Bài giảng Thú y - Phan Thị Hồng Phúc

Chương I
NHỮNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ BỆNH VÀ PHƯƠNG PHÁP CHẨN
ĐOÁN BỆNH
I. NHỮNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ BỆNH
1.1. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH
Từ khi con người biết quan sát và tiến hành trị liệu các bệnh ở người và gia súc,
quan niệm về bệnh đã được hình thành và thay đổi theo nhận thức của con người về
thế giới xung quanh, đặc biệt là nhận thức về thế giới sinh vật và những hoạt động
sống của chúng.
Trong thời kỳ đầu lịch sử phát triển nhân loại, con người còn thiếu những hiểu
biết về tự nhiên, khả năng đấu tranh và chiến thắng thiên nhiên còn rất yếu. Con người
cảm thấy mình nhỏ bé và bất lực trước tự nhiên huyền bí, từ đó tin rằng mọi sự vật
đều do trời sinh ra và chi phối. Trong thời kỳ này, người ta cho rằng bệnh tật là do quỷ
thần gây ra, hoặc do trời trừng phạt. Từ quan niệm về bệnh mà nảy sinh cách trị bệnh
là cúng bái, tế lễ...
Trong thời cổ Trung Hoa, người ta cho rằng vạn vật đều do hai lực “âm, dương”
và năm nguyên tố ngũ hành “Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ” sinh ra. Theo quan điểm này
thì cơ thể khoẻ mạnh là do có sự cân bằng hoà hợp giữa các nguyên tố khác nhau, nếu
cơ thể mất đi sự cân bằng hoà hợp đó thì sẽ phát sinh ra bệnh.
Trong thời kỳ cổ đại Hy Lạp, Hypocratus (460-377 trước công nguyên) cho rằng,
chức năng của cơ thể con người là do bốn chất dịch quyết định: máu đỏ do tim tiết ra
và biểu hiện tình trạng nóng, máu đen ở lách biểu hiện tình trạng ẩm, mật vàng ở gan
biểu hiện tình trạng khô và niêm dịch ở mão biểu hiện tình trạng lạnh. Huypocratus
quan niệm rằng: Khi cơ thể khoẻ mạnh thì có sự cân bằng giữa bốn loại dịch đó, còn
khi có sự mất cân bằng của các dịch thì cơ thể bị bệnh. Học thuyết này gọi là học
thuyết thể dịch, mặc dù còn thô sơ nhưng quan điểm về bệnh đã mang tính duy vật
biện chứng.
Trong thời trung cổ (khoảng từ thế kỷ IV đến thế kỷ XII) các quan điểm mê tín
tôn giáo phát triển đến cực độ. Khái niệm về bệnh hoàn toàn mang tính chất duy tâm.
- 2 -
Ở thời kỳ văn hoá Phục Hưng, Paracelcius (1493-1541) đã đưa ra thuyết nguyên
tố hoá học, trong đó nguyên tố hoá học là cơ sở của toàn bộ thế giới hữu cơ. Ngoài ra,
Paracelcius lại cho rằng hoạt lực là yếu tố khống chế sự sống. Nếu hoạt lực thay đổi sẽ
gây nên bệnh tật.
Andre Vesala (1514-1564) đã nghiên cứu về cấu trú cơ thể con người, đặt nền
móng cho môn hình thái học sau này.
Năm 1916, William Harvay (1578-1657) đã công bố phát minh vĩ đại là sự tuần
hoàn máu.
Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển nhanh
chóng, những phát minh mới trong khoa học đã ảnh hưởng rất lớn đến y học đương
thời như: Định luật bảo toàn vật chất của Lômônôsốp (1711-1765), thuyết tiến hoá
của Đac - Uyn (1759), môn tổ chức học được hình thành, kính hiển vi xuất hiện... 
pdf 206 trang thiennv 09/11/2022 2240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Thú y - Phan Thị Hồng Phúc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_thu_y_phan_thi_hong_phuc.pdf

Nội dung text: Bài giảng Thú y - Phan Thị Hồng Phúc

  1. đầu cơ tim còn mạnh, bù đắp được, song dần dần suy yếu, dẫn tới ứ máu tĩnh mạch, gây phù và tràn dịch, rối loạn chuyển hoá và rối loạn chức năng toàn thân , cứ thế diễn biến làm cho bệnh ngày một nặng. Như vậy, trong quá trình sinh bệnh, nguyên nhân ban đầu gây ra những hậu quả nhất định, những thay đổi này lại trở thành nguyên nhân của nhiều rối loạn mới và các rối loạn này lại có thể dẫn tới những hậu quả khác. Đặc biệt là trong nhiều quá trình bệnh lý, những khâu sau lại tác động trở lại khâu trước làm cho bệnh nặng thêm. Thí dụ, trong bệnh đóng dấu lợn mãn tính, vi khuẩn đóng dấu lợn gây viêm nội tâm mạc, loét sùi van tim, do đó ảnh hưởng tới tuần hoàn, gây thiếu oxy, từ đó gây rối loạn chuyển hoá và gây suy tim. Do suy tim mà sự thiếu oxy càng tăng lên, làm cho sự rối loạn chuyển hoá càng trở nên nghiêm trọng hơn Cứ như vậy, khâu nọ tác động lên khâu kia, tạo ra vòng xoắn bệnh lý dẫn tới cơ thể không hồi phục được. Nhiệm vụ của người làm công tác thú y là thấy rõ được mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng bệnh lý, đánh giá đúng những thay đổi ấy và kịp thời phát hiện những thay đổi chủ yếu, nghĩa là những khâu chính trong quá trình sinh bệnh. Điều này rất quan trọng để có một cách điều trị thích đáng nhằm kịp thời ngăn chặn vòng xoắn bệnh lý và một khi chúng đã xảy ra thì phải kịp thời cắt đứt, phá vỡ vòng xoắn, nhằm loại trừ các rối loạn và phục hồi các chức năng. 1.3.6. Diễn biến và kết thúc của bệnh Trong quá trình phát triển của bệnh, cơ thể có những biến đổi khác với lúc bình thường. Những biến đổi đó gọi là triệu chứng. Triệu chứng của bệnh rất khác nhau bao gồm những biến đổi về hoạt động, về chức năng, về chuyển hoá vật chất, về thân nhiệt, về hô hấp, tim mạch, về thành phần máu, nước tiểu, về hình thái của cơ quan hay tổ chức. Nhìn chung, quá trình phát triển của bệnh không những diễn biến theo những quy luật nhất định mà quá trình này còn có tính chất giai đoạn nhất định. Người ta thường chia diễn biến của bệnh làm bốn thời kỳ. 1.3.6.1.Thời kỳ nung bệnh Thời kỳ này còn gọi là thời kỳ ủ bệnh, đước bắt đầu từ khi tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể và bắt đầu phát huy tác dụng đến khi cơ thể có những phản ứng đầu tiên. Ở thời kỳ này khả năng thích ứng của cơ thể còn mạnh, nên những rối loạn còn chưa thể hiện. Thời kỳ nung bệnh dài hay ngắn phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài, trạng thái cơ thể, đặc tính của từng tác nhân gây bệnh và vị trí tác động của tác nhân gây bệnh. - 10 -
  2. 1.3.6.2. Thời kỳ tiền phát (tiền chứng): Thời kỳ này bắt đầu từ khi cơ thể có những phản ứng đầu tiên cho đến khi bắt đầu xuất hiện những triệu chứng chủ yếu. Ở thời kỳ này, nguyên nhân gây bệnh tác động mạnh, khả năng thích ứng của cơ thể giảm, con vật có một số biểu hiện những dấu hiệu đầu tiên của bệnh như: ủ rũ, ăn kém hoặc bỏ ăn, tim mạch và hô hấp thay đổi, thân nhiệt tăng, niêm mạc xung huyết 1.3.6.3. Thời kỳ toàn phát Thời kỳ này bắt đầu từ khi cơ thể có những triệu chứng rõ rệt cho đến khi có những thay đổi đặc biệt, các rối loạn cơ năng biểu hiện rõ ràng, các triệu chứng điển hình cho từng loại bệnh được thể hiện. Sự rối loạn trao đổi chất và tổn thương bệnh lý của cơ thể ở thời kỳ này nặng nề nhất. 1.3.6.4. Thời kỳ kết thúc Thời kỳ này dài, ngắn phụ thuộc vào từng loại bệnh và thường diễn biến được một trong ba hình thức sau: + Khỏi bệnh hoàn toàn: Trường hợp này các nguyên nhân gây bệnh hết tác dụng, các triệu chứng bệnh biến mất, các tổn thương được phục hồi hoàn toàn, chức năng của các cơ quan trở lại bình thường, khả năng lao động và tính năng sản xuất được phục hồi hoàn toàn. Đối với một số bệnh truyền nhiễm thì lúc này khả năng phản ứng của cơ thể thay đổi, phát sinh trạng thái miễn dịch với bệnh vừa mắc (ví dụ: bệnh đậu ). + Khỏi bệnh không hoàn toàn: Các nguyên nhân gây bệnh đã ngừng hoạt động, các triệu chứng chủ yếu đã hết, nhưng về cấu tạo và chức năng của cơ quan thì chưa khôi phục hoàn toàn (ví dụ: mất khả năng tiết sữa sau khi viêm vú), hoặc còn để lại những dấu vết của bệnh (ví dụ: hẹp, hở van tim sau khi viêm nội tâm mạc). Trong nhiều trường hợp, sự lành bệnh chỉ là biểu hiện bề ngoài, sau một thời gian bệnh lại phát ra gọi là hiện tượng “tái phát”. Nguyên nhân là do yếu tố gây bệnh chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, đồng thời sức đề kháng của cơ thể yếu, nên yếu tố gây bệnh có cơ hội phát triển làm con vật phát bệnh trở lại. + Chết: Chết là kết thúc của sự sống. Con vật bị chết do cơ thể không thích nghi với những biến đổi của điều kiện sống. Có hai nguyên nhân chính dẫn đến cái chết: một là, ngừng hoạt động của tim; hai là, ngừng hô hấp, liệu trung khu hô hấp. Cái chết có thể rất nhanh, gọi là đột tử. Nhưng thường thì trải qua một giai đoạn từ từ, gọi là giai đoạn hấp hối. Ở giai đoạn này đầu tiên tim và hô hấp ngừng tạm thời (trong vòng 0,5-1,5 phút), mất phản xạ mắt, đồng tử mở rộng, vỏ não bị ức chế, các - 11 -
  3. hoạt động sống đều bị rối loạn; tiếp đó xuất hiện hô hấp trở lại, thở ngáp cá, tim đập yếu, có thể xuất hiện phản xạ trở lại (trong vòng vài phút đến nửa giờ); sau đó là thời kỳ chết lâm sàng: hoạt động tim và phổi ngừng, thần kinh trung ương hoàn toàn bị ức chế (kéo dài 5-6 phút); cuối cùng là chết sinh vật: mọi khả năng hồi phục không còn, các cơ quan, tổ chức trong cơ thể không chết cùng một lúc mà hệ thần kinh trung ương chết trước, rồi đến tuần hoàn, hô hấp II. PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN CƠ BẢN 2.1. Khái niệm 2.2.1. Chẩn đoán Là phương pháp kiểm tra bệnh (hỏi bệnh, quan sát, sờ nắn, gõ, nghe). Trong chẩn đoán có chẩn đoán sớm, chẩn đoán lâm sàng. Ngoài ra còn có những phương pháp chẩn đoán hiện đại phát hiện bệnh nhanh và chính xác 2.2.2. Tiên lượng Sau khi chẩn đoán đưa ra phán đoán kết quả của bệnh. Có 3 loại tiên lượng: - Tiên lượng tốt: Chữa nhanh khỏi, ít thiệt hại về kinh tế - Tiên lượng xấu: Bệnh lâu khỏi, thiệt hại về kinh tế, có thể chết. - Tiên lượng nghi ngờ: Chẩn đoán chưa chính xác, chưa đủ điều kiện để kết luận, cần theo dõi kỹ hơn. 2.2.3.Triệu chứng Là những biểu hiện của bệnh có thể nhận biết dễ dàng qua các phương pháp khám bệnh: sờ, nắn, gõ, nghe Qua triệu chứng có thể kết luận được bệnh. Ví dụ: ho là bệnh viêm phổi, ỉa chảy ra máu là xuất huyết ruột. Nhiệt độ cao là sốt 2.2. Phương pháp khám chung 2.2.1. Khám chung 2.2.2.1. Hỏi bệnh Trước khi khám bệnh cần hỏi tên và địa chỉ của gia chủ để tránh nhầm lẫn giữa các ca bệnh. Sau đó là hỏi các thông tin liên quan đến bệnh súc như: - Loài, giống: các loài, giống khác nhau đôi khi mắc các bệnh khác nhau, hoặc mắc cùng một bệnh nhưng thể hiện triệu chứng khác nhau. - Tuổi: một số bệnh lại chỉ xảy ra ở một lứa tuổi nhất định - Tính biệt: bệnh ở con đực khác ở con cái - Trọng lượng: ở cùng độ tuổi, một số cá thể to khỏe lại dễ mắc một số bệnh. Mặt khác biết trọng lượng cho phép tính được liều lượng thuốc sẽ đưa vào cơ thể. - 12 -
  4. - Gia chủ đã mua con vật về lâu chưa: con vật mới bắt về có thể chưa bình thường trở lại do các stress vận chuyển; một số bệnh lại phát ra ngay sau khi con vật bị chuyển vùng. - Mục đích nuôi con vật: nuôi con vật để làm gì, mỗi một loại hình khai thác con vật sẽ làm nảy sinh các bệnh theo các loại hình khai thác đó. - Các bệnh đã được tiêm phòng, thời gian tiêm phòng, con vật chưa được tiêm phòng bệnh nào thì có nguy cơ mắc bệnh đó nhiều hơn. - Tình hình thức ăn, nước uống, chăm sóc, quản lý con vật: chăm sóc quản lý con vật không tốt đôi khi làm con vật mắc một số bệnh. - Tình hình dịch bệnh tại chỗ: nhiều bệnh tồn tại lưu cữu tại địa phương, thỉnh thoảng lại phát lại. Thời gian mắc bệnh: biết thời gian mắc bệnh cho phép chẩn đoán nguyên nhân bệnh, tính chất của bệnh, tiên lượng. - Số lượng gia súc mắc bệnh: cho ta biết tỷ lệ ốm, chết. Sau đó căn cứ vào triệu chứng để xem con vật mắc bệnh gì, bệnh truyền nhiễm hay trúng độc. - Nguyên nhân gây bệnh: có khi gia chủ biết nguyên nhân gây bệnh, cũng có khi ta gợi ý mà gia chủ suy luận ra nguyên nhân. - Hỏi các phương pháp điều trị mà bệnh súc đã được áp dụng trước đó và tác dụng của các phương pháp đó. Chẳng hạn bệnh súc đã dùng thuốc gì, liều lượng, liệu trình là bao nhiêu, hiệu quả của các phương pháp đó như thế nào: từ đó có thể suy ra bệnh. Sau khi biết các thông tin nói trên, tiến hành hệ thống lại các tài liệu thu thập được, phân tích, đối chiếu tìm mối liên hệ giữa chúng và từ đó dự kiến chẩn đoán. 2.2.2.2. Quan sát - Quan sát bên ngoài là phương pháp khá đơn giản nhưng chính xác, được sử dụng rộng rãi trong thú y. Để đảm bảo an toàn cho người khám, sau khi con vật đã được cố định hoặc được chủ của nó cầm giữ mới được quan sát. - Quan sát từ xa lại gần để làm quen với gia súc, tránh tác động đột ngột làm cho con vật có phản xạ tự vệ bất lợi cho người khám. - Quan sát bằng mắt thường hoặc có thể dùng đèn chiếu tùy từng trường hợp. Tùy theo mục đích và vị trí quan sát mà đứng xa hay gần con vật. Cần tập quan sát các con vật trong trạng thái sinh lý mới dễ dàng phát hiện ra triệu chứng khi chúng mắc bệnh. Quan sát từ tổng quát đến cục bộ: bắt đầu từ tinh thần, thể cốt, tình hình dinh dưỡng, sau đó đến các bộ phận như đầu, cổ, lồng ngực, vùng bụng và 4 chân. - Quan sát vùng đầu: chú y tới sự biến đổi của niêm mạc mắt, mũi, miệng, quan sát sừng, ngà, vòi chú ý sự gãy, dập. - Quan sát lưng: chú ý độ cong của xương sống (lưng cong cứng trong bệnh uốn ván). - Quan sát hai bên sườn, đối chiếu so sánh giữa hai bên (loài nhai lại khi bị chướng hơi dạ cỏ, bụng bên trái thường rất to; ngược lại khi con vật có thai thì bụng phải to hơn bên trái). - Quan sát vùng bụng xem vú có sưng không (con cái); quan sát vùng đuôi và âm hộ (con cái) có dịch chảy ra không, dịch hoàn (con đực) có sưng không - 13 -
  5. 2.2.2.3. Sờ, nắn Sờ nắn để bắt mạch, đo huyết áp, khám trực tràng, khám thai. Có hai cách sờ nắn: + Sờ bề mặt: là sờ những bộ phận nông để biết ôn độ, độ ẩm của da, lực căng của cơ; sờ để biết tần số hô hấp, tần số mạch đập và hoạt động của thành ngực khi con vật hô hấp. + Sờ sâu: để khám các khí quan sâu như sờ dạ cỏ, kiểm tra ngoại vật, khám thai qua trực tràng. Sờ nắn tổ chức hay khí quan, tùy theo cảm giác ở tay có thể có những trạng thái sau: + Dạng ba động: sờ có cảm giác lùng nhùng, di chuyển, ấn tay có vết lõm. Trạng thái này gặp khi tổ chức bị thủy thũng, ổ mủ. + Dạng nhão bột: cảm giác như ấn tay vào túi bột, chỗ ấn để lại vết tay ấn. Trạng thái này gặp trong bệnh bội thực dạ cỏ. + Dạng cứng: như lúc sờ vào gan + Dạng rất cứng: như lúc sờ vào xương 3. Gõ Gõ các cơ quan, tổ chức của cơ thể có vị trí giải phẫu khác nhau, cấu tạo khác nhau và tính chất khác nhau nên khi bị chấn động cũng phát ra các âm khác nhau. Khi gõ vào cơ quan tổ chức là tạo ra chấn động và làm phát ra âm thanh. Khi bị bệnh, tính chất của tổ chức thay đổi nên âm thanh phát ra khác với khi tổ chức bình thường. Sự khác nhau về âm thanh phát ra lúc tổ chức lành và khi tổ chức bị bệnh cho phép ta chẩn đoán được bệnh. Do vậy, phương pháp gõ được dụng rộng dãi trong thú y cũng như y tế. Để có thể chẩn đoán được bệnh thông qua gõ, người khám cần có kinh nghiệm và có thành thạo về kỹ thuật gõ. - Gõ trực tiếp: dùng ngón tay gõ trực tiếp lên thân con vật; với con vật nhỏ thì dùng các ngón tay phải co lại và gõ theo chiều lòng bàn tay úp xuống dưới; với con vật lớn thì gõ theo chiều lòng bàn tay ngửa lên trên. Cách gõ này lực gõ yếu, âm thanh phát ra nhỏ, trong thú y ít dùng. - Gõ gián tiếp: là gõ qua một vật trung gian, có hai cách gõ gián tiếp. + Gõ qua ngón tay: dùng ngón trỏ và ngón giữa trái áp lên thân gia súc, ngón giữa phải cong lại và gõ lên đó. Nên tập gõ từ cổ tay, không dùng lực của cánh tay. + Gõ có búa và bản gõ: là thay tay gõ bằng búa gõ, tay đệm bằng bản gõ. Búa gõ làm bằng kim loại hoặc bằng gỗ, sừng, nhựa; bản gõ cũng có thể được làm từ những chất liệu trên. Búa gõ và bản có có nhiều loại với kích cỡ khác nhau với mục đích là sao cho dễ cầm khi khám và gọn nhẹ. - Các âm phát ra khi gõ: âm trong - âm đục, âm trong vang, âm hưởng dài gặp khi gõ vào vùng khí quản, vùng phổi, âm đục yếu, ngắn gặp khi gõ vào vùng gan, cơ. + Âm trong hay âm đục là do tính chất của tổ chức đặc hay xốp, tính đàn hồi của tổ chức cao hay thấp, lượng khí tích trong đó nhiều hay ít. Lúc có bệnh, tổ chức vốn xốp chuyển thành đặc lại, lượng khí chứa trong đó ít hoặc bị đẩy ra hết, đàn tính của tổ chức bị mất làm cho âm gõ chuyển từ trong sang đục. Ví dụ âm đục ở vùng phổi trong bệnh viêm phổi ở thời - 14 -
  6. kỳ gan hóa, nhục hóa. Ngược lại, tổ chức vốn đặc nay chứa khí, khi gõ sẽ thấy âm bùng hơi. Ví dụ gõ vào ổ ung khí thán. + Âm cao hay âm thấp: phụ thuộc vào mức độ chấn động của tổ chức được gõ. Chấn động càng nhiều thì âm gõ càng cao và ngược lại. + Âm dài - âm ngắn: do chấn động kéo dài hay tắt ngay, âm này khó phân biệt nên ít có ý nghĩa trong chẩn đoán. + Âm trống: là âm nghe được khi gõ vào túi khí trong tổ chức của cơ thể, âm này to nhưng không vang. Ví dụ gõ vào phần trên dạ cỏ (trâu, bò), phần dưới manh tràng (ngựa). Cấu trúc của tổ chức khác nhau nên âm phát ra khi gõ khác nhau, mặt khác trong thú y có nhiều con vật to, nhỏ khác nhau nên việc phân biệt các âm gõ càng trở nên phức tạp. Người khám cần phải tập gõ nhiều và nghe quen các âm gõ. Gõ chỉ áp dụng ở vùng tim, phổi, dạ dày, ruột, gan, lách và xoang trán. 2.2.2.4. Nghe Nguyên lý của phương pháp nghe là dựa vào âm thanh phát ra từ các cơ quan bộ phận trong cơ thể khi chúng hoạt động. Do tính chất hoạt động, cấu tạo của các cơ quan khác nhau nên âm hưởng nghe được cũng khác nhau (giống khi gõ). Có thể dựa vào các âm thanh nghe được để chẩn đoán bệnh cho con vật. - Nghe trực tiếp: lấy một miếng vải, một tờ giấy đặt lên vùng nghe, sau đó người khám áp tai của mình lên đó để nghe. Phương pháp này đôi khi không nghe được ở một số vị trí khó nên chỉ dùng khi không có ống nghe. - Nghe gián tiếp: dùng ống nghe, ống nghe có nhiều loại, loại có một tai nghe, loại có nhiều tai nghe. Nhưng phổ biến hay dùng hiện nay là loại có hai tai nghe. Để nghe được chính xác thì con vật phải được để ở nơi yên tĩnh và con vật cũng phải trong trạng thái yên tĩnh; không để cho nó kêu la,dãy đạp, rên rỉ. 2.2.2. Khám một số cơ quan trong cơ thể 2.2.2.1. Khám niêm mạc Kiểm tra niêm mạc ngoài việc biết được niêm mạc có bệnh gì, còn có thể xác định được tình trạng chung của cơ thể như hoạt động tuần hoàn, thành phần của máu, tình trạng hô hấp. Đối với những gia súc da có màu như trâu, bò, ngựa thì việc khám niêm mạc rất có ý nghĩa trong chẩn đoán bệnh. Thường kiểm tra niêm mạc mắt, niêm mạc miệng, niêm mạc âm hộ . Trong đó, kiểm tra niêm mạc mắt là phổ biến nhất. * Phương pháp khám niêm mạc mắt - Ngựa: Khám mắt trái thì người khám đứng bên trái ngựa, tay trái cầm dây cương cố định ngựa. Ngón trỏ tay phải ấn mạnh vào da trùm khoang mắt trên, ngón cái phanh phần da khoang mắt dưới để bộc lộ niêm mạc. Ba ngón còn lại để lên phần ngoài khoang mắt trên làm điểm tựa. Nếu khám bên phải thì tư thế người đứng khám ngược lại. - 15 -
  7. - Trâu, bò: Có thể khám niêm mạc mắt theo cách trên hoặc bằng cách: hai tay cầm chặt 2 sừng, bẻ cong đầu về một phía để bộc lộ niêm mạc. - Lợn, dê, cừu: Dùng ngón tay trỏ và ngón cái hoặc hai tay hai bên phanh rộng mi mắt. * Niêm mạc mắt bình thường: - Trâu bò: Niêm mạc mắt màu đỏ, ít ánh quang. - Ngựa: Niêm mạc mắt mầu đỏ thẫm. - Lợn, dê, cừu: Niêm mạc mắt màu hồng. Tuy nhiên, niêm mạc mắt của lợn, dê, cừu rất dễ bị thay đổi, nên lúc khám cần nhẹ nhàng. * Những thay đổi ở niêm mạc mắt * Niên mạc nhợt nhạt: Niêm mạc mắt nhợt nhạt thể hiện triệu chứng thiếu máu. Tuỳ mức độ thiếu máu, niêm mạc nhạt màu hoặc có màu trắng bợt hoặc màu xanh tím. - Niêm mạc nhợt nhạt cấp tính: Do bị mất máu cấp tính như vỡ mạch quản lớn, vỡ gan, vỡ lách, vỡ dạ dày, vỡ ruột. Ở ngựa có thể do xoắn ruột, lồng ruột, đau bụng, liệt thần kinh. - Niêm mạc nhợt nhạt mãn tính: (Có thể ở cả đàn gia súc): Do thức ăn thiếu dinh dưỡng, do bệnh ký sinh trùng hoặc các bệnh mãn tính khác (viêm ruột, lao ), bệnh bạch huyết, ở ngựa còn thấy trong bệnh thiếu máu truyền nhiễm. * Niêm mạc đỏ ửng: Do các mạch quản nhỏ ở niêm mạc xung huyết làm cho niêm mạc có màu đỏ. Trường hợp này có thể do những nguyên nhân sinh lý (trời nóng bức, lao động nặng, quá hưng phấn) hoặc nguyên nhân bệnh lý. - Đỏ ửng cục bộ: Mạch máu nhỏ ở niêm mạc mắt xung huyết, căng to, có trường hợp nổi rõ như chùm rễ cây, thường thấy trong trường hợp xung huyết não, viêm não, tụ máu ở não, bệnh ở tim, phổi. - Đỏ ửng lan tràn: Mạch quản nhỏ đầy máu và niêm mạc đỏ tràn lan. Trường hợp này thường gặp trong các bệnh truyền nhiễm: nhiệt thán, tụ huyết trùng, dịch tả lợn hoặc trong bệnh viêm não tuỷ, các trường hợp trúng độc - Đỏ ửng xuất huyết: Niêm mạc đỏ kèm những điểm xuất huyết, thường thấy trong những bệnh truyền nhiễm cấp tính hay mãn tính. * Niên mạc hàng đảm: Niêm mạc có màu vàng, do trong máu tích nhiều sắc tố mật (bilirubin). Hoàng đảm nặng hay nhẹ tuỳ thuộc số lượng sắc tố mật và màu sắc của niêm mạc (nếu niêm mạc bình thường có màu trắng thì hoàng đảm rõ). 2.2.2.2. Kiểm tra hạch lâm ba Kiểm tra hạch lâm ba rất có ý nghĩa trong chẩn đoán bệnh truyền nhiễm, nhất là trong bệnh lao hạch, bệnh tỵ thư, bệnh lê dạng trùng hạch lâm ba thay đổi rất rõ rệt. - 16 -
  8. * Phương pháp kiểm tra hạch lâm ba Quan sát, sờ nắn, khi cần có thể chọc dò - Trâu, bò: Thường khám hạch dưới hàm, hạch trước vai, hạch trước đùi, hạch trên vú. - Ngựa: Thường khám hạch dưới hàm, hạch cổ, hạch trước đùi, hạch trước vai. - Lợn, chó, mèo: Các hạch thường ở sâu, khó sờ thấy. + Hạch dưới hàm ở trâu bò nằm phía trong phần xương hàm dưới, to bằng nhân quả đào, tròn và đẹp. * Những biểu hiện khác thường của hạch lâm ba - Hạch sương cấp tính: Thể tích to, nóng, đau và cứng, các thuỳ nổi rõ, mặt trơn và ít di động. Hạch sưng thấy trong các bệnh truyền nhiễm cấp tính hoặc do những bộ phận gần hạch bị viêm (viêm mũi, viêm thanh quản làm hạch dưới hàm sưng); Trâu, bò bị bệnh Lê dạng trùng thì hạch dưới hàm, hạch trên vú sưng rất rõ. - Hạch hoá mủ: Thường do viêm cấp tính phát triển thành. Lúc đầu hạch sưng, nóng, đau, sau đó phần giữa phồng cao, bùng nhùng. Hạch thường tự vỡ hoặc lấy kim chọc thì mủ chảy ra. Ở ngựa hạch dưới hàm sưng to hoá mủ, xung quanh viêm thấm ướt là triệu chứng điển hình của bệnh viêm hạ.ch lâm ba truyền nhiễm. Nếu mủ trong hạch ít, tổ chức quanh hạch không viêm thường do Lao hay Tỵ thư. - Hạch tăng sinh và biến dạng: Hạch viêm mãn tính, tổ chức tăng sinh dính với tổ chức xung quanh làm thể tích hạch to và không di động được, ấn vào không đau, ở ngựa thấy trong bệnh tỵ thư, viêm xoang mũi mãn tính. Ở bò thấy trong bệnh lao hạch, xạ khuẩn. Ở lợn nếu hạch cổ, hạch sau hầu sưng cứng thường do Lao. Trong bệnh bại huyết, hạch lâm ba trên toàn thân sưng to và biến dạng. 2.2.2.3. Đo thân nhiệt Đo thân nhiệt là một việc không thể thiếu được trong chẩn đoán bệnh. Thân nhiệt cao hay thấp hơn bình thường được coi là triệu chứng quan trọng. THÂN NHIỆT BÌNH THƯỜNG CỦA MỘT SỐ LOÀI ĐỘNG VẬT Loài Thân nhiệt (oC) Loài Thân nhiệt (oC) Bò 37,5 - 39,5 Mèo 38,0 - 39,5 Trâu 37,0 - 38,5 Thỏ 38,5 - 39,5 Ngựa 37,5 - 38,5 Gà 40,0 - 42,0 Cừu, dê 38,5 - 40,0 Vịt 41,0 - 43,0 Lợn 38,0 - 40,0 Ngỗng 40,0 - 41,0 Chó 37,5 - 39,0 Ngan 41,0 - 43,0 - 17 -
  9. Trong điều kiện chăn nuôi giống nhau, thân nhiệt ở gia súc non cao hơn gia súc trưởng thành và gia súc già; thân nhiệt ở con cái thường cao hơn con được. Trong một ngày đêm, thân nhiệt thấp nhất vào lúc sáng sớm (1- 6h), cao nhất vào buổi chiều (16 - 18h). Vào mùa hè, trâu bò làm việc dưới trời nắng gắt, thân nhiệt có thể cao hơn bình thường 1 - 1,8oC. Thân nhiệt dao động trong vòng 1oC nằm trong phạm vi sinh lý. Nếu thân nhiệt cao hoặc thấp quá 1oC kéo dài sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động của cơ thể. * Cách đo thân nhiệt Dùng nhiệt kế có khắc “oC” theo cột thuỷ ngân. Trước khi dùng vẩy mạnh nhiệt kế cho cột thuỷ ngân tụt xuống vạch cuối cùng. - Đối với gia súc, đo thân nhiệt ở trực tràng, ở con cái có thể đo ở âm đạo. Nhiệt độ trực tràng thấp hơn nhiệt độ máu 0,5 - 1oC, nhiệt độ âm đạo thấp hơn nhiệt độ trực tràng 0,2- 0,5oC (khi gia súc có chửa nhiệt độ âm đạo lại cao hơn nhiệt độ trực tràng 0,5oC). Trường hợp trực tràng bị viêm hay bị lòi rom, thì có thể đo thân nhiệt ở trong miệng (sát niêm mạc má). Đo thân nhiệt gia cầm ở gốc cánh. Đo thân nhiệt hai lần trong một ngày: sáng lúc 7- 9h; chiều 16-18h. - Đối với trâu bò: Có thể đo lúc trâu bò đứng (không cần cố định). - Đối với lợn, chó, mèo, dê, cừu: Có thể đứng hoặc cho nằm. - Đối với gia cầm: Cho nằm để đo. - Đối với ngựa: Khi đo cần thận trọng vì ngựa rất mẫn cảm (phải cột ngựa vào gióng). * Cách đặt nhiệt kế Đưa nhẹ nhiệt kế vào trực tràng (gia súc lớn thì cho gần ngập nhiệt kế, gia súc nhỏ cho ngập khoảng 1/2 đến 1/3). Để nhiệt kế lưu lại trong trực tràng khoảng 5 phút. Khi lấy nhiệt kế ra thì dùng bông tẩm cồn lau sạch để xem cột thuỷ ngân dâng đến vạch nào và ứng với nhiệt độ là bao nhiêu. 2.2.2.4. Kiểm tra hệ hô hấp Có rất nhiều bệnh ở đường hô hấp của gia súc. Ở trâu, bò,dê, cừu thường gặp bệnh tụ huyết trùng, viêm phổi - màng phổi truyền nhiễm, viêm phổi, viêm phế quản, lao, giun phổi. Ở lợn: Bệnh tụ huyết trùng, suyễn, viêm phổi, viêm phế quản, dịch tả lợn, giun phổi lợn, giun đũa lợn ở giai đoạn di hành. Ở ngựa: Bệnh viêm phổi, viêm hầu, viêm khí quản, viêm phổi cật, viêm phổi thuỳ, giun đũa ngựa trong giai đoạn đi hành. Ở gà: Bệnh viêm màng mũi, bệnh lao. Ở chó: Bệnh viêm phổi, bệnh caree (sài sốt chó con). - 18 -