Đánh giá quá trình phục hồi của người bệnh có chấn thương vai bằng máy gia tốc kế
Khớp bả vai là khớp duy nhất của cơ thể người có thể vận động theo 3600. Tuy nhiên, khớp bả vai cũng rất dễ chấn thương do nhiều nguyên nhân như chấn thương cơ, sai khớp, thoái hóa … Do đó, dù ở bất kì lứa tuổi nào cũng có nguy cơ bị chấn thương ở vai hoặc hạn chế vận động vùng bả vai. Chẩn đoán chấn thương ở vai được xác định do yếu tố bên trong hoặc do tác động từ bên ngoài. Chấn thương do tác động từ bên ngoài bao gồm vận động thể thao, tai nạn hoặc do vận động mạnh dẫn đến gẫy xương, sai khớp, …
Chấn thương do yếu tố từ bên trong như hội chứng chèn ép, viêm co rút khớp vai, thoái hóa khớp…[1]. Một nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ mắc chấn thương vai vào khoảng 6,9% đến 26%. 18,6% đến 31% trong số đó đã không thể vận động được vai trong 1 tháng và khoảng 4,7% đến 46,7% không vận động được vai trong 1 năm. Khoảng 22% đến 68% tiếp tục có những vấn đề về vai sau hơn 12 tháng kể từ lần điều trị đầu tiên
File đính kèm:
danh_gia_qua_trinh_phuc_hoi_cua_nguoi_benh_co_chan_thuong_va.pdf
Nội dung text: Đánh giá quá trình phục hồi của người bệnh có chấn thương vai bằng máy gia tốc kế
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH PHỤC HỒI CỦA NGƯỜI BỆNH CÓ CHẤN THƯƠNG VAI BẰNG MÁY GIA TỐC KẾ Lê Xuân Hưng1, Liesbeth Bruckers2, Annick Timmermans2 1Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội 2Khoa Khoa học Công nghệ, Đại học Hasselt, Vương quốc Bỉ Nghiên cứu sử dụng cùng lúc ba máy gia tốc tại ba vị trí khác nhau trên người bệnh: cổ tay trái, phải và vùng eo để thu thập dữ liệu vận động của người bệnh. Mục tiêu nhằm đánh giá quá trình phục hồi của người bệnh có chấn thương vai bằng máy gia tốc kế thông qua việc sử dụng dữ liệu từ các máy kết hợp các yếu tố lâm sàng để đo lường sự thay đổi trong vận động của người bệnh qua thời gian, từ đó đưa ra đánh giá về quá trình phục hồi. 11 người bệnh có chấn thương vai được theo dõi trong 12 tuần điều trị phục hồi tại 4 thời điểm đánh giá (T0, T1, T2 và T3). Trong quá trình điều trị bằng các bài tập dưới sự hướng dẫn của bác sĩ được thay thế bằng các bài tập hướng dẫn vận động đã được ghi hình dành cho bệnh nhân tự luyện tập. Kết quả cho thấy, tuổi, giới và tình trạng bệnh là những yếu tố có thể sử dụng để đánh giá mức độ vận động từ số liệu thu được từ các máy đo gia tốc khi yếu tố quan tâm là “có vận động” hoặc “không vận động”. Từ khóa: gia tốc kế, nghiên cứu theo dõi dọc, mô hình ảnh hưởng hỗn hợp, đo lường lặp lại, phục hồi chấn thương vai I. ĐẶT VẤN ĐỀ Một nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ mắc chấn Khớp bả vai là khớp duy nhất của cơ thể thương vai vào khoảng 6,9% đến 26%. 18,6% người có thể vận động theo 3600. Tuy nhiên, đến 31% trong số đó đã không thể vận động khớp bả vai cũng rất dễ chấn thương do nhiều được vai trong 1 tháng và khoảng 4,7% đến nguyên nhân như chấn thương cơ, sai khớp, 46,7% không vận động được vai trong 1 năm. thoái hóa Do đó, dù ở bất kì lứa tuổi nào Khoảng 22% đến 68% tiếp tục có những vấn cũng có nguy cơ bị chấn thương ở vai hoặc đề về vai sau hơn 12 tháng kể từ lần điều trị hạn chế vận động vùng bả vai. Chẩn đoán đầu tiên [2]. chấn thương ở vai được xác định do yếu tố Cũng theo kết quả nghiên cứu được tiến bên trong hoặc do tác động từ bên ngoài. hành tại Bỉ, các bài tập trị liệu được sử dụng Chấn thương do tác động từ bên ngoài bao rộng rãi trong điều trị hội chứng chèn ép như gồm vận động thể thao, tai nạn hoặc do vận hội chứng cung đau, hội chứng gai, chấn động mạnh dẫn đến gẫy xương, sai khớp, thương bả vai của các vận động viên bơi lội Chấn thương do yếu tố từ bên trong như hội và các vận động viên ném lao. Các bài tập trị chứng chèn ép, viêm co rút khớp vai, thoái liệu này được xác nhận có thể giảm sự co hóa khớp [1]. cứng cũng như các chấn thương, thúc đẩy sự vận động khớp xương và phòng ngừa phù do Địa chỉ liên hệ: Lê Xuân Hưng, Viện Đào tạo Y học Dự tắc mạch bạch huyết [3]. phòng & Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội Ngày nay, cùng với sự phát triển của công Email: lexuanhung@hmu.edu.vn Ngày nhận: 11/8/2016 nghệ, việc ghi hình các bài tập hướng dẫn Ngày được chấp thuận: 28/12/2016 được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực bao gồm 52 TCNCYH 104 (6) - 2016
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC cả can thiệp y học, có thể kể đến như phục do cá nhân. Hiện nay với sự phát triển công hồi chấn thương não, giảm lo âu trước phẫu nghệ, gia tốc kế được thu nhỏ, có khả năng thuật và giảm nguy cơ tim mạch [4; 5; 6]. chống nước và đo được dữ liệu chuyển động Công nghệ tiên tiến này được đánh giá mang trên 3 trục. Ngoài ra số liệu từ thiết bị có thể lại nhiều sự thoải mãi hơn phương pháp điều dễ dàng trích xuất để tiến hành phân tích với trị truyền thống [7]. nhiều lựa chọn. Dựa vào những tính năng ưu Tuy nhiên, hiệu quả của việc điều trị phục việt của gia tốc kế, nhóm nghiên cứu muốn hồi chấn thương dựa vào các bài hướng dẫn kết hợp dữ liệu đồng thời từ ba máy đô gia đã được ghi hình không dễ để đánh giá [8; 9; tốc được gắn tại 2 tay và eo của người bệnh 10]. Nguyên nhân chính là do người bệnh có chấn thương vai để đánh giá sự phục hồi không tuân thủ giáo án tự điều trị tại nhà, họ thông qua các bài tập hướng dẫn đã được có thể dừng tập luyện ngay khi cảm thấy nghi ghi hình. ngờ về hiệu quả phục hồi hoặc vì những lý II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Hình 1. Sơ đồ nghiên cứu 1. Đối tượng: Người bệnh có chấn thương Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu theo dõi ở vai đến khám tại Khoa Vật lý trị liệu và phục dọc với các giá trị đo lường lặp lại. hồi chức năng của Bệnh viện Jessa tại Mẫu và chọn mẫu Hasselt, Vương Quốc Bỉ trong khoảng thời 11 người bệnh được tuyển chọn dựa trên gian từ tháng 1/2014 đến tháng 12/2015. các yêu cầu đã xác định phù hợp với mục tiêu 2. Phương pháp nghiên cứu. TCNCYH 104 (6) - 2016 53
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biến số số nghiên cứu hưỡng dẫn đã được ghi hình), thời điểm nghiên cứu 2 (T2) sau 6 tuần điều trị (bao gồm Các biến đôc lập là các biến ‘thời điểm đánh giá’, ‘tuổi’, ‘giới’, ‘tình trạng bệnh’ của 4 tuần sử dụng hướng dẫn đã được ghi hình), thời điểm nghiên cứu 3 (T3) sau 10 tuần điều người bệnh. Biến phụ thuộc là biến nhị phân trị (bao gồm 8 tuần sử dụng hướng dẫn đã với 2 giá trị: “có vận động” hoặc “không vận động” được tính toán từ biến VM (đại lượng được ghi hình). đo lường chuyển động của người bệnh), căn Xử lý và phân tích số liệu cứ xác định có chuyển động dựa vào ngưỡng Số liệu được trích xuất từ phần mềm xác định chuyện động khi đại lượng đo lường chuyên dụng của hãng. Số liệu được làm sạch chuyển động của người bệnh có giá trị lớn trước khi tiến hành phân tích trên phần mềm hơn 819 theo kết quả nghiên cứu trước đây. R 3.2.3. Mô hình ảnh hưởng hỗn hợp với các Kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin giá trị đo lường lặp lại cho biến đầu ra là biến nhị phân có đánh giá các yếu tố ngẫu nhiên. Mỗi người bệnh được yêu cầu đeo 3 thiết bị đo gia tốc của hãng Actigraph (GT3X) tại cổ 3. Đạo đức nghiên cứu tay trái, cổ tay phải và vùng eo. Thiết bị GT3X Nghiên cứu tuân thủ các nguyên tắc đạo được sử dụng để ghi nhận các chuyển động đức nghiên cứu trên người. Các đối tượng của người bệnh mỗi 10 giây trong 3 ngày liên tham gia nghiên cứu là hoàn toàn tự nguyện tiếp tại từng thời điểm đo lường của nghiên và có quyền rút khỏi nghiên cứu khi không cứu. Thời điểm nghiên cứu 0 (T0): thời điểm muốn tham gia nghiên cứu.Các thông tin liên lựa chọn ban đầu, thời điểm nghiên cứu 1 quan đến người tham gia nghiên cứu được (T1): sau 2 tuần điều trị (không sử dụng đảm bảo bí mật và vô danh. III. KẾT QUẢ 1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Tay trái VM Tay phải Eo Hình 1. Chuyển động của 1 người bệnh trong 24 giờ 54 TCNCYH 104 (6) - 2016
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Hình 1 mô tả hoạt động của 1 người bệnh trong 24 giờ thông qua đại lượng đo lường chuyển động (VM) của tay trái, tay phải và eo. Các khoảng trống trên đồ thị biểu thị người bệnh không có chuyển động hoặc không đeo thiết bị trong khoảng thời gian đó và thường xuất hiện tại phần cuối của đồ thị (lúc thời gian từ tối đến sáng hôm sau). Vì không thể xác định chính xác lý do của các khoảng trống trên đồ thị, đồng thời cũng có sự khác biệt giữa các người bệnh. Nhóm nghiên cứu đã thống nhất tập trung nghiên cứu số liệu chuyển động của bệnh nhân trong khoảng thời gian từ 8:00 - 22:00, đây là khoảng thời gian người bệnh có nhiều chuyển động nhất. Bên cạnh đó mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá sự phục hồi chấn thương vai thông qua đo lường chuyển động. Do vậy, với sự lựa chọn khoảng thời gian để phân tích, có thể loại bỏ phần nào số liệu chuyển động nhiễu giữa các người bệnh khi không xác định được chính xác nguyên nhân. Tay trái Tay phải Eo Người VM bệnh Thời gian Hình 2. Thông tin chung về chuyển động của người bệnh theo thời gian Hình 2 biểu diễn đại lượng đo lường chuyển động (VM) theo thời gian của tay trái, tay phải, và eo của từng người bệnh theo mỗi hàng. Chỉ có 3 người bệnh (số 2, 4 và 5) có đầy đủ số liệu thu thập theo đúng thiết kế của nghiên cứu (4 thời điểm đo lường khác nhau). Đa phần các người bệnh khác chỉ có số liệu đến thời điểm đo lường 2, thiếu 1 thời điểm đo lường cuối so với thiết kế của nghiên cứu. Riêng người bệnh số 3 chỉ có số liệu duy nhất tại thời điểm lựa chọn ban đầu. Ngoài ra, số liệu của người bệnh từ số 8 đến 11 tại thời điểm đo lường 2 chỉ thu được từ thiết bị ở tay phải thay vì từ cả 3 vị trị trên cơ thể. TCNCYH 104 (6) - 2016 55
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2. Tỷ lệ chuyển động của người bệnh qua từng thời điểm đo lường Tỷ lệ Hình 3. Tỷ lệ chuyển động của người bệnh qua từng thời điểm đo lường Hình 3 mô tả tỷ lệ chuyển động của người bệnh qua từng thời điểm đo lường, mỗi đường đại diện từng người bệnh được gán số tương ứng. Chúng ta kỳ vọng tỷ lệ chuyển động của người bệnh tăng lên qua từng thời điểm đo lường. Tuy nhiên, hình 3 chỉ ra đa phần có sự biến động trong tỷ lệ chuyển động qua từng thời điểm đo lường, 3 trong số 11 người bệnh có sự tăng lên trong tỷ lệ chuyển động tại thời điểm đo lường 1 (người bệnh số 10, 5 và 1) còn lại tỷ lệ này đều giảm. Đến thời điểm đo lường 2, 3 bệnh nhân trên lại có sự đi xuống trong tỷ lệ chuyển động như hầu hết các người bệnh khác. Tuy nhiên, chúng ta ghi nhận được tỷ lệ chuyển động tăng lên của người bệnh số 2, 9 và 11 tại thời điểm đo lường này. Vào thời điểm đo lường 3, chỉ có số liệu của 3 người bệnh, 2 trong số đó tiếp tục có sự suy giảm trong tỷ lệ chuyển động (số 2 và 5). Người bệnh số 4 có tỷ lệ chuyển động tăng lên nhưng không rõ rệt. 3. Mô hình ảnh hưởng hỗn hợp với các giá trị đo lường lặp lại cho biến đầu ra là biến nhị phân có đánh giá các yếu tố ngẫu nhiên. Bảng 1 là kết quả của phân tích đa biến của mô hình ảnh hưởng hỗn hợp với các giá trị đo lường lặp lại về mối liên quan giữa một số yếu tố với tỷ lệ chuyển động của người bệnh. Trong đó, các biến được mã hóa như sau: biến ‘Tuổi’ thành ‘Age’; ‘Thời điểm đo lường’ thành ‘Timepoint’; ‘giới’ thành ‘Gender’ và ‘Tình trạng bệnh’ thành ‘Onset’. 56 TCNCYH 104 (6) - 2016
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 1. Kêt quả mô hình ảnh hưởng hỗn hợp với các giá trị đo lường lặp lại cho biến đầu ra là biến nhị phân có đánh giá các yếu tố ngẫu nhiên Pr(Move) ~ Age + TimePoint + Gender + Onset + TimePoint*Onset Estimate Std. Error Pr ( > |z|) (Intercept) -1,8132 0,7631 0,0175 Age 0,0251 0,0143 0,0787 TimePoint1 -0,0582 0,0152 0,0001 TimePoint2 -0,2373 0,0153 < 0,0001 TimePoint3 -0,2936 0,0209 < 0,0001 GenderMale -0,9055 0,2819 0,0013 Onset > 3month -0,0885 0,2876 0,7582 Onset > 6month 0,2379 0,4140 0,5655 TimePoint1: Onset > 3month -0,0767 0,0188 < 0,0001 TimePoint2: Onset > 3month -0,5764 0,0204 < 0,0001 TimePoint3: Onset > 3month -0,9451 0,0339 < 0,0001 TimePoint1: Onset > 6month -0,0555 0,0313 0,0762 TimePoint2: Onset > 6month 0,1951 0,0311 < 0,0001 TimePoint3: Onset > 6month -0,1716 0,0358 < 0,0001 * Mức ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả cho thấy ngoại trừ các biến: ‘Age’, ‘Onset > 3 month’, 'Onset > 6 month' và tương tác giữa 'Timepoint1' với 'Onset > 6 month', tất cả các biến còn lại đều mang ý nghĩa thống kê. Từ kết quả này chúng ta có thể đưa ra một số phiên giải. Tỷ lệ chuyển động của người bệnh giảm tại mỗi thời điểm đo lường (Timepoint 1, 2, 3) khi so sánh với thời điểm lựa chọn ban đầu (Timepoint 0). Tỷ lệ chuyển động của người bệnh nam là thấp hơn so với người bệnh nữ. Tại cùng một thời điểm đo lường, người bệnh với tình trạng bệnh lớn hơn 3 tháng (Onset > 3 month) có tỷ lệ chuyển động thấp hơn so với người bệnh có tình trạng bệnh lớn hơn 12 tháng (Onset > 12 month). Hoặc giữa các người bệnh có cùng tình trạng bệnh lớn 3 tháng (Onset > 3 month), tỷ lệ chuyển động của các thời điểm đo lường (Timepoint 1, 2, 3) đều thấp hơn so với thời điểm lựa chọn ban đầu (Timepoint 0). Phiên giải tương tự đối với tình trạng bệnh lớn hơn 6 tháng (Onset > 6 month) khi tương tác với các thời điểm đo lường (Timepoint 1, 2, 3). TCNCYH 104 (6) - 2016 57
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC IV. BÀN LUẬN Tuy nhiên trong khuôn khổ giới hạn của bài báo, nhóm tác giả chưa thể đưa kết quả của Mục tiêu của nghiên cứu nhằm tìm hiểu những phân tích của mô hình ảnh hưởng hỗn việc sử dụng thiết bị đo gia tốc làm công cụ hợp cho các biến đầu ra liên tục, đo lường đánh giá quá trình phục hồi của bệnh có chấn vận động của người bệnh cho riêng số liệu thương vai. Do đó, 3 thiết bị đo gia tốc được của từng thiết bị đo gia tốc, cũng như kết hợp đồng thời sử dụng tại ba vị trí khác nhau trên dữ liệu đồng thời của cả 3 thiết bị. Một hướng cơ thể người bệnh (cổ tay trái, cổ tay phải và phân tích khác có thể triển khai thông qua vùng eo) để thu thập số liệu đo lường chuyển phân loại các dạng vận động ‘1 tay’; ‘2 tay’; động của người bệnh qua đó đo lường sự ‘toàn bộ cơ thể’ để đưa vào mô hình. Những phục hồi. Dựa trên kết quả của quá trình mô kết quả từ những phân tích trên là cần thiết để tả, phân tích số liệu với biến số quan tâm là tỷ so sánh kết quả phục hồi chấn thương vai của lệ vận động so với không vận động được tính bệnh nhân thông qua số liệu kết hợp từ 3 thiết toán dựa trên giá trị đo lường chuyển động bị đo gia tốc. thu được từ máy đo gia tốc để đánh giá phục hồi của người bệnh, kết quả cho thấy tính khả Nghiên cứu được triển khai để làm tiền đề thi khi sử dụng thiết bị đo gia tốc để đo lường cho các nghiên cứu sau nên cỡ mẫu chỉ dừng việc điều trị của người bệnh trong quá trình lại ở 11 bệnh nhân. Số liệu được ghi nhận từ phục hồi chấn thương vai. máy đo gia tốc sau mỗi 10s nên tổng số quan sát thu được lên đến hàng triệu bản ghi. Do Kết quả được tái khẳng định tính khả thi vậy, khi tiến hành phân tích cần áp dụng các khi sử dụng số liệu thu được từ máy đo gia phương pháp thống kê phù hợp để ra được tốc khi chạy mô hình ảnh hưởng hỗn hợp với kết quả chính xác, cũng như loại bỏ được các biến đầu ra quan tâm là tỷ lệ ‘có vận động’ so yếu tố gây nhiễu. với ‘không vận động’ của người bệnh kết hợp với các biến tiên lượng là ‘Tuổi’, ‘Giới’, ‘Thời V. KẾT LUẬN điểm đo lường’, ‘Tình trạng bệnh’ và tương tác từng cặp giữa các biến này được chạy thử Giá trị đo lường chuyển động thu được từ với nhiều mô hình có quan tâm đến yếu tố ảnh máy đo gia tốc có thể sử dụng để đánh giá hưởng ngẫu nhiên để lựa chọn ra mô hình qua trình phục hồi của người bệnh có chấn phù hợp nhất dựa trên giá trị AIC (Akaike thương vai khi chuyển đổi sang biến nhị phân Information Criterion) nhỏ, đồng thời sự phù để tính tỷ lệ giữa “có chuyển động” và “không hợp của các biến trong mô hình khi phiên giải. chuyển động”. Vậy việc đánh giá phục hồi Ngoài ra, từ kết quả của mô hình có thể đưa của người bệnh có chấn thương vai thông ra kết luận rằng tỷ lệ chuyển động tại từng qua sử dụng máy đo gia tốc mang ý nghĩa cả thời điểm đo lường (T1, 2, 3) đều nhỏ hơn so về mặt thống kê và lâm sàng là hoàn toàn có với thời điểm lựa chọn ban đầu (T0). Bên thể thực hiện. cạnh đó, chúng ta cũng tìm thấy tỷ lệ chuyển Người bệnh có xu hướng ít vận động sau động của nam giới thấp hơn so với nữ giới từ từng thời điểm đo lường, điều này khác với mô hình này. Các kết quả này đều mang ý giả định của nhóm tác giả. Đây là yếu tố cần nghĩa thống kê (p < 0,05). được xem xét để lựa chọn các biến đầu ra có 58 TCNCYH 104 (6) - 2016
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC thể là biến liên tục hoặc biến phân loại vận faction With Home Exercise: A Comparison of động để đánh giá quá trình phục hồi của Computer-Assisted Video Instruction and Rou- người bệnh. Từ đó có sự so sánh giữa các tine Rehabilitation Practice. Association of mô hình để đưa ra các kết quả tương ứng. Schools of Allied Health Professions. Các biến tiên lượng như ‘giới’, ‘tuổi’, ‘tình 5. Maller CE, Twitty VJ, Sauve A (1997). trạng bệnh’ là những yếu tố nên được xem xét A video approach tointeractive patient educa- khi đưa vào mô hình để chẩn đoán quá trình tion. Journal of PeriAnesthesia Nursing. El- phục hồi của người bệnh có chấn thương sevier, 12(2), 82 – 88. ở vai. 6. Patyk M, Gaynor S, Kelly J, Ott V (1998). Touch Screen Computerized Educa- Lời cảm ơn tion for Patients with Brain Injuries. Rehabilita- ‐ Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hỗ tion Nursing, 23(2), 84 - 87. trợ, giúp đỡ của lãnh đạo của Trường Đại học 7. Adsit KI (1996). Multimedia in Nursing Hasselt và Bệnh viện Jessa, Vương Quốc Bỉ and Patient Education. Orthopaedic Nursing, cùng các đối tượng tham gia nghiên cứu này. 15(4), 59. TÀI LIỆU THAM KHẢO 8. Patel S, Hughes R, Hester T, Stein J, Akay M, Dy JG et al (2010). A Novel Ap- 1. Pan J-I, Chung H-W, Huang J-J (2013). proach to Monitor Rehabilitation Outcomes in Intelligent Frozen Shoulder Self - Home Reha- Stroke Survivors Using Wearable Technology. bilitation Monitoring System, 19, 1 – 6. Proceedings of the IEEE. IEEE, 98(3), 450 – 2. Lentz TA, Barabas JA, Day T, Bishop 461. MD, George SZ (2009). The Relationship of 9. Korshøj M, Skotte JH, Christiansen Pain Intensity, Physical Impairment, and Pain- CS et al (2014). Validity of the Acti4 software Related Fear to Function in Patients With using ActiGraph GT3X + accelerometer for Shoulder Pathology. Journal of Orthopaedic & recording of arm and upper body inclination in Sports Physical Therapy. JOSPT, Inc. JOSPT, simulated work tasks. Ergonomics, 247 1033 North Fairfax Street, Suite 304, Alexan- 57(2), – 253. dria, VA 22134 - 1540, 39(4), 270 - 277. 3. Struyf F, Nijs J, Mollekens S, Jeuris- 10. Shafer DW, Szotak M, RRD Center sen I, Truijen S, Mottram S et al (2013). (1996). Individualized video-based stroke re- Scapular-focused treatment in patients with habilitation home program. 953 - 965 shoulder impingement syndrome: a random- 11. Butte NF, Wong WW, Lee JS, Adolph ized clinical trial. Clin Rheumatol. Springer- AL, Puyau MR, Zakeri IF (2014). Prediction of Verlag, 32(1), 73 – 85. energy expenditure and physical activity in 4. Lysack C, Dama M, Neufeld S, preschoolers. Medicine& Science in Sports & Andreassi E (2005). Compliance and Satis- Exercise, 46(6), 1216 – 1226. TCNCYH 104 (6) - 2016 59
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Summary ACCELEROMETRY AS A MEASUREMENT TOOL FOR THE ASSESSMENT OF PROGRESS DURING SHOULDER REHABILITATION Accelerometry has been used in the field of rehabilitation to assess the progress on activity level during the course of a shoulder treatment period. Usually only one accelerometer is used, and simple algorithms are applied to detect “activity”. However, this research used 3 accelerome- ters placed on 3 different positions of the patients, which included the left wrist, right wrist and the waist, to monitor shoulder rehabilitation progresses through these positions. The objective was to detect parameters in triaxial accelerometry data that can be used to measure individual changes over time. Eleven patients with shoulder pain were followed for 12 weeks during the course of rehabilitaton therapy with four measurement points (T0, T1, T2 and T3). During their rehabilitation program, a self-prepared, video-based exercise program replaced the patient’s regular paper instructions for home exercises. Participants were recruited from the department of Physical Medicine & Rehabilitation of the Jessa Hospital in Hasselt, Belgium. The results showed that age, gender, and onset of shoulder pain were predictable factors to evaluate the shoulder rehabilita- tion. The possible outcome variables are binary variable (‘Move’ or ‘Nomove’). Key words: Accelerometer; Longditudinal Data Analysis; Mixed effects model; Binary; Shoulder rehabilitaion; Repeated measuarements 60 TCNCYH 104 (6) - 2016