Y tế công cộng trong kỷ nguyên mới: Nâng cao sức khỏe thông qua các hành động tập thể
Thế giới đang tiến vào kỷ nguyên mới mà ở đó tồn tại đồng thời một cách trái ngược những chỉ số sức khoẻ ngày càng được cải thiện và những chỉ số sức khoẻ khác lại có đảo lộn cơ bản. Những sự thay đổi nhanh chóng về tình hình sức khỏe trên toàn cầu vốn đã phức tạp nay lại đang diễn ra trong bối cảnh mà lực lượng cán bộ y tế công cộng chưa sẵn sàng để đương đầu với những thử thách đó. Sự chưa sẵn sàng này phần nào là do các thử thách đó lớn và phức tạp, do lực lượng cán bộ và hạ tầng cơ sở của ngành y tế công cộng đã bị lãng quên, và do còn thiếu các chương trình đào tạo. Vấn đề càng trầm trọng hơn bởi việc tập trung kinh phí cho các nghiên cứu y sinh học và sự không thành công khi giải quyết và làm việc với các vấn đề cần quan tâm có liên quan đến sức khoẻ, và điều này duy trì và thúc đẩy phát triển những mô hình hành vi có hại cho sức khỏe. Nếu những cán bộ y tế công cộng có ý định giải quyết những thách thức đối với vấn đề sức khỏe cấp quốc gia và toàn cầu một cách hiệu quả thì cách thức mà họ tiến hành cần có sự thay đổi quan điểm lớn. Cần phải có cái nhìn rõ ràng với vấn đề y tế công cộng là gì và nó có thể đem lại những gì.
Để làm được điều này, tầm nhìn về y tế công cộng không chỉ được truyền bá đến những người làm công tác y tế công cộng mà cần phổ biến cho cộng đồng những người hoạch định chính sách, đó là những người mà hành động của họ là yếu tố thiết yếu để cải thiện sức khỏe cho công chúng. Chúng tôi đề nghị cần xây dựng lại định nghĩa về y tế công cộng với mong muốn nó sẽ phù hợp hơn trước những thách thức về sức khỏe ở cấp quốc gia và trên toàn cầu trong kỷ nguyên mới này.
Y tế công cộng trong kỷ nguyên mới: Nâng cao sức khỏe thông qua các hành động tập thể
File đính kèm:
y_te_cong_cong_trong_ky_nguyen_moi_nang_cao_suc_khoe_thong_q.pdf
Nội dung text: Y tế công cộng trong kỷ nguyên mới: Nâng cao sức khỏe thông qua các hành động tập thể
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Y tế công cộng trong kỷ nguyên mới: Nâng cao sức khỏe thông qua các hành động tập thể Robert Beaglehole(*), Ruth Bonita(**), Richard Horton(***), Orvil Adams(****), Martin McKee(*****) Người dịch: TS. Nguyễn Huy Quang Thế giới đang tiến vào kỷ nguyên mới mà ở đó tồn tại đồng thời một cách trái ngược những chỉ số sức khoẻ ngày càng được cải thiện và những chỉ số sức khoẻ khác lại có đảo lộn cơ bản. Những sự thay đổi nhanh chóng về tình hình sức khỏe trên toàn cầu vốn đã phức tạp nay lại đang diễn ra trong bối cảnh mà lực lượng cán bộ y tế công cộng chưa sẵn sàng để đương đầu với những thử thách đó. Sự chưa sẵn sàng này phần nào là do các thử thách đó lớn và phức tạp, do lực lượng cán bộ và hạ tầng cơ sở của ngành y tế công cộng đã bị lãng quên, và do còn thiếu các chương trình đào tạo. Vấn đề càng trầm trọng hơn bởi việc tập trung kinh phí cho các nghiên cứu y sinh học và sự không thành công khi giải quyết và làm việc với các vấn đề cần quan tâm có liên quan đến sức khoẻ, và điều này duy trì và thúc đẩy phát triển những mô hình hành vi có hại cho sức khỏe. Nếu những cán bộ y tế công cộng có ý định giải quyết những thách thức đối với vấn đề sức khỏe cấp quốc gia và toàn cầu một cách hiệu quả thì cách thức mà họ tiến hành cần có sự thay đổi quan điểm lớn. Cần phải có cái nhìn rõ ràng với vấn đề y tế công cộng là gì và nó có thể đem lại những gì. Để làm được điều này, tầm nhìn về y tế công cộng không chỉ được truyền bá đến những người làm công tác y tế công cộng mà cần phổ biến cho cộng đồng những người hoạch định chính sách, đó là những người mà hành động của họ là yếu tố thiết yếu để cải thiện sức khỏe cho công chúng. Chúng tôi đề nghị cần xây dựng lại định nghĩa về y tế công cộng với mong muốn nó sẽ phù hợp hơn trước những thách thức về sức khỏe ở cấp quốc gia và trên toàn cầu trong kỷ nguyên mới này. Public Health in the new era: Improving health through collective action The world is entering a new era in which, paradoxically, improvements in some health indicators and major reversals in other indicators are occurring simultaneously. Rapid changes in an already complex global health situation[1] and [2] are taking place in a context in which the global public- health workforce is unprepared to confront these challenges. This lack of preparation is partly because the challenges are large and complex,[3] the public-health workforce and infrastructure have been neglected, and training programmes are inadequate. These problems are exacerbated by the concentration of funding on biomedical research and the failure to confront and work with vest- ed interests, which promote and sustain unhealthy behaviour patterns. If public-health practitioners are to address national and global health challenges effectively, the way they work and make their work relevant to these challenges 4 will require a major reorientation. 4 Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2007, Số 9 (9)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | A clear vision of what public health is, and what it can offer, is required. To be achievable, the vision must then be communicated not only to its practitioners, but also to the wider policy community, whose actions are necessary to improve the health of the public. Here, we propose a reformulation of public health appropriate for the global and national health challenges in this new era. Tác giả: GS Robert Beaglehole, Trường Đại học Auckland, Newzealand. Địa chỉ: 42 Albert Rd, Devonport, Auckland, 0624, Newzealand. Email: r.baaglehole@auckland.ac.nz. Người dịch: TS. Nguyễn Huy Quang - TS Ngôn ngữ học - Trường Đại học Y tế Công cộng - 138 Giảng Võ - Hà Nội. Email: nhq@hsph.edu.vn Thực hành y tế công cộng y tế công cộng, đôi khi vẫn được đề cập là mô hình Các tiếp cận về thực hành y tế công cộng phụ pháp lý xã hội có từ lâu ở một số nước châu Âu, thuộc vào yếu tố thời gian và địa điểm. Chúng được được Virchow khởi xướng ở nước Phổ vào cuối thế phân biệt chủ yếu là bởi lượng quyền hạn nhà nước kỷ 19 với một lần xuất hiện thoáng chốc ở một số giao cho và cơ sở chuyên ngành kiến thức. Xét về trường đại học ở Anh vào giữa thế kỷ trước. Cách sự tham gia và trách nhiệm của chính quyền, có hai tiếp cận y tế công cộng này trở nên đặc biệt mạnh cách tiếp cận chính: mô hình y tế nhà nước và mô mẽ ở châu Mỹ La tinh từ giữa thế kỉ trước, và đã hình y tế thị trường. Thực hành y tế công cộng ở Mỹ được lặp lại trong cả mô hình chăm sóc sức khỏe là một ví dụ về cách tiếp cận y tế thị trường. Mục ban đầu Alma-Ata và y tế công cộng mới vào những tiêu của mô hình này là nhằm giới hạn trách nhiệm năm 80 của thế kỷ 20. Thực hành y học xã hội thì của chính phủ đối với y tế công cộng và khuyến lại chú trọng các yếu tố quyết định mang tính xã hội khích trách nhiệm cá nhân trong việc nâng cao sức và môi trường đối với sức khỏe và bệnh tật cùng với khỏe, với giả thuyết rằng thị trường sẽ đáp ứng loại ảnh hưởng của các chính sách xã hội và kinh tế tới hàng hoá đặc biệt này cho nhu cầu của cá nhân, do tình trạng sức khỏe. Cách tiếp cận này hiếm khi có đó sẽ giúp nâng cao sức khoẻ. Ngược lại, mô hình khả năng thu hẹp được khoảng cách giữa những lời y tế công, coi trọng vai trò của nhà nước, bỏ qua khoa trương và việc đưa ra chính sách. những lĩnh vực có thể được coi là đời sống riêng tư. Một mô hình đặc trưng như thế đã được du nhập sang Định nghĩa y tế công cộng Liên bang Xô Viết, nơi mà y tế công cộng đã trở Định nghĩa về y tế công cộng đã thay đổi khi y thành trung tâm của chính sách nhà nước và được tế công cộng phát triển. Thường hầu hết các định khái quát trong lời nhận xét của Lênin: "Nếu chủ nghĩa mang ý nghĩa là mối quan tâm chung của công nghĩa cộng sản không tiêu diệt những kẻ phá hoại thì chúng, tập trung vào những yếu tố quyết định đến chính những kẻ phá hoại sẽ tiêu diệt chủ nghĩa cộng sức khỏe mang tính rộng lớn hơn và mong muốn sản. Một mô hình khác được thấy ở Trung Quốc nâng cao sức khỏe cho toàn bộ quần thể. Các định trong vài thập kỷ sau cuộc cách mạng 1949. nghĩa trước cũng có đề cập rõ ràng đến việc quản lý các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Việc có quá nhiều Nền tảng kiến thức chuyên ngành y tế công các định nghĩa cho thấy một định nghĩa ngắn gọn súc cộng có thể bị thu hẹp chủ yếu trong khoa học y học tích về y tế công cộng vừa rộng rãi về phạm vi và - hay được mở rộng và bao gồm tất cả, tập hợp nhiều vừa thu hút được nhiều sự chú ý là rất cần thiết. chuyên ngành kể cả khoa học chính trị. Mô hình y tế đã được xác nhận theo truyền thống ở nước Anh Chúng tôi đề xuất rằng một định nghĩa phù hợp mà ở đó y tế công cộng cho đến tận gần đây vẫn về y tế công cộng sẽ là: được xem như một nhánh chuyên biệt trong y học "Phối hợp hành động để liên tục nâng cao sức lâm sàng. Cách tiếp cận đa ngành rộng rãi đối với khỏe của toàn bộ quần thể”. Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2007, Số 9 (9) 5
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Định nghĩa này nhấn mạnh vào những đặc thù nhà khoa học y sinh. Những trọng điểm này thường thực hành y tế công cộng: tập trung vào các hành là những gì đo lường dễ dàng như lượng cholesterol, động và can thiệp cần có các hành động tập thể huyết áp chứ không đơn thuần chỉ nêu ra những vấn (cộng tác hay có tổ chức); tính duy trì (ví dụ: sự cần đề vô cùng phức tạp của các tác động xã hội mà thiết kết hợp chính sách trong các hệ thống hỗ trợ); cũng gây ảnh hưởng đến sức khỏe trực tiếp hoặc và các mục đích của y tế công cộng (nâng cao sức gián tiếp; ví dụ như vấn đề chuyển dịch kinh tế. Các khỏe toàn bộ quần thể và giảm sự bất bình đẳng nghiên cứu cùng với chính sách y tế không có mối trong sức khỏe). liên quan với nhau làm cho chúng có khoảng cách Nền tảng đạo đức của y tế cộng cộng có vai trò ngày càng xa và trọng tâm của cải cách y tế lại quan trọng tương đương với định nghĩa của nó hướng vào các dịch vụ điều trị đã tạo khoảng cách nhưng khung đạo đức của y tế công cộng là vấn đề lớn hơn cho y tế công cộng. Việc quan tâm ngày mới mẻ. Quan điểm của chúng tôi về nền tảng đạo càng nhiều đến khủng bố sinh học và sự chậm phát đức của y tế công cộng bắt nguồn từ kiến thức về sự triển kinh tế kết hợp với áp lực bắt buộc các nghiên cứu y tế công cộng phải hướng vào nghiên cứu y tác động rộng lớn của điều kiện môi trường và kinh sinh học - đã làm suy yếu năng lực y tế công cộng. tế xã hội làm cản trở viêc các cá nhân ra quyết định về sức khỏe. Lập luận này đảm bảo cho những qui Những thách thức của sức khỏe toàn cầu đòi hỏi định tích cực của nhà nước và cộng đồng nhằm bảo một lực lượng cán bộ có tầm nhìn rộng về y tế công vệ và nâng cao sức khỏe của người dân. Nó dựa trên cộng, một khả năng làm việc hợp tác đa ngành, đa giả thuyết rằng tất cả các cuộc sống đều có giá trị lĩnh vực và các kĩ năng tác động đến việc hoạch bình đẳng. định chính sách ở cấp độ địa phương, quốc gia và toàn cầu. Trên quan điểm về tầm quan trọng của Y tế công cộng đáp ứng với những thách chính trị đối với sự phát triển của các chính sách y thức về sức khỏe mang tính toàn cầu. tế công cộng, các nhà thực hành y tế công cộng nên liên hệ chặt chẽ với cộng đồng mà họ phục vụ để Muốn giải quyết những thách thức về sức khỏe tạo được sự hỗ trợ lâu dài cần có để đáp ứng với các mang tính toàn cầu một cách có hiệu quả thì việc thách thức sức khỏe toàn cầu. Tầm cỡ của những thực hành y tế công cộng cần phải thay đổi. Chỉ chú thách thức này có nghĩa là tất cả các thành viên trọng tới những ưu tiên sức khỏe khẩn cấp như thuộc lực lượng y tế cần áp dụng quan điểm về y tế HIV/AIDS, lao và sốt rét ở vùng châu Phi - Cận công cộng trong các hoạt động thường ngày của họ. Sahara hay giới hạn tập trung vào các Mục tiêu Thiên niên kỷ là chưa đủ. Cần phải có các chương Các chủ đề chính trong lý thuyết và thực trình và chính sách để đáp ứng với đói nghèo hành y tế công cộng hiện đại nguyên nhân cơ bản của gánh nặng bệnh tật toàn cầu để dự phòng các dịch bệnh không truyền nhiễm Y tế công cộng hiện đại có 5 chủ đề chính. Mỗi đang nổi lên; giải quyết những thay đổi môi trường chủ đề là một điểm đặc trưng cho thực hành y tế toàn cầu, những thảm họa tự nhiên hay do con người công cộng hiện đại. Đáng tiếc là các chủ đề này gây ra và nhu cầu phát triển sức khỏe bền vững. Lập hiếm khi được phản ánh trong thực tế của thực hành luận cho hành động này là sức khoẻ vừa mang tính y tế công cộng hay trong các hoạt động giáo dục y nhân quyền vừa là điều kiện tiên quyết cho sự phát tế công cộng. triển của loài người. Y tế công cộng đang được thực hành giờ đây Lãnh đạo hệ thống y tế không còn ở vị trí để đáp ứng hiệu quả trước những Chức năng giám sát này là yếu tố trung tâm thách thức, chủ yếu là do năng lực của lực lượng y trong nỗ lực cải thiện hoạt động của các hệ thống y tế công cộng không theo kịp tốc độ của sự thay đổi tế. Nó đòi hỏi một tầm nhìn dài hơi và bao gồm một nhu cầu. Việc không chú ý đến cơ sở hạ tầng y tế số hành động cụ thể, trong đó quan trọng nhất là đề công cộng và điểm yếu của các hệ thống y tế đã làm ra các định hướng chiến lược cho các hệ thống y tế. vấn đề này trở nên trầm trọng hơn. Ở hầu hết các Việc xác định phương hướng là trách nhiệm trung nước phát triển, y tế công cộng được phát triển theo tâm của y tế công cộng, như giám sát tiến độ đạt tới trọng điểm và, ở bình diện lớn hơn, hướng theo các các mục đích và chỉ tiêu đã được đề ra của hệ thống. vấn đề nghiên cứu của các nhà dịch tễ học và các Chức năng này yêu cầu Chính phủ phải có quyết 6 Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2007, Số 9 (9)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | tâm lớn để hành động. Mặc dù nhiều ngành khác chính sách y tế bằng việc sử dụng các phương pháp cũng có đóng góp một phần, nhưng trách nhiệm đối phù hợp để trả lời các câu hỏi nhằm tác động đến với khung luật pháp và quản lý của y tế cộng cộng chính sách. Các chương trình đào tạo y tế công cộng thuộc về chính phủ. Các mặt của việc lãnh đạo nên bao gồm những cơ hội cho học viên được học trong hệ thống y tế không được chú ý bao gồm việc về cả khoa học định tính và định lượng cũng như các không thực hiện vận động chính sách hay trách khoa học liên quan như luật y tế công cộng, nhân nhiệm giải trình cho việc nâng cao sức khỏe cho khẩu học, nhân học và dân tộc học. Đáng tiếc là chỉ toàn bộ quần thể, khi hầu hết các bộ y tế vẫn tiếp một vài viện nghiên cứu, hầu hết là ở các nước phát tục tập trung vào các vấn đề trước mắt gắn liền với triển, có các khóa học phù hợp như thế. chăm sóc sức khỏe. Trong nghiên cứu có một lĩnh vực chính đã bị lãng quên đó chính là việc chuyển các bằng chứng Phối hợp hành động thực tiễn thành các chương trình và các chính sách Cộng tác trong quan hệ đối tác rộng rãi với hiệu quả. Minh chứng cho điều này là việc không nhiều nhóm của nhiều lĩnh vực là đặc điểm trung sử dụng bằng chứng thuyết phục rằng các bệnh về tâm của thực hành y tế công cộng từ giữa thế kỷ 19. tim mạch hầu hết có thể phòng ngừa được. Nhưng Đầu tiên, phối hợp hành động được xem như một nó hiếm khi được đánh giá cao tuy rằng hằng năm cách để giảm thiểu tối đa ảnh hưởng của đói nghèo có khoảng 6,3 triệu người lớn dưới 70 tuổi chết vì và bệnh tật liên quan trong các hệ thống phúc lợi các bệnh về tim mạch so với số người chết vì các ban đầu. Ngày nay, phối hợp hành động giữa các bệnh AIDS, sốt rét và lao (thuộc mọi lứa tuổi) gộp ngành thậm chí có vai trò quan trọng hơn nữa. Khi lại chỉ là 5,6 triệu người. Kiến thức khoa học rõ chưa có các hành động phối hợp hiệu quả, những lợi ràng chỉ là một trong số các yêu cầu cần thiết trong ích mà khoa học y tế công cộng đem lại sẽ tiếp tục thực hành y tế công cộng một cách hiệu quả; kiến đóng góp nhiều cho các lĩnh vực xã hội đã được thức phải gắn chặt với sự tham gia của xã hội dân hưởng lợi, như những lợi ích đem lại từ việc phòng sự và các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy hành chống tác hại thuốc lá. động hiệu quả của tất cả mọi người. Họ có thể tạo Chính phủ là yếu tố then chốt đảm bảo cho phối nên sự khác biệt nếu chúng ta đạt được việc nâng hợp hành động nhằm đẩy mạnh được việc nâng cao cao sức khỏe cộng đồng một cách bền vững. sức khỏe cho quần thể rộng lớn bởi lẽ họ có trách nhiệm cuối cùng với sức khỏe của quần thể. Khi Cam kết chính trị trong chính sách y tế chính phủ coi nhẹ vai trò của phối hợp hành động, công cộng thay vào đó coi trọng chủ nghĩa cá nhân và các sức Các nhà thực hành y tế công cộng cần phải hiểu mạnh thị trường thì thực hành y tế công cộng sẽ bản chất chính trị của quá trình xây dựng chính sách không tránh khỏi suy yếu, rất lâu mới tiến đến mục y tế và các hành động tương ứng. Mặc dù, từ năm tiêu sức khỏe. Do lực lượng y tế công cộng được 1848 Virchow đã kêu gọi rằng y học cần trở thành phân công trách nhiệm lớn và có vốn kĩ năng của một đối tượng của chính trị, nhưng các nhà thực họ, nên họ chỉ có trách nhiệm nâng cao sức khỏe hành y tế công cộng từ lâu đã thờ ơ hoặc phản đối thông qua việc xây dựng các chiến lược theo chính mối liên kết y tế - chính trị quan trọng này. Nguyên sách cho trước và cung cấp can can thiệp gắn liền nhân của sự thờ ơ này bao gồm: tính thống trị của với phối hợp hành động. thực hành y học điều trị đối với y tế công cộng, tư tưởng bảo thủ từ thời đồ đá mới và ảnh hưởng của Tiếp cận đa ngành nó đến những cải cách về y tế, chưa quan tâm đến Trên nền tảng của phát triển kỹ thuật trong dịch tính chính sách của y tế công cộng trong các chương tễ học từ giữa thế kỷ trước, khoa học định lượng đã trình đào tạo và tập huấn, thiếu các nghiên cứu đầy thống trị y tế công cộng trong khi các ngành khoa đủ về các yếu tố quyết định của các chính sách và học y tế công cộng khác lại bị coi nhẹ. Người ta chương trình hiệu quả, sức mạnh của các lợi ích nhận thấy rằng nhiều chuyên ngành cần phải hiểu thương mại và trên hết là sự thiếu tự tin của số đông rõ những mối liên hệ giữa các yếu tố tiềm ẩn và các các nhà thực hành y tế công cộng. Thường thì, cái yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như gì có tính khả thi về mặt chính trị thì lại thường bị cần cung cấp cơ sở bằng chứng cho việc hoạch định giới hạn. Do đó nền khoa học y tế công cộng vững Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2007, Số 9 (9) 7
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | chắc, sự lãnh đạo và sự tham gia của cộng đồng dân công tác giảng dạy và các dịch vụ có áp dụng nhiều sự, giới truyền thông có thể giúp mở rộng những khoa học y tế công cộng. biên giới của tất cả những gì có thể thực hiện được. Củng cố lực lượng lao động trong ngành y tế Hợp tác cộng đồng công cộng cần phải có cam kết gắn liền với nền tảng Đối với các nhà thực hành thì làm việc và phối triết học căn bản và năng lực được xác định rõ ràng hợp chặt chẽ với các cộng đồng mình đang phục vụ cho từng chủ đề. Sự củng cố lúc này được đặt ở vị là sự hợp tác quan trọng nhất. Nó cần thiết để gây trí tốt hơn để tạo ra những nguồn lực mới cho việc dựng nên mối quan hệ bền lâu và sự ủng hộ chính trị thực hành y tế công cộng, trong đó có việc thu hút cho các chính sách y tế hiệu quả. Đồng thời, việc hợp các nguồn lực thêm mới để phát triển bảo hiểm y tế tác như thế tạo cơ hội cho nhân dân có thể tham gia và từ các quỹ mới đầu tư sức khỏe toàn cầu. Một số vào các hệ thống y tế và yêu cầu có đủ dịch vụ y tế nguồn lực thêm này cần đầu tư trực tiếp vào xây công cộng và sức khoẻ. Quan hệ đối tác này từ lâu dựng cơ sở hạ tầng y tế công cộng cần thiết. Kiểm đã bị lãng quên mặc dù nó đã từng rất phát triển ít định các chương trình đào tạo và đảm bảo sinh viên nhất là để thuyết phục dân chúng dưới khẩu hiệu tốt nghiệp được trang bị các kiến thức cần thiết cho Sức khỏe cho mọi người; sự hợp tác ấy lại để lại dấu tất cả các lĩnh vực chuyên môn là trách nhiệm của ấn do ảnh hưởng của Phong trào Sức khỏe Nhân dân. các cơ cở đào tạo về y tế công cộng. Chỉ có một lực lượng lao động y tế công cộng vững mạnh mới có Y tế công cộng trong kỷ nguyên mới thể phản ứng được trước những thách thức về sức Tăng cường thực hành y tế công cộng đòi hỏi ta khỏe của quốc gia và toàn cầu. Kết luận lại, tăng phải nhận thức và hành động theo các chủ đề và các cường y tế công cộng trên nền tảng đạo đức rõ ràng chủ đề này phải truyền đạt cho cả sinh viên và cán và cơ sở luận chứng đúng đắn sẽ phát huy vai trò bộ trong ngành. Một cơ cấu hỗ trợ cho y tế công của nhà nước và đóng góp vào việc xây dựng nền cộng cần có sự lãnh đạo chặt chẽ và phản ứng nhanh dân chủ trên toàn thế giới. Bảo vệ sức khỏe cho của chính phủ. Nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng đầy người lao động Liên bang Xô-viết, Moscow, đủ được bổ sung với nghiên cứu y tế công cộng, nhờ Medgiz, 1947. Bài báo đăng trên Tạp chí Lancet số 363 ngày 19.6.2004. 5. FD Scutchfield and JM Last, Public health in North Đăng dưới sự chấp thuận của Lancet. America. In: R Beaglehole, Editor, Global public health: a Licence No: 1796830738724. new era, Oxford University Press, Oxford (2003). Tài liệu tham khảo: 6. NA Vinogradov and ID Strashun, Health protection of the 1. In: R Beaglehole, Editor, Global public health: a new era, workers of the Soviet Union, Medgiz, Moscow (1947). Oxford University Press, Oxford (2003). 7. L Lee, V Lin, R Wang and H Zhao, Public health in China: 2. In: M McKee, P Garner and R Stott, Editors, International history and contemporary challenges. In: R Beaglehole, co-operation and health, Oxford University Press, Oxford Editor, Global public health: a new era, Oxford University (2001). Press, Oxford (2003). 3. WHO, World Health Report, 2002: reducing risks, pro- 8. The Lancet, Putting public health back into epidemiolo- moting healthy life, World Health Organization, Geneva gy, Lancet 350 (1997), p. 229. SummaryPlus | Full Text + (2002). Links | PDF (24 K) 4. The Lancet, The EU's answer to future public health chal- 9. D Porter, Changing disciplines: John Ryle and the mak- lenges, Lancet 359 (2002), p. 2211. SummaryPlus | Full Text ing of social medicine in twentieth century Britain, Hist + Links | PDF (28 K) Science 30 (1992), pp. 119147. 8 Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2007, Số 9 (9)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 10. H Waitzkin, C Iriart, A Estrada and S Lamadrid, Social Geneva (2000). medicine in Latin America: Productivity and dangers facing 21. Milburn A, Tackling health inequalities, improving pub- the major national groups, Lancet 358 (2001), pp. 315323. lic health. Speech to the Faculty of Public Health Medicine. SummaryPlus | Full Text + Links | PDF (916 K) | View London: Nov 20, 2002. Record in Scopus | Cited By in Scopus (16) 22. DA Lawlor, S Frankel and M Shaw et al., Smoking and 11. C Hamlin, The history and development of public health health: does lay epidemiology explain the failure of smok- in developed countries. In: R Detels, J McEwen, R ing cessation among deprived populations, Am J Public Beaglehole and H Tanaka, Editors, Oxford textbook of pub- Health 93 (2003), pp. 266270. View Record in Scopus | lic health (4th edn.), Oxford University Press, Oxford (2002). Cited By in Scopus (33) 12. D Wikler and R Cash, Ethical issues in global public 23. N Milio, Public Health in the market: Facing managed health. In: R Beaglehole, Editor, Global public health: a new care, lean government, and health disparities, University of era, Oxford University Press, Oxford (2003). Michigan Press, Ann Arbor, MI (2000). 13. NE Kass, An ethics framework for public health, Am J 24. JB McKinlay and LD Marceau, A tale of two tails, Am Public Health 91 (2001), pp. 17761782. View Record in J Public Health 89 (1999), p. 295. View Record in Scopus | Scopus | Cited By in Scopus (58) Cited By in Scopus (42) 14. MJ Roberts and MR Reich, Ethical analysis in public 25. LO Gostin, Public health law reform, Am J Public Health health, Lancet 359 (2002), pp. 10551059. SummaryPlus | 91 (2001), pp. 13651368. View Record in Scopus | Cited By Full Text + Links | PDF (76 K) | View Record in Scopus | in Scopus (8) Cited By in Scopus (38) 26. R Beaglehole, Global cardiovascular disease preven- 15. Sahn De and DC Stifel, Progress toward the millenium tion: time to get serious, Lancet 358 (2001), pp. 661663. development goals in Africa, World Development 31 SummaryPlus | Full Text + Links | PDF (60 K) | View Record (2003), pp. 2325. in Scopus | Cited By in Scopus (34) 16. A Sen, Development as freedom, Oxford University 27. J Powles, Public health in developed countries. In: R Press, Oxford (2001). Detels, J McEwen, R Beaglehole and H Tanaka, Editors, 17. AJ McMichael, Prisoners of the proximate, Am J Oxford textbook of public health (4th Edn.), Oxford Epidemiol 149 (1999), pp. 887897. View Record in Scopus University Press, Oxford (2002). | Cited By in Scopus (91) 28. C Hamlin, Commentary: John Sutherland's epidemiolo- 18. R Beaglehole and R Bonita, Public Health at the gy of constitutions. Int, J Epidemiol 31 (2002), pp. 915919. Crossroads: Achievements and prospects (Second edition), Full Text via CrossRef | View Record in Scopus | Cited By Cambridge University Press, Cambridge (2004). in Scopus (2) 19. Bill and Melinda Gates Foundation, $ 200 million grant 29. J Raeburn and S Macfarlane, Putting the public into pub- to accelerate research on grand challenges in global health lic health: towards a more people-centred approach. In: R Press release. ( Beaglehole, Editor, Global public health: a new era, Oxford health/announcements) (accessed Feb 4, 2003). University Press, Oxford (2003). 20. WHO, World Health Report, 2000. Health systems: 30. People's Health Movement ( improving performance, World Health Organization, (accessed Jan 28, 2004. Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2007, Số 9 (9) 9