Xây dựng bộ câu hỏi đo lường nhận thức và hành vi sử dụng nước thải của người dân trong sản xuất nông nghiệp tại xã Hoàng Tây và Nhật Tân tỉnh Hà Nam theo Thuyết động lực bảo vệ
Xây dựng bộ câu hỏi đo lường nhận thức và hành vi sử dụng nước thải của người dân trong sản xuất nông nghiệp tại xã Hoàng Tây và Nhật Tân tỉnh Hà Nam theo Thuyết động lực bảo vệ
Sử dụng nước thải giúp tăng sản lượng nông nghiệp và thủy sản. Tuy nhiên, việc sử dụng nước thải không thích hợp là một trong những nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Đề tài nghiên cứu này tìm kiếm giải pháp nâng cao nhận thức và thực hành của người dân liên quan đến sử dụng nước thải theo Thuyết động lực bảo vệ. Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2008 - 2009 ở xã Hoàng Tây và Nhật Tân, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính ở 30 đối tượng, tìm hiểu nhận thức của người dân theo Thuyết động lực bảo vệ (PMT) và làm cơ sở xây dựng bộ câu hỏi đánh giá nhận thức và thực hành của người dân về sử dụng nước thải trong sản xuất nông nghiệp. Nghiên cứu định lượng được tiến hành nhằm xác định tính giá trị và độ tin cậy của Bộ câu hỏi dựa trên phỏng vấn 335 đối tượng lần 1, kiểm định lại độ tin cậy bằng cách phỏng vấn lặp lại lần 2 sau 30 ngày với 64 đối tượng. Nghiên cứu cho thấy người dân còn thiếu hiểu biết về nguy cơ sức khỏe do sử dụng nước thải chưa đảm bảo an toàn và chưa thực hiện tốt biện pháp phòng bệnh. Bộ câu hỏi xây dựng cuối cùng có 34 câu với 9 nhân tố, đảm bảo tính giá trị về cấu trúc và logic với chỉ số tin cậy cronbach's Alpha trên 0,65 và chỉ số tương quan giữa các nhân tố từ 0,11 đến 0,35 (P<0,05). Để thực hành sử dụng nước thải trong nông nghiệp một cách an toàn hơn cần có động lực thực hiện hành vi phòng bệnh của người dân thông qua nâng cao nhận thức về khả năng phòng bệnh, nỗi sợ về bệnh, hiệu quả phòng bệnh và mức độ nguy hiểm của bệnh
File đính kèm:
xay_dung_bo_cau_hoi_do_luong_nhan_thuc_va_hanh_vi_su_dung_nu.pdf
Nội dung text: Xây dựng bộ câu hỏi đo lường nhận thức và hành vi sử dụng nước thải của người dân trong sản xuất nông nghiệp tại xã Hoàng Tây và Nhật Tân tỉnh Hà Nam theo Thuyết động lực bảo vệ
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Xây dựng bộ câu hỏi đo lường nhận thức và hành vi sử dụng nước thải của người dân trong sản xuất nông nghiệp tại xã Hoàng Tây và Nhật Tân tỉnh Hà Nam theo Thuyết động lực bảo vệ Vũ Văn Tú (*), Nguyễn Thanh Hương(**), Phạm Đức Phúc (***), Nguyễn Việt Hùng (****), Christian Zurbrugg (*****) Sử dụng nước thải giúp tăng sản lượng nông nghiệp và thủy sản. Tuy nhiên, việc sử dụng nước thải không thích hợp là một trong những nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Đề tài nghiên cứu này tìm kiếm giải pháp nâng cao nhận thức và thực hành của người dân liên quan đến sử dụng nước thải theo Thuyết động lực bảo vệ. Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2008 - 2009 ở xã Hoàng Tây và Nhật Tân, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính ở 30 đối tượng, tìm hiểu nhận thức của người dân theo Thuyết động lực bảo vệ (PMT) và làm cơ sở xây dựng bộ câu hỏi đánh giá nhận thức và thực hành của người dân về sử dụng nước thải trong sản xuất nông nghiệp. Nghiên cứu định lượng được tiến hành nhằm xác định tính giá trị và độ tin cậy của Bộ câu hỏi dựa trên phỏng vấn 335 đối tượng lần 1, kiểm định lại độ tin cậy bằng cách phỏng vấn lặp lại lần 2 sau 30 ngày với 64 đối tượng. Nghiên cứu cho thấy người dân còn thiếu hiểu biết về nguy cơ sức khỏe do sử dụng nước thải chưa đảm bảo an toàn và chưa thực hiện tốt biện pháp phòng bệnh. Bộ câu hỏi xây dựng cuối cùng có 34 câu với 9 nhân tố, đảm bảo tính giá trị về cấu trúc và logic với chỉ số tin cậy cronbach's Alpha trên 0,65 và chỉ số tương quan giữa các nhân tố từ 0,11 đến 0,35 (P<0,05). Để thực hành sử dụng nước thải trong nông nghiệp một cách an toàn hơn cần có động lực thực hiện hành vi phòng bệnh của người dân thông qua nâng cao nhận thức về khả năng phòng bệnh, nỗi sợ về bệnh, hiệu quả phòng bệnh và mức độ nguy hiểm của bệnh. Từ khóa: Nước thải, nguy cơ sức khoẻ, nhận thức, thực hành, bộ câu hỏi, PMT. Developing a questionnaire to measure awareness and behaviours of people in relation to wastewater use in agriculture at Hoang Tay commune and Nhat Tan commune, 66 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Ha Nam province following Protection Motivation Theory Vu Van Tu (*), Nguyen Thanh Huong (**), Pham Duc Phuc (***), Nguyen Viet Hung (****), Christian Zurbrugg (*****) The use of wastewater increases agricultural and aquacultural production. However, inappropriate use of wastewater is one of the major risks to human health. The study investigated the solutions to improve the farmer's awareness and practices associated with the use of wastewater based on the Protection Motivation Theory (PMT) framework. The study was carried out in 2008 - 2009 in Hoang Tay and Nhat Tan communes, Kim Bang district, Ha Nam Province. People's awareness and practices in relation to wastewater reuse were identified through in-depth interviews and observation of 30 participants. These results were the basis for formulating questionnaires using PMT. Once the questionnaire has been developed, a survey using the questionnaire was conducted with 335 interviews. Sixty four people among these 335 persons were interviewed for a second time to verify the reliability of the questions. Study results revealed that people lack knowledge of the health risks related to wastewater use, unsafe use of wastewater and incorrect practices of using protective measures to prevent diseases. The developed questionnaire was validated to ensure the structural and logical values. The questionnaire of 34 questions focuses on nine different factors, and the reliability index of these questions is all above 0.65 Cronbach's Alpha, and correlations of PMT coefficients vary between 0.11 and 0.35 (P <0.05). To safely use wastewater in agriculture, farmers should have motivation to prevent diseases through improving their awareness with regard to self-efficacy, fear, vulnerability, and severity. Keywords: Wastewater, health risk, awareness, practice, questionnaire, PMT. Tác giả: (*) Ths. BS. Vũ Văn Tú, Trường trung cấp Y tế Hoà Bình. (**) TS. Nguyễn Thanh Hương, Trường Đại học Y tế Công Cộng. (***) Ths.BS. Phạm Đức Phúc, Viện Vệ Sinh Dịch Tễ Trung Ương. (****) TS. Nguyễn Việt Hùng, Bộ môn Sức khỏe Môi trường, Trường Đại học Y tế công cộng. Viện Nhiệt đới và Y tế Công cộng Thụy Sĩ. Basel, Thụy Sĩ. Khoa nước và vệ sinh cho các nước đang phát triển (Sandec), Viện Liên bang Nghiên cứu Nước (Eawag). Dubendorf, Thụy Sĩ. Email: nvh@hsph.edu.vn (*****) Ths. Christian Zurbrugg, Viện Nhiệt đới và Y tế công cộng Thụy Sỹ, Sandec/Eawag 1. Đặt vấn đề Tuy nhiên, sử dụng NT chưa qua xử lý trong sản Nước thải (NT) được sử dụng trong nuôi trồng xuất nông nghiệp có thể gây nên các vấn đề về sức thủy sản từ hàng thế kỷ nay ở một số nước, đặc biệt khỏe cho con người như tiêu chảy, viêm da và làm là Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á trong tăng nguy cơ nhiễm ký sinh trùng như giun đũa, đó có Việt Nam [13]. Sử dụng NT giúp nông dân và giun kim và giun móc với những cả những người sản cộng đồng tăng sản lượng nông nghiệp và thủy sản. xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp [12-13]. Tổ Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 67
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | chức Y tế thế giới (TCYTTG) ước tính có 1,5 triệu Thuyết động lực bảo vệ". người chết hàng năm do sử dụng nước không an toàn, thiếu nước hoặc vệ sinh, trong đó hầu hết là 2. Phương pháp nghiên cứu trẻ em. Thêm nữa, ước tính 860.000 trẻ em dưới 5 tuổi chết hàng năm là kết quả trực tiếp hay gián tiếp 2.1. Thiết kế nghiên cứu của tình trạng nhẹ cân và thiếu ăn liên quan tới tiêu Nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp nghiên cứu chảy kéo dài hoặc bệnh ký sinh đường ruột [3]. định tính và định lượng. Nghiên cứu định tính tìm Thực tế cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh đường tiêu hoá hiểu nhận thức và hành động của người dân liên gia tăng ở một số tỉnh trong đó có Hà Nam (1,5- quan tới hành vi sử dụng nước thải trong sản xuất 2,2% dân số) do việc sử dụng NT từ dòng sông ô nông nghiệp lấy PMT làm cơ sở xây dựng bộ câu nhiễm cho sản xuất nông nghiệp [1]. Mặt khác, tại hỏi. Nghiên cứu định lượng nhằm đánh giá tính giá tỉnh Hà Nam, các xã có sông Nhuệ - Đáy chảy qua trị và độ tin cậy của bộ câu hỏi. có tỷ lệ bệnh tiêu chảy cao gấp 1,5 tới 2 lần so với 2.2. Đối tượng nghiên cứu các xã khác. Đặc biệt, xã Hoàng Tây huyện Kim Người dân trong độ tuổi lao động (15-60) trực Bảng, Hà Nam có tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi mắc bệnh tiếp tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp tại xã tiêu chảy cao nhất huyện lên tới 21%. Tại hai xã Hoàng Tây và xã Nhật Tân, tỉnh Hà Nam. Hoàng Tây, Nhật Tân (huyện Kim Bảng), có tới 86% trẻ em mắc bệnh giun đũa, 76% mắc bệnh giun Lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã, Hội nông dân, tóc và 9% mắc bệnh giun móc, tỷ lệ mắc bệnh giun Trạm Y tế xã. đũa cao hơn 41,6% so với tỷ lệ chung của cả nước, 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu tỷ lệ mắc bệnh giun tóc cao hơn 52,9% tỷ lệ chung Nghiên cứu được thực hiện từ 01/10/2008 đến của cả nước [1]. Những vấn đề sức khoẻ trên có thể 01/10/2009 tại xã Hoàng Tây và Nhật Tân, huyện phòng ngừa được, nếu người dân nhận thức được Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. nguy cơ và chủ động phòng tránh. Tìm hiểu mối liên quan giữa nhận thức và hành 2.4. Phương pháp thu thập số liệu vi nguy cơ sức khỏe của người dân là yếu tố quan Nghiên cứu định tính : Công cụ thu thập là bản trọng giúp cho thành công của chương trình truyền hướng dẫn phỏng vấn sâu (PVS) ; Các cuộc PVS, và thông, thay đổi hành vi. Cơ sở khoa học của quá thảo luận nhóm (TLN) đều được ghi chép và có ghi trình hình thành và thay đổi hành vi được lý giải bởi âm với sự cho phép của đối tượng nghiên cứu. nhiều thuyết hành vi. Thuyết động lực bảo vệ Nghiên cứu định lượng : Điều tra viên tiến hành (PMT: Protection Motivation Theory) là một trong phỏng vấn theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn. những thuyết hành vi được ứng dụng rỗng rãi trong nghiên cứu phòng chống ung thư, những vấn đề sức 2.5. Phương pháp chọn mẫu khoẻ nói chung, tuân thủ điều trị một số bệnh, một Nghiên cứu định tính: số chủ đề an toàn và những vấn đề môi trường[11]. Chọn mẫu chủ đích: Chọn đối tượng người dân Tuy nhiên, PMT theo như tham khảo thì chưa từng cho PVS và TLN bao gồm cả nam và nữ. Chọn phó được áp dụng tìm hiểu nguy cơ sức khỏe và hành vi chủ tịch Ủy ban nhân dân, chủ tịch Hội nông dân; nguy cơ về sử dụng NT trong sản xuất nông nghiệp. Trưởng Trạm Y tế xã: mỗi xã chọn 3 người. Tổng Mặt khác, PMT là thuyết về hành vi duy nhất có số 30 cuộc PVS, 2 cuộc TLN. thành tố khả năng thực hiện thành công hành vi phòng bệnh, thành tố có vai trò quan trọng hình Nghiên cứu định lượng: thành ý định/dự định thực hiện và duy trì hành vi Chọn mẫu thu thập thông tin lần 1 phòng bệnh. Vì vậy, nhằm tìm kiếm giải pháp nâng Chọn hộ gia đình một cách ngẫu nhiên theo cao nhận thức và thực hành của người dân về sử cách từ giữa xóm, chọn hướng bất kỳ và chọn nhà dụng nước thải trong sản xuất nông nghiệp, chúng đầu tiên, sau đó chọn các nhà tiếp theo cách nhà tôi tiến hành nghiên cứu "Xây dựng bộ câu hỏi đo liền nhà. Từ hộ gia đình được chọn, chọn ngẫu nhiên lường nhận thức và hành vi sử dụng nước thải của một người đống ý tham gia phỏng vấn trả lời trong người dân trong sản xuất nông nghiệp tại xã Hoàng độ tuổi từ 15 đến 60. Số đối tượng đã chọn là 335 Tây và Nhật Tân tỉnh Hà Nam năm 2008 theo đối tượng, xã Nhật Tân 207 đối tượng, xã Hoàng 68 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tây 128 đối tượng. nông dân cũng có mùi hôi, nếu ăn vào thì có thể bị Chọn mẫu thu thập thông tin lần 2: Cách 1 đi ngoài:"không phải đi ngoài thông thường mà gần tháng, chọn đối tượng phỏng vấn một cách ngẫu như là tiêu chảy"(PVS-VVH). nhiên từ danh sách lần 1, đã chọn 64 đối tượng trả Nhận thức về khả năng phòng tránh nguy cơ, lời phỏng vấn, xã Nhật Tân 36 người, xã Hoàng mức độ sẵn sàng thực hiện hành vi phòng bệnh Tây 28 người. Bảo hộ lao động (ủng, găng tay cao su và khẩu trang) thường được phụ nữ sử dụng hơn nam giới. 2.6. Phương pháp phân tích số liệu Phụ nữ chú trọng tới bảo vệ da khỏi thâm đen, ngứa 2.6.1. Nghiên cứu định tính: khi tiếp xúc với nước thải. Tuy nhiên, nam giới cho Kết quả được gỡ băng, mã hóa bằng phần mềm biết là khi dùng ủng không thuận tiện do: "không Nvivo 7.0. thật chân". Một vài người cho rằng tiền mua bảo hộ 2.6.2. Nghiên cứu định lượng: lao động so với thu nhập từ làm ruộng cũng là "tốn Số liệu được mã hóa, nhập liệu, làm sạch và sử quá". Một nam giới còn cho rằng dùng bảo hộ lao dụng phần mềm SPSS phiên bản 15.0 để phân tích động theo quan niệm của các cụ là không chăm chỉ mô tả, đánh giá tính giá trị bộ công cụ bằng phân là: "đại lãn". Những nông dân được hỏi thường coi tích nhân tố (Factor Analysis), sử dụng phương pháp trọng sự thuận tiện, nhất là khi cấy, họ thường phân tích nhân tố chính (Principal component không sử dụng găng tay vì cũng cho rằng: "găng tay analysis), lựa chọn các mục (câu hỏi) có chỉ số tải cấy nó không thật". Tuy nhiên, một số nông dân, từ 0,3 trở lên và các chỉ mục phù hợp với khung lý gồm cả nam giới thường xuyên dùng ủng khi làm thuyết [7], đánh giá độ tin cậy bên trong bằng chỉ ruộng, khi tiếp xúc với nước thải. Họ cũng sẵn sàng số Cronbach Alpha (đảm bảo từ 0,65 trở lên). Sử bỏ tiền mua ủng, một nam giới cho biết: "cái đấy quan trọng giữ sức khỏe mình phải chi, chứ không dụng phần mềm MedCalc 11.1.0.0, Analyse-it đánh phải gì. Bảo hộ lao động là quan trọng, liều thuốc giá độ tin thử nghiệm lại qua chỉ số Kappa (cho biến là hết chứ đâu mà 30 nghìn bạc" (PVS- phân loại), sử dụng hệ số tương quan giữa các nhóm NVH.Htdong1). intraclass correlation coefficients (ICC) và Biểu đồ Bland-Altman (cho biến liên tục) [6]. 3.2. Xây dựng bộ câu hỏi Bộ câu hỏi được xây dựng và đánh giá gồm 70 3. Kết quả câu hỏi. Thang đo cho các câu hỏi gồm 5 mức độ, 3.1. Nhận thức về nguy cơ sức khoẻ, mức độ những câu hỏi đánh giá nhận thức gồm các mức độ nguy hiểm của bệnh là: hoàn toàn không đồng ý, không đồng ý, không có ý kiến, đồng ý và hoàn toàn đồng ý; những câu Nông dân thường sử dụng nguồn nước từ sông hỏi đánh giá thực hành gồm 5 mức độ: chưa bao giờ, Nhuệ và nước từ mương trong xã chảy ra tưới cho hiếm khi, thỉnh thoảng, thường xuyên và luôn luôn. lúa, và hoa mầu: ngô, dưa, đậu tương.v.v. và nuôi cá. Mọi người thường gọi là "nước bin", vì có màu 3.3. Phỏng vấn 335 đối tượng đen, có mùi như pin và gây cho người dân cảm giác Phần lớn đối tượng phỏng vấn là nữ giới, chiếm "sợ". Khi tiếp xúc trực tiếp với nước thải người dân khoảng 80%. Trình độ học vấn của đối tượng phỏng thường bị ngứa ở vùng tiếp xúc. Tuy nhiên, theo vấn chủ yếu là trung học cơ sở (61,8%), tỷ lệ hộ gia nông dân thì "ngứa" cũng không không ảnh hưởng đình nghèo phân theo phương tiện giao thông là nhiều tới sức khoẻ, có thể hết khi bôi thuốc ngứa (do 19,1%, gia đình có điều kiện kinh tế khá là 72,2%, người dân tự mua) hoặc tự khỏi "ngứa vài ngày hết giàu là 8,7%. đi đồng nó lại khỏi"(PVS-LTM). Tuy vậy, một phụ Sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám nữ cho biết là thời gian dài có thể làm cho da bị phá (EFA) thực hiện theo các bước: thâm: "ngứa lâu lâu nó thâm hết cả da chân lên ấy chứ" (PVS-VTP). Qua thực tế, nông dân phản ánh 3.3.1. Kiểm tra điều kiện phân tích nhân tố của là nước thải từ sông Nhuệ ảnh hưởng rất lớn tới sản các tiểu mục: phẩm nông nghiệp là cá và rau, vì vậy họ tránh Bartlett's test of sphericity có ý nghĩa (χ2= dùng các sản phẩm này. Cá có "mùi hôi" rất khó ăn, 6983,03; p<0,001), cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa rau trồng ở gần sông hoặc tưới nước sông Nhuệ theo về mối liên quan giữa các câu hỏi. Kaiser- Meyer- Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 69
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Olkin Measure of Sampling Adequacy (KMO) = Các nhân tố được lựa chọn phải đáp ứng hai tiêu 0,72 cho thấy rằng có thể sử dụng phân tích nhân tố chuẩn: (1) chỉ số Eigenvalues lớn hơn 1; (2) Tỷ lệ cho mẫu thu thập [5]. phần trăm số biến thiên giải thích được sau khi xoay 3.3.2. Lựa chọn các nhân tố và câu hỏi của thang lớn hơn 5% [5]. Loại bỏ 36 câu hỏi thuộc các nhân đo (bộ câu hỏi) tố không đáp ứng tiêu chuẩn, kết quả có 9 nhân tố đủ điều kiện được lựa chọn. Tổng số biến thiên được Bảng 3.1. Nhân tố, chỉ số Cronbach Alpha và chi được giải thích bởi 9 nhân tố bao gồm 34 câu hỏi là tiết các câu hỏi 67%, tỷ lệ thấp nhất biến được giải thích bởi nhân tố là 5,5% sau khi xoay theo phương pháp nghiêng - Oblimin, với cỡ mẫu N=335. Kết quả được trình bày trong Bảng 3.1: Khoảng giá trị chỉ số cronbach Alpha từ 0,65 (nhân tố: nhận thức về mức độ nguy hiểm của bệnh) đến 0,92 (ý định thực hiện hành vi phòng bệnh) được coi là giá trị chấp nhận được đối với nghiên cứu mới [2]. 3.3.3. Tính logic Người có trình độ học vấn càng cao thì càng có điểm trung bình các nhân tố cao: nhân tố Thực hành vệ sinh cá nhân (F=6,2; p=0,002); nhân tố Thực hành vệ sinh liên quan tới việc sử dụng nước thải (F=8,16; p<0,001); nhân tố Nhận thức về khả năng mắc bệnh của những người có trình độ học vấn phổ thông là cao nhất, tiếp theo là trình độ trung học cơ sở. Sự khác biệt giữa điểm trung bình nhân tố Nhận thức về khả năng mắc bệnh của những người trình độ văn hóa trung học phổ thông, trung học cơ sở với những người trình độ văn hóa tiểu học có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 3.3.4. Mối liên quan giữa các nhân tố Sơ đồ 3.1 thể hiện mối tương quan đồng biến giữa điểm trung bình các nhân tố Thực hành vệ sinh liên quan tới sử dụng nước thải, Động lực thực hiện hành vi phòng bệnh, nhận thức về mức độ nguy hiểm của bệnh, khả năng mắc bệnh, khả năng thực hiện thành công hành vi phòng bệnh, hiệu quả phòng bệnh có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 3.3.5. Phỏng vấn lặp lại Giữa hai lần hỏi có sự gần như đồng nhất về tuổi và trình độ văn hoá (ICC tuổi: 0,99; Weighted kappa trình độ văn hoá là 0,88 (95%CI: 0,77 − 0,98)) Chỉ số ICC của các nhân tố trong khoảng (từ - 0,20→0,81). Chỉ số ICC thấp rơi vào nhóm nhân tố: Nhận thức về hiệu quả hành vi phòng bệnh và Nhận thức về mức độ nguy hiểm của bệnh. Chỉ số Kappa của các câu hỏi ở mức độ đồng nhất thấp: 88% (30 câu) là mức độ đồng nhất dưới trung bình (Kappa ≤ 70 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Regimens), và những vấn đề sức khỏe (General Health Issues) như HIV/AIDS, lạm dụng rượu, thuốc lá, bệnh mạch vành.v.v.[10]. Nhưng Thuyết động lực bảo vệ, theo như chúng tôi tham khảo được thì chưa được áp dụng nghiên cứu về nguy cơ sức khỏe liên quan tới sử dụng nước thải trong sản xuất nông nghiệp trên phạm vi thế giới cũng như là ở Việt Nam. Vì vậy, xây dựng Bộ câu hỏi đo lường nhận thức và hành vi sử dụng nước thải của người dân trong sản xuất nông nghiệp theo Thuyết động lực bảo vệ là nghiên cứu đầu tiên được thực hiện. Sơ đồ 3.1. Mối liên quan giữa điểm trung bình của các Bộ câu hỏi được xây dựng nhằm có được công cụ yếu tố liên quan tới việc sử dụng nước thải hữu ích giải thích và đo lường tình trạng hiện tại mối liên quan giữa nhận thức và hành vi nguy cơ sức khỏe, trên cơ sở đó có chương trình can thiệp chính 0,4); chỉ 12% (4 câu) ở mức độ trung bình trở lên 0,4 xác nhằm nâng cao sức khỏe cộng đồng. <Kappa < 0,6. Bộ câu hỏi xây dựng đảm bảo bao gồm các 4. Bàn luận thành tố của PMT. Bộ câu hỏi xây dựng dựa trên tham khảo tài liệu hướng dẫn của TCYTTG về sử 4.1. Nhận thức của người dân về việc sử dụng nước thải và phân [13], các nghiên cứu về dụng nước thải trong sản xuất nông nghiệp nguy cơ sức khỏe, nghiên cứu về Quản lý nguy cơ Phần nhiều nguy cơ nhận biết được mang tính ngộ độ thực phẩm theo PMT [4], nghiên cứu thay cảm quan, về màu, mùi và những ảnh hưởng nhìn đổi hành vi luyện tập thể lực phòng chống bệnh tim thấy được. Mức độ quan tâm tới biện pháp phòng mạch theo PMT [9] và được tham khảo ý kiến 5 bệnh tùy thuộc vào đánh giá của họ và nỗi sợ của chuyên gia về môi trường trong nước và nước ngoài. họ về mức độ nguy hiểm của bệnh nếu mắc phải. Phương pháp phân tích nhân tố thăm dò (EFA) Người dân tránh không ăn cá, ăn rau được nuôi được áp dụng nhằm xác định số lượng tiểu mục và trồng từ nguồn nước sông Nhuệ, vì theo họ bị tiêu loại bỏ câu hỏi không phù hợp [2] . Độ tin cậy của chảy do ăn phải cá, rau là nguy hiểm. Ngược lại, Bộ câu hỏi liên quan tới sử dụng nước thải có giá trị biểu hiện ngứa ở vùng da tiếp xúc thì người dân cho Cronbach Alpha từ 0,65 trở lên là giá trị được chấp là không nguy hiểm, có thể hết sau một thời gian nhận với nghiên cứu mới. Để đánh giá độ tin cậy không tiếp xúc với nước thải cho nên họ thường của Bộ câu hỏi, thông thường nhiều nghiên cứu chỉ không sử dụng bảo hộ lao động phòng tránh ngứa, áp dụng đánh giá chỉ số Cronbach alpha, nhưng đồng thời họ chú trọng sự thuận tiện khi làm việc nghiên cứu này đánh giá độ tin cậy sử dụng hai chỉ ngoài đồng ruộng hơn, điểm trùng hợp với nghiên số Cronbach alpha và chỉ số kiểm định lại (test- cứu tại Nghệ An và Hà Nội [8]. Mặt khác, một trong retest reliability), với khoảng thời gian giữa hai lần những lý do là phụ nữ thường sử dụng bảo hộ lao thu thập dữ liệu là 4 tuần. Tuy nhiên, phần lớn các động hơn đàn ông là họ làm việc lâu hơn ngoài đồng câu hỏi có kết quả trả lời đồng nhất thấp giữa hai ruộng, họ cũng thấy rằng ngứa ở vùng da tiếp xúc lần hỏi [88% (30 câu) là mức độ đồng nhất dưới ≤ có thể làm cho da bị thâm da, xấu đi và ảnh hưởng trung bình (Kappa 0,4)]. Những câu hỏi này người tới thẩm mỹ. dân thường không hiểu chắc chắn nên có thể có những thay đổi về lựa chọn trả lời giữa hai lần hỏi. 4.2. Tính giá trị và độ tin cậy của Bộ câu hỏi xây dựng theo khung lý thuyết PMT 5. Khuyến nghị Thuyết động lực bảo vệ đã được áp dụng trong Bộ câu hỏi bước đầu có thể sử dụng để đánh nhiều lĩnh vực nghiên cứu, trong phòng chống ung giá nhận thức và hành vi sử dụng nước thải trong sản thư, tìm hiểu về những vấn đề an toàn (safety xuất nông nghiệp. Tuy nhiên cần có những nghiên issuses), những vấn đề về môi trường, sự tuân thủ cứu tiếp theo nhằm rút ngắn bộ câu hỏi hơn và nâng phác đồ điều trị (Adherence to Medical Treatment cao độ tin cậy kiểm định lại. Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 71
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Lời cảm ơn Kim Bảng, Hà Nam đã hợp tác trong nghiên cứu Chúng tôi xin cám ơn cán bộ và nhân dân, đặc này. Chúng tôi cám ơn Trung tâm NCCR North- biệt là trạm Y tế hai xã Hoàng Tây và Nhật Tân, South đã hỗ trợ kinh phí thực hiện đề tài. Tài liệu tham khảo Dalsgaard, A. (2006), "Practice of using human excreta as fertilizer and implications for health in Nghean Province, Vietnam", Southeast Asian J Trop Med Public Health, 37(1), Tiếng Việt pp. 222-9. 1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Hiện trạng môi 9. R. C. Plotnikoff & N. Higginbotham (2002), "Protection trường nước 3 lưu vực sông: Cầu, Nhuệ-Đáy, hệ thống sông Motivation Theory and exercise behaviour change for the Đồng Nai, Báo cáo môi trường Quốc gia, Hà Nội. prevention of coronary heart disease in a high-risk, 2. Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân Australian representative community sample of adults", tích dữ liệu với SPSS, Nhà xuất bảng Hồng Đức, Thành phố PSYCHOLOGY, HEALTH & MEDICINE,, 7(1), pp. 88-98. Hồ Chí Minh. 10. University of Twente, Topics Studied in PMT 3. Annette Pruss-Ustun, Robert Bos, Fiona Gore & Jamie Literature. Available from Bartram (2008), safer water, better health, WHO. accessed 06/10/2009. 4. Eunju Yoon (2007), Food defense management plan implementation intention: An application of protection 11. University of Twente (2009), Topics Studied in PMT motivation theory, Kantas State University. Literature. Available from 5. Marjorie A. Pett, Nancy R.Lackey & Jhon J. Sullivan accessed. (2003), Making sense of factor analysis, Sage Publications. 12. Vuong, T. A., van der Hoek, W., Ersboll, A. K., Nguyen, 6. MedCalc, Inter-rater agreement (kappa). Available from V. T., Nguyen, D. T., Phung, D. C. & Dalsgaard, A. (2007), accessed "Dermatitis among farmers engaged in peri-urban aquatic 06/10/2009. food production in Hanoi, Vietnam", Trop Med Int Health, 7. Pallant, J. (2001), SPSS survival manual, Allen & Unwin, 12 Suppl 2, pp. 59-65. Australia. 13. WHO (2006), WHO guidelines for the safe use of 8. Phuc, P. D., Konradsen, F., Phuong, P. T., Cam, P. D. & wastewater, excreta and greywater. 72 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)