Tổng quan tài liệu về tiếp cận dịch vụ phòng chống HIV/AIDS và các bệnh/ nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục đối với nam có quan hệ tình dục đồng giới tại Việt Nam
Tổng quan tài liệu về tiếp cận dịch vụ phòng chống HIV/AIDS và các bệnh/ nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục đối với nam có quan hệ tình dục đồng giới tại Việt Nam
Tỷ lệ hiện mắc HIV trên thế giới và tại Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng, đặc biệt ở nhóm nam có quan hệ tình dục đồng giới (MSM) với những hành vi tình dục không an toàn. Đây cũng là nhóm bắc cầu làm lây truyền HIV trong cộng đồng dân cư nói chung với những hành vi chéo như quan hệ tình dục không an toàn với nữ, tiêm chích và sử dụng ma túy hoặc chất kích thích. Cùng với sự gia tăng tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm này thì tỷ lệ các bệnh/ nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục như lậu, giang mai, chlamydia ở cơ quan sinh dục và hậu môn cũng tăng một cách đáng báo động.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này được lý giải là do sự thiếu kiến thức về phòng chống HIV/STI/STDs của nhóm MSM dẫn đến những lầm tưởng, những ngộ nhận về nguy cơ lây nhiễm, khả năng điều trị cũng như tỷ lệ nhiễm trong cộng đồng nói chung và nhóm MSM nói riêng. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận sự hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV/AIDS, khám và điều trị STI/STDs của nhóm MSM do những rào cản từ sự kỳ thị và phân biệt đối xử của xã hội, tâm lý lo sợ biết tình trạng HIV, kiến thức bản thân hạn chế, hiểu biết lợi ích của các dịch vụ còn chưa rõ ràng và tác động của chi phí xét nghiệm điều trị. Từ những thực trạng trên, việc đưa ra những kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả các can thiệp dành cho nhóm MSM là cần thiết và nên được chú trọng
File đính kèm:
tong_quan_tai_lieu_ve_tiep_can_dich_vu_phong_chong_hivaids_v.pdf
Nội dung text: Tổng quan tài liệu về tiếp cận dịch vụ phòng chống HIV/AIDS và các bệnh/ nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục đối với nam có quan hệ tình dục đồng giới tại Việt Nam
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tổng quan tài liệu về tiếp cận dịch vụ phòng chống HIV/AIDS và các bệnh/ nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục đối với nam có quan hệ tình dục đồng giới tại Việt Nam Mai Xuân Thu (*) , Lê Cự Linh (**) Tỷ lệ hiện mắc HIV trên thế giới và tại Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng, đặc biệt ở nhóm nam có quan hệ tình dục đồng giới (MSM) với những hành vi tình dục không an toàn. Đây cũng là nhóm bắc cầu làm lây truyền HIV trong cộng đồng dân cư nói chung với những hành vi chéo như quan hệ tình dục không an toàn với nữ, tiêm chích và sử dụng ma túy hoặc chất kích thích. Cùng với sự gia tăng tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm này thì tỷ lệ các bệnh/ nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục như lậu, giang mai, chlamydia ở cơ quan sinh dục và hậu môn cũng tăng một cách đáng báo động. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này được lý giải là do sự thiếu kiến thức về phòng chống HIV/STI/STDs của nhóm MSM dẫn đến những lầm tưởng, những ngộ nhận về nguy cơ lây nhiễm, khả năng điều trị cũng như tỷ lệ nhiễm trong cộng đồng nói chung và nhóm MSM nói riêng. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận sự hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV/AIDS, khám và điều trị STI/STDs của nhóm MSM do những rào cản từ sự kỳ thị và phân biệt đối xử của xã hội, tâm lý lo sợ biết tình trạng HIV, kiến thức bản thân hạn chế, hiểu biết lợi ích của các dịch vụ còn chưa rõ ràng và tác động của chi phí xét nghiệm điều trị. Từ những thực trạng trên, việc đưa ra những kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả các can thiệp dành cho nhóm MSM là cần thiết và nên được chú trọng. Từ khoá: MSM, STDs, HIV/AIDS, đồng giới nam Literature Review about Access to HIV/AIDS and Sexually transmitted disease/infection prevention services among Men who have sex with Men in Viet Nam Mai Xuan Thu (*); Le Cu Linh (**) HIV prevalence in the world and Viet Nam has been on an increasing trend, especially among men who have sex with men (MSM) due to unsafe sex behaviors. This is a high-risk group that may spread HIV to 4 Tạp chí Y tế Công cộng, 2.2012, Số 23 (23)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | the community as the result of their risk behaviors such as: performing unsafe sex with both men and women, injecting and using drugs or stimulants. Furthermore, the prevalent rate of STDs, such as gonorrhea, syphilis, genital or anal Chlamydia is also on the alarmingly increasing trend. This situation is explained by the lack of knowledge of MSM about HIV/STIs/STDs, leading to the misconceptions about the risk of infection, potential treatment and prevention, particularly among MSM. Besides, it is reported that there are several limitations in accessing HIV/AIDS counseling and testing services, medical examination and treatment of STIs/STDs among MSM due to barriers of stigma and discrimination in the society, the psychological anxiety about HIV status, limited knowledge, understanding of benefits of the services, as well as the costs. From this literature review, recommendations for improving effectiveness of interventions for MSM should be made and paid attention to. Key words: MSM, STD, HIV/AIDS, Viet Nam Tác giả: (*) CN. Mai Xuân Thu: Trường Đại học Y tế Công Cộng, điện thoại: 0935 379 517, email: maixuanthu.macphi@gmail.com (**) PGS.TS. Lê Cự Linh, Bộ môn Dân số, Trường Đại học Y tế Công Cộng, email: lcl@hsph.edu.vn 1. Đặt vấn đề đa dạng, ít hoặc không sử dụng bao cao su và chất bôi trơn. Nam giới thường quan hệ tình dục với nhau Ngày nay, tình dục đồng giới nam là một vấn đề qua đường miệng và hậu môn, hành vi này có thể xã hội nhạy cảm chưa được chấp nhận ở nhiều nền làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV nếu không sử dụng văn hóa. Tuy nhiên, cho dù được "chính thức" thừa các biện pháp bảo vệ hay sử dụng không đúng cách nhận hay không thì tình dục đồng giới nam vẫn diễn [12]. Cho dù con số có thể khác nhau giữa các quốc ra tại tất cả các xã hội, ở nhiều nền văn hóa và ở mọi gia và các khu vực, nhưng nhiều nơi trên thế giới lứa tuổi [12]. Thuật ngữ "nam có quan hệ tình dục hiện vẫn chưa có thông tin chính xác về tỷ lệ này vì đồng giới" (Men who have sex with men - MSM) là nam giới thường không tự nhận mình là đồng tính thuật ngữ chỉ hành vi chứ không phải một đặc tính hay lưỡng tính. Những người đàn ông QHTD không [9]. Do đó, những người nam có quan hệ tình dục an toàn với đàn ông cũng có thể QHTD không an (QHTD) đồng giới không chỉ bao gồm những người toàn với phụ nữ. Bằng cách đó, họ đã trở thành cầu tự nhận là người đồng tính (gay) và người lưỡng tính nối lây truyền vi-rút cho các cộng đồng dân cư [19]. (bisexual), mà còn bao gồm cả những người đàn ông Từ những nhận định trên, việc thực hiện tổng tự nhận là dị tính (heterosexual) nhưng có quan hệ quan tài liệu về tiếp cận dịch vụ phòng chống tình dục (QHTD) cùng giới [4]. Nói cách khác, thuật HIV/AIDS và các bệnh/ nhiễm trùng lây truyền qua ngữ này dùng để chỉ tất cả nam có QHTD với nam đường tình dục đối với MSM tại Việt Nam là hết sức không cần quan tâm đến hoàn cảnh hay khuynh cần thiết. Tổng quan nhằm mô tả tỷ lệ hiện mắc hướng tình dục của họ [16]. HIV/STI/STDs cũng như kiến thức của MSM và Hầu hết đồng tính nam không bộc lộ rõ hoàn khả năng tiếp cận dịch vụ phòng chống toàn khuynh hướng tình dục của họ. Thêm vào đó, HIV/STI/STDs của MSM. Bên cạnh đó, với phần hành vi tình dục của đồng tính nam được đặc trưng bàn luận và khuyến nghị, tổng quan đưa ra một số bởi các hình thức hẹn hò kết bạn sôi nổi, QHTD với ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả các chương trình tần suất cao, có nhiều bạn tình, hình thức quan hệ can thiệp và các nghiên cứu về nhóm MSM. Tạp chí Y tế Công cộng, 2.2012, Số 23 (23) 5
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 2. Tỷ lệ hiện mắc HIV/STI/STDs của MSM đều trên 10% tại tất cả các thành phố, thay MSM tại Việt Nam đổi từ 14% - 20% và tỷ lệ cao nhất tại Hà Nội khi 14% MSM có QHTD nhận tiền và 20% MSM trong 2.1. Tỷ lệ hiện mắc HIV của MSM tại Việt Nam nhóm QHTD không nhận tiền nhiễm HIV [2]. Khi Trên phạm vi toàn thế giới khoảng 5% - 10% so sánh hai lần khảo sát thì dễ dàng nhận thấy tỷ lệ các trường hợp nhiễm HIV là do lây truyền qua hiện nhiễm tại thời điểm năm 2009 cao hơn trong đường tình dục của MSM [3]. Tỷ lệ hiện mắc HIV tất cả các nhóm MSM so với thời điểm năm 2006 tại Việt Nam cũng đang có chiều hướng gia tăng, tại các tỉnh thành khác nhau, bất kể MSM có hay đặc biệt ở nhóm MSM do nguy cơ lây truyền HIV không có hành vi QHTD nhận tiền. Cùng với QHTD qua QHTD không bảo vệ đặc biệt cao. Tính toán không an toàn, nguy cơ lây truyền HIV còn cao hơn cho thấy khả năng nhiễm HIV của MSM cao gấp nữa đối với MSM có tiêm chích ma túy. Tỷ lệ nhiễm 5,5 lần (3,4 - 9,1) so với cộng đồng dân cư nói HIV chưa hiệu chỉnh trong số MSM có nghiện chích chung [13]. Năm 2006 thì Việt Nam có 8% MSM là 31%, cao gấp 4 lần so với những MSM không nhiễm HIV trong khi tỷ lệ nhiễm ở người trưởng tiêm chích là 7,3% [8]. Một báo cáo khác đưa ra ước thành là 0,4% [24] đến năm 2008 thì tỷ lệ là 9% tính tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm MSM là 4,3% thì [25]. Năm 2009 tỷ lệ nhiễm HIV ở MSM tại Việt tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm MSM nghiện chích ma Nam ngang bằng với tỷ lệ MSM nhiễm HIV của túy là 40% [26]. Với những số liệu trên đây, tình toàn châu Á là 5% [21]. Tuy nhiên, theo số liệu của hình nhiễm HIV trong nhóm MSM đang gia tăng và năm 2010, tỷ lệ của Việt Nam chỉ có 3% trong khi ở mức báo động, cần thiết phải có các chương trình tỷ lệ chung của châu Á là 6% [22]. Mặc dù tỷ lệ này can thiệp để giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm HIV. có giảm, nhưng không có nhiều ý nghĩa do cỡ mẫu 2.2. Tỷ lệ hiện mắc bệnh/ nhiễm trùng lây nghiên cứu khác nhau cũng như sự tham gia của MSM tại Việt Nam vào nghiên cứu chung của châu truyền qua đường tình dục (STI/STDs) của Á còn hạn chế nhưng nhìn vào số lượng MSM hiện MSM tại Việt Nam mắc HIV thì thấy có sự tăng lên rõ rệt giữa năm sau Tại Việt Nam có rất ít số liệu về tỷ lệ nhiễm với năm trước. STI/STDs ở MSM nhưng các nghiên cứu gần đây đều cho thấy tỷ lệ nhiễm cao ở những người này [10]. Mặc dù các mẫu điều tra có thể không đại diện hết cho toàn bộ cộng đồng MSM nhưng là một sự cảnh báo cần thiết đối với các nhà hoạch định chính sách y tế. Một điều tra vào năm 2002 tại thành phố Hồ Chí Minh có 27% MSM nhiễm viêm gan B và 7% MSM mắc giang mai [15], cao hơn tỷ lệ của Phnom - Pênh là 6% [3]. Nhiều bằng chứng khác cũng cho thấy tỷ lệ mắc STI ở MSM tại Việt Nam rất cao khi Biểu đồ 1. Tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm MSM tại một số thành phố 94% MSM nhiễm vi rút herpes châu Á và Việt Nam và 11% có dương tính với xoắn khuẩn giang mai [20]. Điều tra năm 2006 tại Hà Nội và thành phố Hồ Khảo sát năm 2006 có 9,4% MSM tại Hà Nội và Chí Minh về tỷ lệ hiện mắc STI/STDs của MSM 5,3% MSM tại thành phố Hồ Chí Minh nhiễm HIV được mô tả trong bảng 2 [1]. Điều tra này được [1] [27]. Khi khảo sát trên được thực hiện lại vào thực hiện lại vào năm 2009 thì trung bình cứ 5 năm 2009 thì tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm MSM thì có một người nhiễm ít nhất một trong 5 6 Tạp chí Y tế Công cộng, 2.2012, Số 23 (23)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | MSM tin rằng MSM tại Việt Nam có nguy cơ nhiễm HIV [20]. MSM không nhận thức rõ nguy cơ một phần là do các thông tin về HIV/AIDS hiện nay nhấn mạnh quá nhiều đến nhóm nghiện chích ma túy và gái mại dâm khiến MSM có nhận thức sai về nguy cơ liên quan đến các thực hành tình dục và bạn tình của họ [21]. Tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ hiểu biết đúng về phòng tránh HIV lần lượt là 45,7% và 18,2%; cho rằng mình có nguy cơ lây nhiễm chỉ có 53,8% và 30,1% [11]. MSM biết HIV có thể lây truyền qua đường tình Biểu đồ 2. Tỷ lệ mắc STI/STDs của MSM tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (2006) dục âm đạo và đường máu, nhưng họ không biết hoặc không tin rằng HIV có thể lây truyền qua QHTD đường miệng hoặc STDs: giang mai, lậu sinh dục, lậu trực tràng, QHTD hậu môn. Họ cho rằng việc chọn lựa bạn Chlamydia sinh dục, Chlamydia trực tràng [13]. Số tình một cách cẩn thận sẽ bảo vệ họ không bị lây liệu trên được đưa ra thấp hơn so với tỷ lệ này của nhiễm HIV hoặc nguy cơ được giảm thiểu tối đa châu Á là 24% [9]. Khi so sánh chiều hướng giữa [22]. MSM còn có quan niệm cho rằng QHTD hậu các khu vực thì có sự thay đổi trái ngược khi Hà Nội môn và QHTD đường miệng có thể an toàn nếu có sự giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm STI ở cả nhóm người cho xuất tinh ra ngoài [23]. Có tới 66% MSM QHTD nhận tiền và QHTD không nhận tiền. Tuy ở Nha Trang tin rằng QHTD âm đạo nguy hiểm hơn vậy, cũng cần chú ý rằng những tỷ lệ trên có thể có QHTD hậu môn, và 45% không biết họ có nguy cơ những sai số nhất định, chỉ mang tính ước lượng cho mắc HIV không, 14% khẳng định là không và 28% quần thể, trên thực tế thì tỷ lệ MSM nhiễm STI có trả lời nguy cơ thấp [24]. Cả MSM thành thị và nông thể cao hơn rất nhiều. thôn đều có kiến thức khá tốt về đường lây truyền HIV. Tuy nhiên, MSM nông thôn có xu hướng tin 3. Kiến thức và khả năng tiếp cận dịch vụ một cách sai lầm rằng HIV lây qua tiếp xúc thông phòng chống HIV/STI/STDs của MSM tại thường hơn so với MSM thành thị [25]. Một điểm Việt Nam đáng lưu ý nữa là kiến thức về STI/STDs cũng như mối quan hệ giữa HIV và STI/STDs rất hạn chế, 3.1. Kiến thức về HIV/STI/STDs của MSM hầu hết MSM quan tâm đến HIV hơn so với Mặc dù MSM có kiến thức về lây truyền HIV STI/STDs trong khi STI/STDs có khả năng làm tăng và STI/STDs nhưng MSM vẫn còn có quan niệm sai sự lây truyền HIV. Điều này được giải thích do việc lầm về nguy cơ cá nhân, điều trị HIV và tỷ lệ nhiễm hạn chế trong tiếp cận với các thông tin cần thiết về trong số MSM [14]. Theo khảo sát thì có 67% MSM HIV và STI/STDs [26]. Do đó đặt ra lưu ý đối với có kiến thức về con đường lây nhiễm HIV. Mức độ các chương trình can thiệp tại Việt Nam cần tập hiểu biết về cơ chế lây nhiễm được phản ánh qua trung nhiều đến STI/STDs cho MSM bên cạnh các câu hỏi cho thấy MSM có kiến thức khá tốt song truyền thông phòng chống HIV. vẫn cần có sự nâng cao hiểu biết nhiều và sâu hơn cho họ [18]. Nhiều MSM tin tưởng rằng mình không 3.2. Khả năng tiếp cận dịch vụ phòng chống có nguy cơ lây nhiễm HIV và STI/STDs. Một số HIV/STI/STDs của MSM MSM khác có cảm nhận hoàn toàn sai về sự an toàn Mặc dù MSM là đối tượng có nguy cơ lây nhiễm vì cho rằng nam QHTD đồng giới không làm lây HIV và STI/STDs cao nhưng họ lại không mong nhiễm HIV [19]. Tại thành phố Hồ Chí Minh chỉ có muốn nhận dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV (XN khoảng một nửa MSM biết rằng một người trông có HIV) cũng như khám và điều trị STI/STDs. Theo vẻ khỏe mạnh vẫn có khả năng lây truyền HIV hoặc báo cáo châu Á thì năm 2010, Việt Nam có 41% chưa có cách nào chữa khỏi AIDS, một phần ba MSM chưa từng làm XN HIV bằng với tỷ lệ chung Tạp chí Y tế Công cộng, 2.2012, Số 23 (23) 7
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | của MSM châu Á; 33% MSM đã từng làm XN HIV Một điều quan trọng là MSM không tin mình có trong 6 tháng trước đó, cao hơn tỷ lệ của châu Á là nguy cơ lây nhiễm và hiểu biết về dịch vụ VCT còn 26% [10]. Theo một nghiên cứu khác thì có gần một hạn chế. Một số MSM không thể đến khám và điều nửa số người được hỏi đã đi XN HIV (49%). Nhóm trị tại các dịch vụ VCT và STI vì không đủ khả tuổi càng cao càng có tỷ lệ đã từng đi XN HIV cao năng chi trả các chi phí. Do đó, việc phát triển mô hơn. Tuy việc XN HIV không có quan hệ đáng kể hình phòng khám thân thiện với MSM hỗ trợ các với các yếu tố khác như học vấn, thu nhập cá nhân dịch vụ VCT và hệ thống MSM đồng đẳng như đã nhưng những MSM xuất thân từ gia đình khá giả lại triển khai tại thành phố Hồ Chí Minh là cần thiết có tỷ lệ XN HIV thấp hơn những MSM xuất thân từ [27]. Đây cũng là một hướng đi mới cần được nhân gia đình có kinh tế trung bình hay gia đình nghèo và rộng để tăng cường sự tiếp cận của MSM đối với người sống cùng gia đình cũng có tỷ lệ XN HIV các dịch vụ VCT. thấp hơn người sống với người khác hay đang sống một mình. Phần lớn những người đi XN HIV đều 4. Bàn luận được cán bộ y tế (CBYT) trao đổi về nguy cơ nhiễm Việc thực hiện các chương trình dự phòng lây HIV (84%), ý nghĩa của kết quả xét nghiệm (84%), nhiễm HIV trong nhóm MSM là vô cùng quan phương pháp phòng tránh HIV (85%) và nên làm gì trọng. Tuy nhiên trên thực tế, đây lại là nhóm khi biết kết quả xét nghiệm (80%) [18]. Con số này thường không lộ diện, bị kỳ thị, thiếu hiểu biết hoặc có thể cao hơn tình hình chung cho MSM cả nước, không có đầy đủ thông tin. Ở một số nơi, nhiều cá do tại các địa điểm trong nghiên cứu đã có những nhân và tổ chức không sẵn lòng làm việc với MSM. can thiệp giúp MSM nâng cao nhận thức và phòng Do đó, nguyên tắc quan trọng cần chú ý là tất cả các chống HIV. Theo một ước tính khác thì năm 2008 can thiệp dành cho đối tượng MSM cần tôn trọng có 16% MSM thực hiện XN HIV trong vòng 12 tính đa dạng của cộng đồng MSM và huy động sự tháng trước đó và biết kết quả [8]. Tại Nha Trang tham gia của các thành viên nhóm trong toàn bộ thì chỉ có 3% MSM đã từng làm XN HIV trước đây tiến trình thực hiện các can thiệp. [24]. Điều tra năm 2006 thì tại Hà Nội và thành phố Việc tiếp cận với các nhóm MSM sẽ hiệu quả Hồ Chí Minh có tương ứng là 20,1% và 24,0% MSM hơn khi sử dụng những điểm gặp mặt của MSM, kết đã từng XN HIV; 15,4% và 16,0% MSM đã từng hợp cùng với các hoạt động giải trí để triển khai các làm tư vấn và xét nghiệm tự nguyện (VCT), chỉ có can thiệp. Trong những hoạt động này, cần sự tham 7,1% và 2,8% đã xét nghiệm, được biết kết quả và gia tích cực của nhóm đồng đẳng bởi nó có vai trò tư vấn trước và sau xét nghiệm [11]. Rất ít MSM quyết định trong việc tiếp cận với đối tượng đích. biết đến và sử dụng dịch vụ VCT. Nhiều người khi Bên cạnh đó, các can thiệp có thể sử dụng internet mắc STI/STDs thì tự mua thuốc để tự điều trị cho như một kênh giáo dục rộng rãi. Những thông điệp bản thân [23]. Ngoài ra, MSM cũng thường điều trị STI/STDs tại các phòng khám tư hơn các phòng mang tính giáo dục và tư vấn có thể được phổ biến khám công [21]. Những rào cản khiến MSM không thông qua internet. Những trang web đặc thù cho đến các dịch vụ VCT, khám và điều trị STI/STDs mục đích này có thể được thiết kế và giới thiệu đến được đưa ra bao gồm sự kỳ thị và phân biệt đối xử cộng đồng MSM. Mặt khác, thành lập các trung tâm của xã hội, tâm lý sợ biết tình trạng HIV, kiến thức và đường dây nóng tư vấn cho MSM là điều cần bản thân hạn chế, hiểu biết lợi ích của các dịch vụ thiết để hỗ trợ nhóm nguy cơ này. Các trung tâm và VCT còn chưa rõ ràng và tác động của chi phí xét đường dây nóng cần được điều hành bởi những nghiệm điều trị [19]. Lý do hàng đầu được đưa ra là chuyên gia trong lĩnh vực tính dục và quyền tình MSM tự kỳ thị bản thân và sợ sự kỳ thị của CBYT dục, bao gồm cả tình dục đồng giới. Bên cạnh đó, cũng như sợ bị cộng đồng phát hiện ra đặc tính tình tư vấn viên cũng cần có những hiểu biết về các vấn dục của mình, nỗi sợ này càng gia tăng trong nhóm đề pháp luật liên quan đến bản quyền công dân. bóng lộ (BL) hơn là nhóm bóng kín (BK). Nhiều Một trong những hoạt động can thiệp cần MSM cũng không chuẩn bị tâm lý đầy đủ để đối chú ý là cải thiện chất lượng và đa dạng hình thức diện với thực tế trong trường hợp họ nhận được kết phân phối bao cao su giúp MSM sử dụng BCS quả HIV dương tính. Điều này càng nghiêm trọng thường xuyên hơn bằng cách thay đổi quan niệm hơn đối với những MSM mại dâm vì điều đó đồng sai lầm của MSM về nguy cơ lây nhiễm HIV; tăng nghĩa với việc họ không thể tiếp tục hành nghề. mức độ chấp nhận sử dụng BCS thông qua sự tham 8 Tạp chí Y tế Công cộng, 2.2012, Số 23 (23)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | gia của đồng đẳng và các chương trình tiếp thị xã khích xét nghiệm tự nguyện và mở rộng tiếp cận hội; mở rộng mạng lưới giáo dục đồng đẳng và dịch điều trị cho MSM bằng các dịch vụ chăm sóc sức vụ cộng đồng cho các MSM nguy cơ cao để phát khỏe tình dục thân thiện với MSM với việc tăng triển kỹ năng thương lượng dùng BCS; triển khai cường năng lực của cán bộ cung cấp dịch vụ VCT nghiêm túc chính sách quốc gia quy định về việc và STI/STDs để những dịch vị họ cung cấp trở nên cần có BCS ở những cơ sở dịch vụ giải trí. Không thân thiện hơn; nâng cao chất lượng và sự thuận những chỉ khuyến khích sử dụng BCS mà các tiện của các dịch vụ VCT/STI/STDs cũng là một chương trình can thiệp cũng cần chú ý đến việc trong những hoạt động cần thiết để xác định và nâng cao hiểu biết và khả năng tiếp cận với chất kiểm soát tỷ lệ hiện mắc HIV/STI/STDs ở nhóm bôi trơn tan trong nước để tăng cường sử dụng trong MSM hiệu quả hơn. nhóm MSM thông qua kích cầu và tăng tính sẵn có Nhưng điều quan trọng để thực hiện các can của chất bôi trơn tan trong nước; tăng cường tiếp thiệp một cách hiệu quả và thành công là cộng đồng, cận với chất bôi trơn tan trong nước tại các điểm đặc biệt là người lập chính sách, người cung cấp dịch bán lẻ phi truyền thống; tăng cường sự thuận tiện vụ công, giới truyền thông đại chúng và gia đình của trong việc sử dụng chất bôi trơn tan trong nước qua MSM cần có cái nhìn tích cực và bình đẳng hơn đối việc điều chỉnh cách đóng gói. với MSM để tăng cường sự tiếp cận của họ với các Cùng với những hoạt động đó, việc khuyến chương trình can thiệp giảm thiểu nguy cơ trên. Tài liệu tham khảo HIV/AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR), and C.q.P.t.Q.t.H.K. (USAID), Trao đổi với nam tình dục đồng Tiếng Việt giới: Các quan điểm của họ về thay đổi hành vi để dự phòng HIV. 2008. 1. Bộ Y tế, Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi 7. Trương, T.M., T.T. Tôn, and D. Colby, Hành vi tình dục và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam 2005 - đồng giới và nguy cơ lây nhiễm HIV tại khu vực nông thôn 2006. 2006. tỉnh Khánh Hòa - Việt Nam, in Giới, Tình dục và Sức khỏe 2. Bộ Y tế, Cục Phòng chống HIV/AIDS, and Viện Vệ sinh tình dục. 2006, Nhà xuất bản Thế giới: Hà Nội. Dịch tễ Trung ương, Kết quả chương trình giám sát kết hợp 8. Trường Đại học Y Hà Nội and S. Trường Đại học New hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) lần thứ 2 tại South Wales, Autralia, HIV/AIDS và các Trung tâm Giáo Việt Nam 2009. 2009. dục Lao động Xã hội ở Việt Nam: Nhu cầu, sự lựa chọn và 3. Griensven, F.v., Dịch tễ học về HIV và STI ở những người chăm sóc về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục của học đồng tính nam (MSM) tại Tiểu vùng sông Mekong (GMR): viên Trung tâm giáo dục lao động xã hội cùng bạn tình của Chúng ta biết những gì? 2005, Bộ Y tế Công cộng Thái Lan, họ. 2009. Tổ chức CDC Hoa Kỳ. 9. Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội, Tìm hiểu và giảm kỳ 4. Jenkins, R.A., Khái niệm MSM và Tình dục Nam giới ở thị liên quan đến nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới và Đông Nam Á. 2005, Trung Tâm Kiểm soát và Phòng ngừa HIV. 2010, Hà Nội. Dịch bệnh Atlanta, Hoa Kỳ. 10. Vũ, N.B. and P. Girault, Đối mặt với sự thật: Tình dục 5. Khuất, T.H., B.D. Lê, and T.L. Vũ, Nam có quan hệ tình đồng giới nam (MSM) và HIV/AIDS ở Việt Nam, in Giới, dục với nam ở Hà Nội: Đặc điểm xã hội và những vấn đề về Tình dục và Sức khỏe tình dục. 2005, Nhà xuất bản Thế giới: sức khỏe tình dục. 2005, Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội: Hà Nội. Hà Nội. 11. Vũ, M.L.v.n.n.c., Tình dục đồng giới nam tại Việt Nam 6. Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế tại Việt Nam - sự kỳ thị và hệ quả xã hội. 2009, SHAPC, Ford (FHI/Vietnam), Kế hoạch Hỗ trợ khẩn cấp cho Phòng chống Foundation.: Hà Nội. Tạp chí Y tế Công cộng, 2.2012, Số 23 (23) 9
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 12. Winder, R., HIV và nam giới có quan hệ tình dục đồng 19. ICAAP, Men who have sex with men (MSM) in Vietnam giới ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. 2006. - The regional picture. 2009. 20. ICAAP, Injection drug use (IDU) a major risk factor for HIV infection among Men who have sex with men (MSM) Tiếng Anh attending an outpatient clinic in Vietnam. 2007. 13. Beyrer, C., HIV/AIDS epidemics among men who have 21. Koe, S., MSM Sex Survey. 2009. sex with men (MSM) in Africa, Asia, Latin America and the Caribbean, and the CIS. 2008. 22. Koe, S., Asia Internet MSM Sex Survey. 2010. 14. Colby, D., HIV Knowledge and Risk Factors among Men 23. Ton, T.T. and D. Colby, HIV prevalence and risk factors who have Sex with Men in Ho Chi Minh City, Vietnam. among MSM in Khanh Hoa province. 2005. 2003. 24. Treat Asia and a.-t.F.f.A. Research, MSM and 15. Colby, D., H.N. Cao, and S. Doussantousse, Men who HIV/AIDS risk in Asia: What the Fueling the Epidemic have sex with men and HIV in Vietnam: A review. 2004. Among MSM and How Can It be Stopped? 2006. 16. (FHI), F.H.I., Reaching Men Who have Sex with Men in 25. Vu, N.B., Key issue in MSM and HIV Programming in Ho Chi Minh City: Sexual Identities and HIV Preventuon Vietnam. 2008. Opportunities. 2005. 26. Wijngaarden, J.W.d.L.v., Exploring factors and 17. Family Health International (FHI), Minimum package processes leading to HIV risk among the most vulnerable for HIV prevention interventions targeting men who have children and adolescents in Vietnam. 2006. sex with men in Ho Chi Minh City, Vietnam. 2006. 27. World Health Organization, Health sector response to 18. Hang, T.X.L., et al., Formative Assessment of Men HIV/AIDS among Men who have sex with men: Report of Having Sex with Men in Can Tho Province, Vietnam. 2005. the consultation. 2009. 10 Tạp chí Y tế Công cộng, 2.2012, Số 23 (23)