Tình hình sử dụng thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện của người dân tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, năm 2008
Triển khai Bảo hiểm Y tế tự nguyện (BHYTTN) là một trong những biện pháp quan trọng để tiến tới BHYT toàn dân. Nghiên cứu này được tiến hành năm 2008 tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh nhằm: (1) Mô tả tình hình sử dụng thẻ BHYTTN; (2) Mô tả thái độ của người có thẻ với BHYTTN và đánh giá những thuận lợi, khó khăn của việc triển khai BHYTTN tại huyện Tiên Du. Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang (định lượng kết hợp định tính). Số liệu thu thập từ phỏng vấn bằng bộ câu hỏi với tất cả 330 người dân có thẻ BHYTTN tại 3 xã có mức sống khá, trung bình và nghèo của huyện và phỏng vấn sâu 7 cán bộ lãnh đạo và trưởng trạm y tế xã. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 15.0. Kết quả cho thấy người có thẻ chủ yếu là nữ với chỉ hơn 10% tự đánh giá mình là khỏe mạnh. Người có thẻ có mức thu nhập trung bình kém hơn so với của toàn huyện. Có tới 30% không sử dụng thẻ BHYTTN để khám chữa bệnh (KCB) tại cơ sở y tế khi bị ốm, và chưa đến 20% sử dụng dịch vụ ở Trạm y tế xã. Có 28,8% người đã sử dụng thẻ gặp khó khăn, bao gồm: Chờ đợi lâu, thiếu thuốc, trang thiết bị kém, thủ tục thanh toán phiền hà, qui trình để tham gia bảo hiểm phức tạp, thái độ phục vụ của cán bộ y tế chưa nhiệt tình …
Mặc dù người dân có ủng hộ BHYTTN nhưng chưa cao (chưa tới 50%) và chưa nhất quán do hiểu biết của họ về bảo hiểm còn khá lơ mơ và thậm chí còn rất sai lệch. Không có sự khác biệt về thái độ đối với BHYTTN của những người đang tham gia bảo hiểm ở 3 xã tham gia nghiên cứu. Cần quan tâm đầu tư cho y tế tuyến cơ sở để nâng cao chất lượng KCB. Tiếp tục cải thiện qui định về BHYTTN để tạo điều kiện thuận tiện cho người dân tham gia và sử dụng theo quyền lợi chính đáng của họ. Tăng cường công tác tuyên truyền để người dân hiểu rõ lợi ích và để mở rộng đối tượng tham gia đến các nhóm có kinh tế khá và những người khỏe mạnh.
Tình hình sử dụng thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện của người dân tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, năm 2008
File đính kèm:
tinh_hinh_su_dung_the_bao_hiem_y_te_tu_nguyen_cua_nguoi_dan.pdf
Nội dung text: Tình hình sử dụng thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện của người dân tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, năm 2008
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tình hình sử dụng thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện của người dân tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, năm 2008 Nahria Ka Sum (*); Lương Ngọc Khuê (**); Nguyễn Thanh Hương(***) Triển khai Bảo hiểm Y tế tự nguyện (BHYTTN) là một trong những biện pháp quan trọng để tiến tới BHYT toàn dân. Nghiên cứu này được tiến hành năm 2008 tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh nhằm: (1) Mô tả tình hình sử dụng thẻ BHYTTN; (2) Mô tả thái độ của người có thẻ với BHYTTN và đánh giá những thuận lợi, khó khăn của việc triển khai BHYTTN tại huyện Tiên Du. Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang (định lượng kết hợp định tính). Số liệu thu thập từ phỏng vấn bằng bộ câu hỏi với tất cả 330 người dân có thẻ BHYTTN tại 3 xã có mức sống khá, trung bình và nghèo của huyện và phỏng vấn sâu 7 cán bộ lãnh đạo và trưởng trạm y tế xã. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 15.0. Kết quả cho thấy người có thẻ chủ yếu là nữ với chỉ hơn 10% tự đánh giá mình là khỏe mạnh. Người có thẻ có mức thu nhập trung bình kém hơn so với của toàn huyện. Có tới 30% không sử dụng thẻ BHYTTN để khám chữa bệnh (KCB) tại cơ sở y tế khi bị ốm, và chưa đến 20% sử dụng dịch vụ ở Trạm y tế xã. Có 28,8% người đã sử dụng thẻ gặp khó khăn, bao gồm: chờ đợi lâu, thiếu thuốc, trang thiết bị kém, thủ tục thanh toán phiền hà, qui trình để tham gia bảo hiểm phức tạp, thái độ phục vụ của cán bộ y tế chưa nhiệt tình Mặc dù người dân có ủng hộ BHYTTN nhưng chưa cao (chưa tới 50%) và chưa nhất quán do hiểu biết của họ về bảo hiểm còn khá lơ mơ và thậm chí còn rất sai lệch. Không có sự khác biệt về thái độ đối với BHYTTN của những người đang tham gia bảo hiểm ở 3 xã tham gia nghiên cứu. Cần quan tâm đầu tư cho y tế tuyến cơ sở để nâng cao chất lượng KCB. Tiếp tục cải thiện qui định về BHYTTN để tạo điều kiện thuận tiện cho người dân tham gia và sử dụng theo quyền lợi chính đáng của họ. Tăng cường công tác tuyên truyền để người dân hiểu rõ lợi ích và để mở rộng đối tượng tham gia đến các nhóm có kinh tế khá và những người khỏe mạnh. Từ khóa: Bảo hiểm y tế tự nguyện, sử dụng dịch vụ y tế,Trạm y tế xã Situational analysis of using voluntary health insurance cards in Tien Du district, Bac Ninh province in 2008 Nahria Ka Sum (*), Luong Ngoc Khue (**), Nguyen Thanh Huong (***) Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2010, Số 15 (15) 21
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Voluntary health insurance (VHI) is one important measure to achieve HI universal coverage. This study was conducted in 2008 in Tien Du district, Bac Ninh province with following objectives: (1) to provide a picture of the situation in using VHI cards; (2) to describe the attitude of card holders toward VHI and assess advantages and difficulties of implementing VHI in Tien Du district. The study employed a cross-sectional approach with combination of quantitative and qualitative methods. Data was collected from interviewing 330 VHI card holders in 3 communes with poor, average and better-off economic levels as well as in-depth interviews held with 7 people who were local leaders and heads of commune health centres. Then, the data was analyzed by using software SPSS 15.0. Research findings reveal that the majority of card holders were female, of whom only more than 10% considered themselves to be healthy. The average income per capita of card holders was lower than that of the whole district. Up to 30% of card holders did not use their cards when going to health facilities for examination and treatment. Less than 20% of card holders went to commune health centres for medical services. Many VHI card holders (28.8%) encountered difficulties when using the cards, including long waiting time, short of drugs, poor condition of medical equipment, troublesome procedure of payment and enrolment for VHI, negative attitude of health professionals Only less than 50% of people had positive attitude toward VHI and the attitude was not consistent because their perception of health insurance was not clear and even incorrect. There was no difference of attitude toward VHI among those living in 3 study communes. It is necessary to invest more for health care at grassroots level to improve health care quality. Continuing improvement of VHI procedure and regulations should be made to create favorable conditions for card holders. Communication activities should be boosted to improve people's knowledge and attitude toward VHI so that it is possible to increase the number of people enrolling for VHI, including healthy and better-off people. Key words: Voluntary health insurance, health care utilization, commune health centre. Tác giả (*) ThS. Nahria Ka Sum - Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe tỉnh Lâm Đồng (**) TS. Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục Khám chữa bệnh - Bộ Y tế (***) TS. Nguyễn Thanh Hương - Trường Đại học Y tế Công cộng 1. Đặt vấn đề Chính phủ về định hướng Chiến lược chăm sóc và Bảo hiểm Y tế (BHYT) là một trong 4 nội dung bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 2001 - 2010. Hơn đổi mới quan trọng của hệ thống y tế nước ta. Hiện thế nữa, bắt đầu từ ngày 1/10/2009, Luật Bảo hiểm nay BHYT tiếp tục phát triển và được coi là một cơ Y tế đã chính thức được triển khai trên cả nước. chế quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng nền Chính sách khám chữa bệnh (KCB) cho người có y tế theo định hướng công bằng và hiệu quả. Điều thẻ BHYT tại tuyến xã đã được ban hành nhằm tạo lệ BHYT Việt Nam đã đề cập đến 2 loại hình điều kiện thuận lợi cho người tham gia BHYT trong BHYT là bắt buộc và tự nguyện (BHYTTN) [4]. việc tiếp cận dịch vụ [10]. Chủ trương phát triển BHYTTN góp phần tiến tới Mặc dù vậy một số nghiên cứu cũng cho thấy có BHYT toàn dân đã được đưa vào Nghị quyết Đại tỷ lệ không nhỏ không hài lòng với dịch vụ cung cấp hội Đảng lần thứ IX và Quyết định 36/CP của cho người có thẻ BHYT, ví dụ không hài lòng về 22 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2010, Số 15 (15)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | chất lượng KCB BHYT là 20,9%, về thủ tục hành cho nghiên cứu. Do vậy, nghiên cứu đã chọn mẫu chính là 30,6% [8]. Lý do các hộ gia đình (HGĐ) toàn bộ. Trong đó xã nghèo Hiên Vân là 96 người, không tiếp tục tham gia BHYTTN là vì không thuận xã Phú Lâm (kinh tế trung bình) là 113 người và xã tiện khi đi khám chữa bệnh, thái độ phục vụ của Nội Duệ (kinh tế khá) là 121 người. nhân viên y tế kém và không có người ốm trong quá Nghiên cứu định tính: Chọn chủ đích các cán bộ trình tham gia [6]. quản lý và cung cấp dịch vụ KCB BHYT để phỏng Tiên Du là huyện đồng bằng thuộc tỉnh Bắc vấn sâu theo nội dung hướng dẫn. Tổng số là 7 Ninh, với dân số 133.247 người. BHYTTN bắt đầu người gồm 1 giám đốc BHXH của huyện, 3 cán bộ triển khai tại Tiên Du từ năm 2004, chủ yếu là cho văn hóa phụ trách BHYT và 3 trạm trưởng TYT tại hội viên các hội, đoàn thể. Đến năm 2006 bắt đầu 3 xã. triển khai thêm hình thức BHYTTN HGĐ. Số lượng người tham gia BHYTTN tăng dần qua các năm. Phương pháp thu thập số liệu Tính đến hết năm 2007, trong toàn huyện có 36.463 Nghiên cứu định lượng: Phỏng vấn trực tiếp người tham gia BHYTTN trong đó chủ yếu là bằng bộ câu hỏi soạn sẵn và đã được phỏng vấn thử BHYTTN học sinh sinh viên (HSSV) (79,3%) và trên 10 người dân tại 1 xã của huyện Tiên Du trước BHYTTN nhân dân (ND) (20,7%) [1], [2]. Trong khi tiến hành điều tra trên quần thể nghiên cứu. thực tế, công tác BHYTTN còn bộc lộ nhiều hạn chế Nghiên cứu định tính: Phỏng vấn sâu dựa trên như chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, đối bản hướng dẫn được tiến hành tại địa điểm thuận lợi tượng tham gia BHYTTN còn ít, tập trung chủ yếu cho người tham gia và được ghi âm và ghi chép. ở đối tượng học sinh [1]. Việc tăng số lượng người Thang đo đánh giá thái độ của người dân với tham gia BHYTTN đặc biệt BHYTTN ND là mong BHYTTN: Sử dụng thang đo Likert (5 mức: rất muốn của hệ thống bảo hiểm xã hội. Nghiên cứu không đồng ý đến rất đồng ý) với 15 câu hỏi trong này được tiến hành vào năm 2008 tại huyện Tiên đó có 7 câu thể hiện thái độ tích cực và 8 câu thể Du, tỉnh Bắc Ninh nhằm: (1) Mô tả tình hình sử hiện thái độ không tích cực. Tổng số điểm là từ 15 dụng thẻ Bảo hiểm Y tế tự nguyện; (2) Mô tả thái đến 75, điểm càng cao thể hiện thái độ càng ủng hộ độ của người có thẻ với Bảo hiểm Y tế tự nguyện BHYTTN. và đánh giá những thuận lợi, khó khăn của việc triển khai loại bảo hiểm này tại huyện Tiên Du. Phân tích và xử lý số liệu Số liệu định lượng: Số liệu được làm sạch, nhập 2. Phương pháp nghiên cứu bằng phần mềm Epidata 3.1. và phân tích bằng Thiết kế: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp phần mềm SPSS15.0, so sánh điểm trung bình về định lượng và định tính. thái độ ủng hộ chính sách BHYTTN giữa các xã Đối tượng: Người dân (18-65 tuổi) của huyện bằng kiểm định ANOVA. Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, có tham gia BHTYTN năm Số liệu định tính: Gỡ băng, mã hóa thông tin 2008. Lãnh đạo Bảo hiểm xã hội huyện. Lãnh đạo theo chủ đề phục vụ mục tiêu nghiên cứu. UBND xã, Trạm trưởng TYT xã. Địa điểm: 03 xã của huyện Tiên Du đại diện 3. Kết quả nghiên cứu cho nhóm xã có mức sống khá, trung bình và nghèo 3.1. Một số thông tin chung: đó là xã Nội Duệ, Phú Lâm và Hiên Vân. Trong 330 người có thẻ BHYTTN tham gia Cỡ mẫu và cách chọn mẫu: nghiên cứu tỷ lệ nữ chiếm tới 74,8% và chủ yếu là Nghiên cứu định lượng: Cỡ mẫu để đánh giá làm nông nghiệp (76,1%). Độ tuổi từ 46 đến 60 là tình hình sử dụng thẻ BHYTTN được tính theo công cao nhất, chiếm 34,5%. Trình độ học vấn của đối thức ước tính một tỷ lệ trong quần thể với hệ số thiết tượng được phỏng vấn chủ yếu là trung học cơ sở kế là 2 do chọn mẫu cụm nhiều giai đoạn. Cỡ mẫu (39,4%) và tiểu học (34,2%). Xã có kinh tế càng cuối cùng của nghiên cứu là 330 người. khá thì tỷ lệ tham gia bảo hiểm càng cao và tương Cách chọn mẫu: Chọn mẫu cụm nhiều giai ứng là 29,1%; 34,2%; và 36,7%. Về mức thu nhập đoạn. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy số lượng bình quân đầu người/tháng, kết quả cho thấy có tới người tham gia BHYTTN ở 3 xã chỉ vừa đủ cỡ mẫu 32,1% thu nhập ở mức dưới 200 nghìn đồng/tháng; Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2010, Số 15 (15) 23
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 35,5% từ 200 nghìn - 1 triệu đồng/tháng. Mức thu chuyên môn của CBYT không tốt, và đến gần 1/3 nhập này nhìn chung còn thấp hơn mức thu nhập không trả lời câu hỏi này. Gần 30% người tham gia bình quân của huyện Tiên Du. Có 33% người được nghiên cứu không có ý kiến hoặc cho rằng thái độ phỏng vấn cho rằng sức khỏe yếu, 55,2% cho rằng của NVYT là chưa nhiệt tình. Gần ½ không trả lời sức khỏe bình thường, chỉ có 11,8% cho rằng sức hoặc cho rằng thuốc cho KCB BHYTTN là thiếu. khỏe tốt. Có 47,9% ý kiến người dân cho rằng đến KCB tại y tế cơ sở là mất nhiều thời gian chờ đợi. 3.2.Tình hình sử dụng thẻ BHYTTN Các hình thức tham gia BHYTTN được triển 3.3 Thái độ của người có thẻ đối với chính khai tại địa phương: Có 40,9% số người tham gia sách BHYTTN BHYTTN theo hình thức cá nhân, 38,2% theo HGĐ, Thái độ ủng hộ: Kết quả phỏng vấn 330 người theo thân nhân người lao động là 12,7%, còn các có thẻ BHYTTN cho thấy 85,8% cho rằng hình thức khác chiếm tỷ lệ rất thấp. BHYTTN là chính sách xã hội nhân đạo; 60,6% cho Lý do người dân tham gia BHYTTN: chủ yếu là rằng mọi người nên tham gia mua BHYTTN; 84,5% phòng khi ốm đau (91,5%), ngoài ra các lý do khác cho rằng BHYTTN sẽ hạn chế những rủi ro về kinh chiếm tỷ lệ khá thấp như nhà có người ốm, đoàn thể tế cho gia đình nếu có người ốm đau và nằm viện; bắt mua tương ứng là 5,8% và 11,8%. 57,6% người dân trả lời rằng người bị bệnh nặng thì BHYT sẽ chi trả phần lớn chi phí KCB và có 92,1% Số người bị ốm đến cơ sở y tế để KCB trong một người dân sẵn sàng tham gia BHYTTN cho dù bản năm qua: Kết quả điều tra 330 người có thẻ thân và người nhà khỏe mạnh. BHYTTN cho thấy, từ khi có thẻ có 242 người đã bị ốm trong đó có 95,4% trường hợp đã đến cơ sở y tế Thái độ không ủng hộ: Vẫn có tới 51,5% người KCB. Tỷ lệ người bị ốm đến bệnh viện huyện để dân được điều tra đồng ý với quan điểm BHYTTN KCB chiếm tỷ lệ cao nhất (47,9%), sau đó là đến là một hình thức kinh doanh chỉ có lợi cho Nhà nước; bệnh viện tỉnh (31,0%) và tới TYT xã chỉ là 17,7%. 73,3% cho rằng mua BHYT là lãng phí vì người ta thường ít phải đi khám bệnh; 67,3% cho rằng điều Sử dụng thẻ BHYTTN khi đến KCB tại cơ sở y kiện để tham gia BHYT như hiện nay là rất khó; có tế: Mặc dù đa số người dân khi bị ốm có đến cơ sở tới 47,6% người được điều tra cho rằng thái độ của y tế nhưng có tới 30% trong số họ không sử dụng nhân viên y tế chưa thật đúng mực với người bệnh đến thẻ BHYTTN mà họ đang sở hữu. Lý do mà họ có thẻ BHYT; 33,3% người trả lời phí mà BHYT chi không dùng thẻ vì cho rằng thủ tục hành chính phức trả là không đáng kể so với số tiền mà người ta bỏ tạp, phải chờ đợi lâu, nhân viên y tế (NVYT) không ra mỗi khi KCB và đặc biệt có tới 85,8% cho rằng nhiệt tình, thuốc và TTB kém... chỉ mua BHYT khi ốm đau. Những khó khăn khi sử dụng thẻ BHYTTN: So sánh điểm trung bình về thái độ với chính trong số 170 người đã dùng thẻ BHYTTN để đi sách BHYTN giữa các xã: Không có sự khác biệt có KCB có tới 29,1% gặp khó khăn phiền hà nhưng ý nghĩa thống kê giữa các xã có điều kiện kinh tế chủ yếu là tại bệnh viện tỉnh và trung ương. Khi hỏi khác nhau. Điểm trung bình về thái độ với chính 242 người đã đến KCB thì có tới 20% có phải nộp sách BHYTTN của người dân ở xã điều kiện kinh tiền thêm nhưng có tới gần 80% không trả lời rõ nộp tế nghèo là 49,6 điểm; ở xã có điều kiện kinh tế tiền vì lý do gì. trung bình là 48,5 điểm; ở các xã có kinh tế khá là Tiếp tục tham gia BHYTTN khi thẻ hết hạn: 48,9 điểm (F = 2,11, p>0,05). Trong tổng số 75 người trả lời sẽ không tiếp tục tham gia BHYTTN, các lý do sau đã được đưa ra: 3.4. Một số thuận lợi, khó khăn khi sử dụng trong thời gian có thẻ không có người ốm chiếm dịch vụ KCB BHYTTN tại huyện Tiên Du 24%; 8% do kinh tế khó khăn, 9,3% do chất lượng 3.4.1 Thuận lợi thuốc, dịch vụ y tế chưa tốt, 13,3% do quyền lợi Người dân bước đầu hiểu được tính chất nhân không đảm bảo ... đạo của BHYT: Khi triển khai dịch vụ khám chữa Đánh giá của người sử dụng đối với dịch vụ bệnh BHYTTN tại huyện Tiên Du cũng có một số KCB BHYTTN: 19,4% cho là thiếu TTB,và tỷ lệ thuận lợi. Theo quan điểm của phía cung cấp dịch không trả lời tới 34,2%. Có 6,1% cho là trình độ vụ bảo hiểm: người dân thích tham gia BHYT vì 24 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2010, Số 15 (15)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | phần lớn họ là những người nghèo nên khi tham gia đến việc hiệu quả điều trị không cao làm cho phần BHYT sẽ đem lại nhiều lợi ích cho bản thân và gia nào mất đi lòng tin của người dân tham gia BHYT. đình. Người dân đã thấy được sự cần thiết của Không chỉ có những khó khăn trên nhiều cán bộ BHYT và cũng nhận thức được tính chất nhân đạo y tế đã phàn nàn về giá trần với bệnh nhân của BHYTTN. Đặc biệt với nhiều người dân bị mắc BHYTTN theo qui định còn quá thấp ảnh hưởng rất các bệnh mạn tính thường xuyên phải sử dụng thuốc nhiều đến việc kê thuốc cho bệnh nhân. "Vì qui nên có bảo hiểm y tế sẽ giúp họ bớt chút khó khăn định không cho đơn quá 12.000 đồng/lượt khám nên về tiền thuốc men và tiền đi lại. Bên cạnh đó các rất khó khăn trong việc điều trị cho bệnh nhân có CBYT tuyến xã đều sẵn sàng tham gia khám chữa thẻ BHYTTN"; "Đã có rất nhiều trường hợp xảy ra bệnh bảo hiểm cho người dân, vì họ là người cùng ở xã tôi, ví dụ như có những trường hợp bệnh nhân làng cùng xã nên cũng dễ dàng giúp người dân tiếp bị viêm phế quản, khi ra khám, cấp thuốc chỉ được cận các dịch vụ y tế. Hơn nữa thực tế cho thấy "hầu độ khoảng chục nghìn 1 lần khám trong 2 - 3 ngày, hết người dân ở đây có bệnh mạn tính nên người ta chưa khỏi bệnh được. TYT xã chỉ có Amoxilin thích tham gia bảo hiểm" (Trưởng TYTX xã 3). Vì 0,25g, thường cuối tháng là hết thuốc " (Trưởng vậy, đây cũng là một trong những thuận lợi cho việc TYT xã 1). triển khai công tác BHYTTN, nhưng đồng thời cũng Khó khăn về mặt tổ chức: Tổ chức triển khai phản ánh một thực tế là thường người dân khi có hoạt động cung cấp dịch vụ KCB BHYT cho người bệnh mới muốn tham gia bảo hiểm chứ không trên dân còn rất cồng kềnh, không chỉ riêng ngành y tế nguyên tắc là chia sẻ rủi ro và mang tính dự phòng. mà còn liên quan đến lao động thương binh xã hội. Sự ủng hộ của nhân dân và các đoàn thể địa Vì vậy khi tiến hành thiếu sự đồng bộ và không phù phương: Khi triển khai BHYT đòi hỏi có sự tham gia hợp khi phân công trách nhiệm, điều này cũng là của nhiều ban ngành đoàn thể địa phương bao gồm một điểm khó khăn cho việc tổ chức thực hiện Lao động thương binh xã hội, y tế và chính quyền BHYTTN. Các trưởng TYT đều phàn nàn rất nhiều địa phương và đặc biệt sự quan tâm của người dân. về tiền bồi dưỡng khám chữa bệnh cho người dân Các cấp chính quyền cũng đã vì quyền lợi của người tham gia BHYT. Họ không được nhận tiền bồi dân để phối kết hợp tuyên truyền cho người dân. dưỡng trong khi vẫn phải làm ở các tuyến cơ sở ban Như một cán bộ xã đã nhận định " UBND xã thành đầu là những điểm được đề cập nhiều nhất. "Về lập Ban chỉ đạo chăm sóc sức khỏe ban đầu. Trong nguyên tắc khám chữa bệnh về bảo hiểm y tế thì chỉ ban chỉ đạo có phân công 1 cán bộ phụ trách về được thanh toán 2.000đ một cái phiếu thế này BHYTTN. Ban chỉ đạo thường xuyên phối hợp với (2000đ/một bệnh nhân) nhưng mà trên lại không đài phát thanh xã tổ chức tuyên truyền, vận động quyết toán cho chúng tôi. Kể cả tiền bút, sổ sách nhân dân tham gia BHYTTN " (CB UBND xã 2). chúng tôi đi phôtô mất tiền mà trên cũng không Tuy nhiên, đây chỉ là quan điểm của phía nhà quản quyết toán cho " (Trưởng TYT xã 3). lý, trên thực tế cách thức cũng như phương pháp Điều kiện đóng bảo hiểm gây khó khăn đối với tuyên truyền còn hạn chế, chưa thật thay đổi được người sử dụng: Nếu như khó khăn thu BHYT năm nhận thức của đa số người dân. 2007 là người tham gia phải mua theo cả hộ gia 3.4.2. Những khó khăn đình thì khó khăn năm 2008 là định mức thu bảo Khó khăn về nguồn lực (nhân lực và vật lực): hiểm quá cao so với thu nhập của người dân. "Năm Trong các xã của huyện Tiên Du tham gia triển khai ngoái, nhìn chung phản ảnh của nhân dân là bán cung cấp dịch vụ BHYT đều có khó khăn về nguồn BHYTTN theo hộ gia đình nên người ta khó mua, lực nói chung. Các xã đều thiếu bác sĩ vì thế hạn chế còn năm nay thì mua mức là 240.000đ. Số tiền này rất nhiều trong việc đáp ứng nhu cầu khám chữa quá sức với nhiều người muốn mua bảo hiểm " bệnh của người dân. Bên cạnh đó, TTB và dụng cụ (Cán bộ UBND xã 1). Đồng thời các điều kiện để y tế cho tuyến cơ sở còn quá nghèo nàn, có xã chỉ được mua là ngặt nghèo, không dễ đáp ứng "Khi có ống nghe và máy đo huyết áp. Ngoài ra, việc báo cáo với BHYT của huyện, người dân muốn mua thiếu thuốc cung cấp cho người dân cả về số lượng BHYT nhưng không thỏa mãn điều kiện là trên 10% và chủng loại, đặc biệt tại TYT xã chỉ được cấp số hộ trong xã trở lên tham gia nên không được thuốc viên mà không cấp thuốc tiêm. Vì vậy, thuốc mua " (Cán bộ UBND xã 2). rất thiếu và không đảm bảo qui trình điều trị dẫn Khó khăn do dịch vụ y tế gây khó dễ cho người Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2010, Số 15 (15) 25
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | dân khi KCB: Có sự khác biệt về chất lượng khám hết ý nghĩa của BHYT" (Lãnh đạo BHYT huyện chữa bệnh giữa người sử dụng thẻ bảo hiểm và Tiên Du). người dân không dùng bảo hiểm và khó khăn sử dụng quyền lợi bảo hiểm khi chuyển viện "KCB 4. Bàn luận dịch vụ nhanh gọn hơn, cụ thể là thủ tục chuyển từ tuyến dưới lên tuyến trên. Có khi không có bảo 4.1. Tình hình sử dụng thẻ BHYTTN của hiểm, mất một ít tiền nhưng mà lại KCB thuận lợi người dân 3 xã của huyện Tiên Du hơn Thủ tục hành chính còn rườm rà cho nên đối Kết quả nghiên cứu trong số 330 người có thẻ với người dân họ tham gia BHYTTN còn hạn chế" BHYTTN trả lời phỏng vấn cho thấy có sự phân bố (Cán bộ UBND xã 3). đều vào các nhóm tuổi từ 18-45, 46-60 và trên 60 tuổi. Về giới của người có thẻ BHYTTN thì nữ 3.5 Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả chiếm tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với nam (74,8% so sử dụng thẻ BHYTTN với 25,2%). Điều này có thể là do nữ là đối tượng Vấn đề ưu tiên được đặt ra để tăng tỷ lệ người dễ bị mắc bệnh hơn nên các gia đình tập trung cho dân sử dụng BHYT là tăng chất lượng dịch vụ đối tượng này tham gia nhiều hơn chăng? Phụ nữ ở khám/chữa bệnh. "Muốn thu hút được người dân hầu hết các lứa tuổi thường có tỉ lệ ốm đau cao hơn, tham gia BHYTTN nhiều hơn, cấp trên cần quan tỷ lệ người có nhu cầu KCB khá cao, vì vậy phụ nữ tâm hơn đối với người có BHYTTN, trong khi người quan tâm đến sức khỏe nhiều hơn. Rõ ràng tình dân đi bệnh viện, cán bộ y bác sĩ nên nhiệt tình hơn trạng sức khỏe của người dân cũng là một yếu tố có và cởi mở hơn" (Cán bộ UBND xã 3). thể ảnh hưởng đến việc tham gia BHYTTN. Điều Tăng cường bác sĩ về trạm y tế cũng là mong này phản ánh khá rõ trong kết quả của nghiên cứu muốn của mọi người: "Trình độ chuyên môn khám này. Khi người trả lời tự đánh giá về tình trạng sức chữa bệnh của cán bộ các TYT còn hạn chế, chúng khỏe của mình, kết quả cũng cho thấy chỉ có 11,8% tôi mong rằng Nhà nước nên bố trí đội ngũ bác sĩ về cho rằng có tình trạng sức khỏe tốt và có tới 33% trả cơ sở nhiều hơn" (Cán bộ UBND xã 2). lời có tình trạng sức khỏe yếu. Theo kết quả nghiên cứu thì thủ tục hành chính Mức thu nhập bình quân đầu người/tháng của khám chữa bệnh BHYTTN là phiền hà, phức tạp vì những người có thẻ BHYTTN nhìn chung thấp hơn vậy cần thiết phải cải tiến sửa đổi cho đơn giản, gọn mức thu nhập bình quân của huyện Tiên Du. Có thể nhẹ hơn, thuận tiện cho người dân khi sử dụng thẻ. ở một khía cạnh nào đó, mức thu nhập cũng sẽ ảnh "Chúng tôi cũng kiến nghị là cần phải sửa đổi thủ hưởng đến việc tham gia BHYTTN của người dân. tục hành chính đối với người tham gia BHYTTN Những người có thu nhập thấp thường có tình trạng cho thật đơn giản, ngắn gọn hơn, để người dân tham sức khỏe kém và dễ bị bệnh tật nên họ tham gia gia bảo hiểm y tế 1 cách tự nguyện" (Cán bộ UBND BHYTTN để phòng rủi ro, còn những người có thu xã 3). nhập cao chỉ tham gia khi có nhu cầu điều này chính Cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng cần được là sự "lựa chọn ngược" từ phía người tham gia. Nếu quan tâm đầu tư nhằm tăng sức thu hút người dân không huy động được những người có kinh tế khá đến khám chữa bệnh tại YTCS. "Cơ sở vật chất của và khỏe mạnh tham gia bảo hiểm sẽ không đảm bảo trạm y tế xã vẫn còn thiếu thốn rất nhiều, thậm chí được sự an toàn cho quỹ và không đạt được mục tiêu là thiếu cả giường bệnh và một số phương tiện khám tốt đẹp của bảo hiểm đó là chia sẻ rủi ro. và điều trị rất hạn chế " (Cán bộ UBND xã 2). Khi được hỏi về lý do tham gia BHYTTN thì có Công tác tuyên truyền được các cán bộ quản lý đến 91,5% cho biết là để phòng khi ốm đau thấp hơn đánh giá là cần phải được tăng cường cả về lượng so với tỷ lệ trong nghiên cứu của Lưu Viết Tĩnh là và về chất. "Cái cơ bản nhất vẫn là công tác tuyên 95,2%. Có 13% tham gia BHYTTN là do có người truyền, làm thế nào để cho mỗi người dân hiểu được trong gia đình thường xuyên ốm đau và chỉ có cách phòng bệnh, trước tiên là tự bảo vệ sức khỏe 11,8% là tham gia chia sẻ rủi ro ốm đau trong cộng của mình, tham gia BHYTTN đề phòng những lúc đồng [11]. Tuy nhiên, tỷ lệ người tham gia nghiên ốm đau; thứ hai, phải mang tính chất cộng đồng thì cứu này đến cơ sở y tế để KCB khi bị ốm có (95,4%) mới được còn nếu mà chỉ vì một mình không thôi, có thập hơn chút ít so với nghiên cứu của Vũ Khắc khi nào ốm đau mới mua, mới tham gia thì nó chưa Lương tại Sóc Sơn - Hà Nội (98%) [11]. 26 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2010, Số 15 (15)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế khi người dân bị Tương tự, có từ trên 80%-90% đồng ý rằng: cảm ốm: chỉ có 17,7% người tham gia BHYTTN đã chọn thấy an toàn khi tham gia BHYT; BHYTTN sẽ hạn KCB tại TYT xã. Kết quả này thấp hơn rất nhiều so chế những rủi ro về kinh tế cho gia đình nếu có với nghiên cứu của Lương Ngọc Khuê (66,0%) [5]. người ốm đau hoặc nằm viện; và sẵn sàng tham gia Điều này có thể lý giải thông qua kết quả nghiên BHYTTN cho dù bản thân và người nhà vẫn khỏe cứu định tính cho thấy điều kiện cơ sở vật chất, mạnh. Tuy vậy, có tới 73,3% cho rằng mua thuốc và trang thiết bị và trình độ của cán bộ y tế BHYTTN là lãng phí vì người ta ít phải đi khám xã chưa đáp ứng được yêu cầu của người tham gia chữa bệnh, và trên 50% số người được hỏi cho rằng bảo hiểm. Cần tìm hiểu sâu hơn nhu cầu của người BHYTTN là một hình thức kinh doanh chỉ có lợi cho dân, đồng thời cải thiện những điểm nêu trên ở trạm nhà nước và người bị bệnh nặng sẽ không được bảo y tế xã thì mới có thể hấp dẫn được người dân đến hiểm chi trả phần lớn chi phí KCB. Mặc dù kết quả với TYT tại địa bàn nghiên cứu. này thấp hơn so với nghiên cứu của Ngô Văn Đôn Về tỷ lệ sử dụng thẻ BHYTTN đi KCB tại cơ sở [5]. Điều này chứng tỏ hiểu biết về lợi ích của bảo hiểm của người dân còn rất lơ mơ và họ cũng không y tế kết quả cho thấy 70% có sử dụng thẻ BHYTTN. hiểu rõ quyền lợi của mình khi tham gia bảo hiểm. Tỷ lệ này gần tương đương với tỷ lệ của Điều tra y Điều này cho thấy hạn chế của công tác tuyên tế quốc gia, người có thẻ BHYT sử dụng thẻ đi KCB truyền và cung cấp thông tin đầy đủ cho người dân. nội trú 74 % [3]. Thấp hơn so với kết quả của Lưu Người dân cũng có thái độ cho rằng điều kiện tham Viết Tĩnh (88,6%) [6]. Kết quả nghiên cứu cũng gia BHYTTN hiện nay là rất khó với trên 60% đồng cho thấy các lý do không sử dụng thẻ BHYTTN để ý với nhận định này do kinh tế hạn hẹp, qui trình KCB khi bị ốm bao gồm: thủ tục hành chính phức phức tạp... Hơn nữa họ cho rằng vẫn còn tình trạng tạp, NVYT không nhiệt tình, chờ đợi lâu, thiếu người có thẻ BHYT được hưởng chất lượng dịch vụ thuốc, TTB kém. Những lý do này cũng tương tự và thuốc không cao, vì vậy vẫn có một số lượng như nghiên cứu của Trần Thu Thủy [9]. không nhỏ có thẻ nhưng không sử dụng khi cần thiết Người có thẻ phải nộp thêm tiền khi KCB là 20%. hoặc không muốn tiếp tục mua thẻ, và không thu Việc nộp thêm tiền ở đây là để mua thêm vật tư như hút được nhiều khách hàng khỏe mạnh và có kinh bơm tiêm, một số thuốc và dụng cụ khám chữa bệnh tế khá để chia sẻ rủi ro đúng như tiêu chí của bảo cho từng trường hợp bệnh cụ thể, nhưng cũng có khá hiểm đặt ra. Kết quả so sánh điểm trung bình về thái nhiều người không trả lời rõ lý do. Đây chính là yếu độ ủng hộ đối với chính sách BHYTTN giữa các tố gây cản trở người dân tham gia BHYTTN. Mặc dù nhóm kinh tế là không có sự khác biệt. Điều này cho vậy, có tới 94,5% sẽ tiếp tục tham gia BHYTTN khi thấy mức sống của địa bàn sinh sống không ảnh thẻ hiện tại hết hạn. Tỷ lệ này là cao hơn so với hưởng đến thái độ của người dân với chính sách của nghiên cứu của Lưu Viết Tĩnh [6] và Điều tra y tế BHYT. Điều này có thể lý giải phần nào bởi nguyên quốc gia [3]. Tuy nhiên, như trên đã phân tích người nhân là do nhóm người tham gia bảo hiểm chủ yếu tham gia BHYTTT ở nghiên cứu này có tỷ lệ nữ cao, có mức sống không phải là khá giả ở cả 3 xã. tỷ lệ khỏe mạnh khá thấp và kinh tế có nhiều khó Muốn thu hút được người dân tham gia khăn vì vậy việc mở rộng thêm các nhóm người khác BHYTTN nhiều hơn ở huyện Tiên Du nói riêng và tham gia bảo hiểm là rất quan trọng bên cạnh việc các địa phương khác nói chung cần quan tâm và tiếp tục duy trì những người đã tham gia. thực hiện tốt một số việc sau: 4.2. Thái độ của người có thẻ với BHYTTN - Cải thiện, sửa đổi các thủ tục hành chính trong việc đăng ký tham gia bảo hiểm, thủ tục thanh Để đánh giá thái độ đối với BHYTTN, trong quyết toán BHYT; nghiên cứu này chúng tôi đưa ra 15 câu hỏi thể hiện các quan điểm khác nhau về BHYTTN, người đang - Tăng cường đội ngũ bác sĩ tuyến trên về tuyến có thẻ BHYTTN bày tỏ thái độ của họ từ rất không cơ sở và nâng cao năng lực chuyên môn của của cán đồng ý đến rất đồng ý. Đa số (85,8%) có thái độ ủng bộ y tế tại tuyến cơ sở. hộ tích cực và đồng ý rằng chính sách BHYTTN là - Đảm bảo trang thiết bị y tế thông thường và một chính sách nhân đạo. Việc nhận thức được thuốc tại các TYT để thu hút người có thẻ đến KCB, BHYTTN là một chính sách nhân đạo sẽ góp phần nhằm mục đích giảm tải bệnh nhân ở tuyến trên và làm cho người dân tham gia nhiều hơn và lâu dài. rút ngắn thời gian chờ đợi. Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2010, Số 15 (15) 27
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | - Nâng cao nhận thức của người dân về BHYT: trong tuyên truyền đến người dân; Đa dạng hóa hình Điều này đòi hỏi các cơ quan ban hành chính sách, thức tuyên truyền phù hợp để đảm bảo người dân cũng như địa phương và cơ sở cần phối hợp hiệu quả hiểu rõ lợi ích của việc tham gia BHYT. Tài liệu tham khảo hộ gia đình tại xã Hưng Thịnh huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái. Luận văn thạc sĩ y tế công cộng, Đại học Y tế Công cộng. 7. Ngô Văn Đôn (2006). Nhận thức, mua và sử dụng thẻ 1. Bảo hiểm xã hội huyện Tiên Du (2006). Báo cáo tình hình BHYTTN và một số yếu tố liên quan của người dân tại xã thực hiện công tác bảo hiểm xã hội năm 2006 và phương Lạc Vệ, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh năm 2006. Luận văn hướng nhiệm vụ năm 2007. thạc sĩ y tế công cộng, Đại học Y tế Công cộng. 2. Bảo hiểm xã hội huyện Tiên Du (2007). Báo cáo tổng kết 8. Nguyễn Minh Thảo (2004). Nghiên cứu nhu cầu tham gia công tác bảo hiểm xã hội năm 2007 và phương hướng nhiệm bảo hiểm y tế của người dân quận Tây Hồ chưa có bảo hiểm vụ năm 2008. y tế và một số yếu tố liên quan. Luận văn thạc sĩ y tế công 3. Bộ Y tế & Tổng cục thống kê (2003). Báo cáo kết quả điều cộng, Đại học y tế Công cộng. tra Y tế quốc gia 2001 - 2002, Nhà xuất bản Y học năm 2003. 9. TrầnThu Thủy (1996). Tình hình khám chữa bệnh cho 4. Chính phủ (2005). Ban hành điều lệ Bảo hiểm y tế, Nghị người nghèo và những giải pháp khám chữa bệnh cho người định số 63/2005/NĐ-CP, ngày 16 tháng 5 năm 2005. nghèo, Nhà xuất bản Y học năm 1996. 5. Lương Ngọc Khuê (2004). Nghiên cứu thực trạng và góp 10. Trần Văn Tiến (2002). Lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế phần hoàn thiện mô hình khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại toàn dân, Bộ Y tế - Ban khoa giáo trung ương. Nhà xuất bản trạm y tế xã Phù Linh và Đức Hòa. Luận án Tiến sĩ y học, Bộ Văn hóa Thông tin, tháng 9 năm 2000. Trường đại học Y Hà Nội. 11. Vũ Khắc Lương (2005). Khảo sát mô hình Bảo hiểm y 6. Lưu Viết Tĩnh (2005). Mô tả thực trạng và một số yếu tố tế nông dân tại huyện Sóc Sơn. Luận văn Tiến sĩ y học, Đại liên quan đến việc mua và sử dụng thẻ bảo hiểm y tế theo học Y Hà Nội. 28 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2010, Số 15 (15)