dùng hiện nay là loại có hai tai nghe. Để nghe được chính xác thì con vật phải được để ở nơi yên tĩnh và con vật cũng phải trong trạng thái yên tĩnh; không để cho nó kêu la,dãy đạp, rên rỉ. II. Các phương pháp cận lâm sàng Sự tiến bộ của khoa học trong mọi lĩnh vực đã góp phần vào việc phát triển các phương pháp cận lâm sàng để giúp cho sự chẩn đoán của y học thêm chắc chắn. Các phương tiện đó ngày càng nhiều, càng chính xác và tinh vi. Các thăm dò cận lâm sàng có thể nhằm vào 4 loại mục đích: 19
  10. 1. Để nhận định hình thái: Thường là các phương pháp: - X quang; chiếu và chụp, chụp thường hoặc có thuốc cản quang. - Soi nội tạng. - Đồng vị phóng xạ. 2. Để nhận định tổn thương, giải phẫu bệnh học: Đây là các phương pháp sinh thiết phủ tạng (sinh thiết mù hoặc tốt hơn hết sinh thiết dưới sự kiểm tra của mắt) để lấy ra một mẫu tổ chức đem xét nghiệm. - Vi mô: tìm các tổn thương giải phẫu bệnh học, thường có giá trị chẩn đoán chắc chắn nhất. - Sinh hoá mô đã áp dụng ở các nước có khoa học tiến bộ. 3. Để tìm tác nhân gây bệnh: Xét nghiệm giải phẫu bệnh học nói trên cũng là một phương pháp tìm tác nhân gây bệnh (sinh thiết một hạch to để biết tác nhấn gây bệnh là ung thư hay lao tuỳ theo hình thái giải phẫu bệnh học có tế bào ung thư hay tế bào khổng lồ của lao). Ngoài ra còn phương pháp khác để tìm một cách trực tiếp hay gián tiếp: - Vi khuẩn, virus. - Ký sinh trùng. - Nấm Ở các thể dịch và các chất thải tiết. 4. Để thăm dò chức năng: Một phần lớn các phương pháp này là các xét nghiệm sinh hoá học. Ngoài ra còn các phương pháp dùng máy móc (do chuyển hoá cơ bản để thăm dò chức năng giáp trạng điện tâm đồ để thăm dò chức năng tim ) và gần đây đã dùng thêm các phương pháp đồng vị phóng xạ. Phân tích ưu nhược điểm của các phương pháp lâm sàng và cận lâm sàng. 1. Các phương pháp lâm sàng Ưu điểm: Các phương pháp khám lâm sàng đơn giản, không cần đến những máy móc hiện đại, không cần nhiều đến các loại hóa chất đắt tiền, chi phí cho một chẩn đoán thường thấp. Chính vì vậy mà nó có thể áp dụng ở mọi nơi, đặc biệt là ở những nơi xa không có phòng thí nghiệm. Phương pháp này cho kết quả tương đối chính xác hoặc có khi kết luận ngay được bệnh nếu quá trình bệnh xuất hiện các triệu chứng đặc thù. Chẩn đoán lâm sàng còn là định hướng quan trọng cho các chẩn đoán phòng thí nghiệm. Nhược điểm: Sự chính xác của chẩn đoán phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế của người thầy thuốc cũng như diễn biến của quá trình bệnh lý. Mặt khác, rất nhiều 20