Thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ và một số yếu tố liên quan tại khoa ngoại, sản bệnh viện đa khoa Sa Đéc năm 2012

Thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ và một số yếu tố liên quan tại khoa ngoại, sản bệnh viện đa khoa Sa Đéc năm 2012

Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là một trong những mối quan ngại lớn của thầy thuốc ngoại khoa và gần như gắn liền với những cơ sở có tiến hành phẫu thuật trên người bệnh dù là phẫu thuật đơn giản nhất cho đến phức tạp. Bằng phương pháp nghiên cứu cắt ngang có phân tích được thực hiện từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2012 trên 460 bệnh nhân được phẫu thuật tại Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) Sa Đéc với mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân khoa ngoại, sản Bệnh viện Đa khoa Sa Đéc năm 2012; (2), Mô tả triệu chứng lâm sàng và vi sinh của nhiễm khuẩn vết mổ trên bệnh nhân và (3) Xác định một số yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân tại Bệnh viện Đa khoa Sa Đéc. Kết quả cho thấy tỷ lệ NKVM là 6,3%, nhiễm khuẩn vết mổ ở khoa ngoại là 11,4%; khoa sản là 2,7%. Đa số bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng NKVM với sưng, nóng, đỏ đau.

Có 45,4% vi khuẩn gây NKVM là tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), còn lại là trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas aeruginosa) và Enterococcus. Phương pháp mổ, thời gian mổ, tiền sử dụng corticoid, tổng trạng bệnh nhân và tình trạng dẫn lưu… có liên quan đến NKVM

pdf 7 trang Bích Huyền 01/04/2025 300
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ và một số yếu tố liên quan tại khoa ngoại, sản bệnh viện đa khoa Sa Đéc năm 2012", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_nhiem_khuan_vet_mo_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_tai.pdf

Nội dung text: Thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ và một số yếu tố liên quan tại khoa ngoại, sản bệnh viện đa khoa Sa Đéc năm 2012

  1. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ và một số yếu tố liên quan tại khoa ngoại, sản bệnh viện đa khoa Sa Đéc năm 2012 Bùi Thị Tú Quyên (*), Trương Văn Dũng (**) Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là một trong những mối quan ngại lớn của thầy thuốc ngoại khoa và gần như gắn liền với những cơ sở có tiến hành phẫu thuật trên người bệnh dù là phẫu thuật đơn giản nhất cho đến phức tạp. Bằng phương pháp nghiên cứu cắt ngang có phân tích được thực hiện từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2012 trên 460 bệnh nhân được phẫu thuật tại Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) Sa Đéc với mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân khoa ngoại, sản Bệnh viện Đa khoa Sa Đéc năm 2012; (2), Mô tả triệu chứng lâm sàng và vi sinh của nhiễm khuẩn vết mổ trên bệnh nhân và (3) Xác định một số yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân tại Bệnh viện Đa khoa Sa Đéc. Kết quả cho thấy tỷ lệ NKVM là 6,3%, nhiễm khuẩn vết mổ ở khoa ngoại là 11,4%; khoa sản là 2,7%. Đa số bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng NKVM với sưng, nóng, đỏ đau. Có 45,4% vi khuẩn gây NKVM là tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), còn lại là trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas aeruginosa) và Enterococcus. Phương pháp mổ, thời gian mổ, tiền sử dụng corticoid, tổng trạng bệnh nhân và tình trạng dẫn lưu có liên quan đến NKVM. Từ khóa: Nhiễm khuẩn vết mổ, yếu tố liên quan, khoa ngoại, sản, Đồng Tháp. Postoperative surgical - site infection and some related factors in departments of surgery and obstetrics, Sa Dec general hospital in 2012 Bui Thi Tu Quyen (*); Truong Van Dung (*) Postoperative surgical-site infection (PSSI) is one of the major concerns of the surgeons and found almost associated with surgery on the patient, regardless it is either a simple or complex surgery. From April to September 2012, a cross-sectional study was conducted on 460 patients who had been operated in Sa Dec general hospital with the following objectives: (1) To determine the incidence rate of PSSI in Sa Dec hospital; (2) To describe the clinical and microbiological symptoms of PSSI; and (3) To identify some factors related to PSSI. The results show that the general incidence rate of PSSI was 6.3%, specifically 11.4% in department of surgery and 2.7% in department of obstetrics. Most of patients had clinical symptoms of swollen, hot, reddish and pain. About 45.4% of PSSI 54 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
  2. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | patients got Staphylococcus aureus while 27% got Pseudomonas aeruginosa and Enterococcus. There are some factors related to PSSI such as: surgical methods, duration of surgery, history of steroid use, drainage and physical status of patients. Key words: Postoperative surgical-site infection, related factors, department of surgery, department of obstetrics, Dong Thap. Tác giả: (*) Ths.BS. Bùi Thị Tú Quyên - Giảng viên Bộ môn Dịch tễ - Thống kê Trường Đại học Y tế Công cộng. Địa chỉ: 138 Giảng Võ - Ba Đình - Hà Nội. Email: btq@hsph.edu.vn. (**) BS. Trương Văn Dũng - Cán bộ khoa Ngoại Bệnh viện Sa Đéc - Đồng Tháp. Địa chỉ: 153 khóm Hòa Khánh - Nguyễn Sinh Sắc - P2 thị xã Sa Đéc - Đồng Tháp. Email: dungtruong9@gmail.com 1. Đặt vấn đề tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân khoa Ngoại, Hiện nay NKVM cũng là một vấn đề được quan Sản BVĐK Sa Đéc năm 2012; (2) Mô tả triệu tâm ở nhiều bệnh viện vì nó ảnh hưởng đến chất chứng lâm sàng và vi sinh của nhiễm khuẩn vết lượng, hiệu quả điều trị của bệnh viện cũng như mổ trên bệnh nhân và (3) Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ, chi phí của bệnh nhân và liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân tại người nhà bệnh nhân. NKVM cũng là một trong Bệnh viện Đa khoa Sa Đéc. Chúng tôi mong muốn những vấn đề chính của nhiễm khuẩn bệnh viện, chỉ cung cấp được những thông tin cần thiết liên quan đứng hàng thứ hai sau viêm phổi. đến NKVM tại bệnh viện, giúp bệnh viện có cơ sở để triển khai, lập kế hoạch và phổ biến kịp thời Bệnh viện Đa khoa Sa Đéc là bệnh viện hạng những dữ kiện này đến những người cần được biết, II, khoa Phẫu thuật của bệnh viện có 04 phòng mổ, từ đó góp phần cải thiện tình hình nhiễm khuẩn trung bình mỗi năm thực hiện khoảng 4000 ca mổ bệnh viện. thuộc các chuyên khoa Ngoại, Sản, Mắt, Tai mũi họng. Hầu hết các dạng bệnh được phẫu thuật tại 2. Phương pháp nghiên cứu bệnh viện đều đảm bảo yêu cầu được phục vụ của nhân dân địa phương. Vấn đề phòng chống nhiễm Nghiên cứu được thực hiện tại BVĐK Sa Đéc khuẩn bệnh viện cũng là một trong những vấn đề với thiết kế nghiên cứu cắt ngang có phân tích. Đối được quan tâm, hàng năm công tác giám sát, kiểm tượng nghiên cứu là các bệnh nhân được phẫu thuật tra thực hiện các biện pháp nhằm kiểm soát nhiễm kế hoạch và cấp cứu trong lĩnh vực Ngoại, Sản tại khuẩn bệnh viện đều được thực hiện nghiêm túc. BVĐK Sa Đéc trong khoảng thời gian từ 04/2012- Tuy nhiên tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện nói 09/2012. chung và NKVM nói riêng vẫn xảy ra. Hiện vẫn Cỡ mẫu được tính toán theo công thức cho chưa có báo cáo chính xác nào về tình hình NKVM nghiên cứu cắt ngang với số bệnh nhân dự kiến là sau phẫu thuật tại bệnh viện vì vậy chúng tôi tiến 456. Với phương pháp chọn mẫu liên tiếp với các hành nghiên cứu này với các mục tiêu: (1) Xác định ca phẫu thuật thuộc lĩnh vực Ngoại, Sản trong Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 55
  3. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | khoảng thời gian nghiên cứu nhóm đã thu thập được nữ là 73,3%, nhóm tuổi 15-45 chiếm tỷ lệ 79,8%, số liệu từ 460 bệnh nhân. trên 45 tuổi là 14,6%. Tỷ lệ bệnh nhân khoa Ngoại Nghiên cứu viên là 03 bác sỹ thuộc khoa Ngoại, là 44,1% còn lại là khoa Sản (55,9%). khoa Sản và khoa Phẫu thuật gây mê hồi sức, các nghiên cứu viên đã sử dụng phiếu phỏng vấn có cấu Bảng 3.1. Phân bố đặc điểm cuộc mổ theo khoa bệnh trúc để phỏng vấn các bệnh nhân được chọn, ngoài ra thông tin về bệnh sử, cuộc mổ cũng được thu thập từ hồ sơ bệnh án kết hợp với khám lâm sàng. Những bệnh nhân có NKVM đã được lấy bệnh phẩm (dịch tiết, mủ) để gửi đi nuôi cấy phân lập để xác định vi khuẩn gây NKVM theo thường quy của WHO. Bệnh nhân cũng được theo dõi và ghi nhận thông tin cho đến khi xuất viện. Số liệu thu thập được nhập làm sạch và nhập bằng chương trình Epidata sau đó được phân tích bằng phần mềm SPSS phiên bản 16.0. Các phân tích mô tả đã được sử dụng để xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn, triệu chứng của NKVM. Kiểm định khi bình phương được dùng để phân tích một số yếu tố liên quan đến NKVM. Nghiên cứu được triển khai có sự đồng ý của hội Ở khoa Ngoại tỷ lệ mổ cấp cứu là 58,2%, mổ đồng khoa học bệnh viện, đối với những bệnh nhân phiên là 41,8%, thời gian chờ mổ thường <1 ngày, phát hiện NKVM, nhóm nghiên cứu cùng phối hợp mổ mở là 56,9%, mổ nội soi là 40,5%, đa số các tìm nguyên nhân, khi phân lập có vi khuẩn thì cùng bệnh nhân mổ 1 lần (98,4%). Với khoa Sản đa số bác sỹ mổ cho làm kháng sinh đồ, trực tiếp chăm bệnh nhân là mổ cấp cứu (91,8%), thời gian chờ mổ sóc và theo dõi vết mổ cho đến lúc bệnh nhân xuất thường >3 ngày, phần lớn bệnh nhân mổ mở viện. Nhóm cũng đã báo cáo hội đồng kiểm soát (91,7%), thường các bệnh nhân được mổ 01 lần nhiễm khuẩn để cùng tìm nguyên nhân và khắc 91,3%. Có 43,5% bệnh nhân mổ ở khoa Ngoại là do phục khi thấy có những yếu tố được nghĩ là nguy cơ viêm ruột thừa, đa số các bệnh nhân mổ ở khoa Sản gây NKVM. là mổ đẻ (87,2%). 3. Kết quả nghiên cứu 3.2. Thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ Qua thu thập thông tin từ 460 bệnh nhân mổ và điều trị tại hai khoa Ngoại, Sản bệnh viện Sa Đéc chúng tôi thu được một số kết quả sau. 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Tỷ lệ nam giới trong mẫu nghiên cứu là 26,7%, Biểu đồ 3.2. Phân bố tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ Tỷ lệ NKVM chung là 6,3% (29/460 bệnh Biểu đồ 3.1. Một số đặc điểm chung của đối tượng nhân); tỷ lệ NKVM trong các bệnh nhân khoa nghiên cứu Ngoại là 11,4%, khoa Sản là 2,7% . 56 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
  4. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 3.3. Đặc điểm lâm sàng và vi sinh của Bảng 3.3. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn nhiễm khuẩn vết mổ vết mổ Bảng 3.2. Đặc điểm lâm sàng và vi sinh của nhiễm khuẩn vết mổ Trong 29 ca NKVM triệu chứng lâm sàng NKVM được ghi nhận với 4 dấu hiệu sưng, nóng, đỏ, đau chiếm tỷ lệ là 48,3%, còn lại là các bệnh nhân có các triệu chứng đơn lẻ của NKVM. Có 75,9% bệnh nhân NKVM là nhiễm khuẩn nông, 24,1% là nhiễm khuẩn sâu và không có ca nào nhiễm khuẫn khoang phẫu thuật. Tỷ lệ mẫu bệnh * Fisher exact test phẩm có căn nguyên gây bệnh là 39% còn lại là không có căn nguyên gây bệnh. Trong tổng số 11 mẫu có căn nguyên gây bệnh thì có 5 mẫu (45,4%) lệ NKVM (76,9%) cao hơn nhóm sạch và sạch là do tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), 3 mẫu nhiễm (p<0,005). (27,3%) là do trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas Có mối liên quan giữa hình thức mổ với NKVM aeruginosa) và 3 mẫu còn lại là do Enterococcus. (p<0,01). Những bệnh nhân mổ cấp cứu có nguy cơ bị NKVM cao gấp 9 lần những bệnh nhân mổ phiên. 3.4. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm Bệnh nhân có thời gian mổ dài (trên 60 phút) có khuẩn vết mổ nguy cơ bị NKVM cao gấp 3 lần những bệnh nhân thời gian mổ dưới 60 phút (p<0,01). Những bệnh Có mối liên quan giữa sử dụng corticoid trước nhân sau mổ có đặt dẫn lưu cũng có nguy cơ bị mổ với NKVM (p<0,001). Những bệnh nhân có sử NKVM cao gấp 9,6 lần những bệnh nhân không đặt dụng corticoid có nguy cơ bị NKVM cao gấp 10,6 dẫn lưu (p<0,001). Chưa thấy có mối liên quan giữa lần những bệnh nhân không sử dụng corticoid. Bệnh số lần mổ với nhiễm khuẩn vết mổ (p>0,05). nhân có tổng trạng thuộc nhóm ASA II-III cũng có nguy cơ bị NKVM cao gấp 9,6 lần những bệnh nhân 4. Bàn luận có tổng trạng ASA I (p<0,001). Trong khoảng thời gian nghiên cứu từ tháng 4 Tình trạng choáng mất máu và choáng nhiễm đến 9 năm 2012 với 460 bệnh nhân được phẫu thuật khuẩn cũng liên quan đến NKVM (p<0,001) Bệnh ngoại, sản thì tỷ lệ NKVM ở BVĐK Sa Đéc là 6,3%. nhân choáng mất máu có nguy cơ bị NKVM cao hơn Tỷ lệ này cao hơn so với NC của Phạm Thúy Trinh 11 lần những BN không choáng mất máu. Ngoài ra và cộng sự [4] ở khoa Ngoại tổng hợp BV Đại học bệnh nhân thuộc nhóm phẫu thuật nhiễm bẩn có tỷ Y Dược TPHCM trên 270 bệnh nhân chỉ là 3%, nếu Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 57
  5. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | so sánh với tỷ lệ NKVM ở khoa Ngoại BVĐK Sa là Cefalosporin thế hệ 3, Imidazol, kết quả kháng Đéc thì tỷ lệ này còn cao hơn nữa (11%). Có sự sinh đồ vi khuẩn phân lập được đều còn nhạy cảm khác biệt này có thể do nghiên cứu của Phạm Thúy với các loại kháng sinh thuộc nhóm trên nên kết quả Trinh chỉ thực hiện trên các bệnh nhân mổ sạch và điều trị cũng tốt. sạch nhiễm trong khi nghiên cứu của chúng tôi có Mức độ NKVM tại 02 khoa Ngoại và Sản cả các bệnh nhân mổ nhiễm bẩn và tỷ lệ NKVM BVĐK Sa Đéc ghi nhận chủ yếu là NKVM nông trong nhóm này là rất cao (77%). Ngược lại thì tỷ lệ được xử trí bằng cách chăm sóc vết thương, sử dụng NKVM trong nghiên cứu ở BVĐK Sa Đéc năm kháng sinh hợp lý. Có 07 trường hợp NKVM sâu 2012 lại thấp hơn nhiều so với nghiên cứu ở Bệnh đến lớp cân, cơ, bệnh nhân được chăm sóc vết viện Chợ Rẫy TPHCM [2] của Hoàng Hoa Hải và thương, dinh dưỡng, kháng sinh đến khi mọc mô hạt cộng sự, tỷ lệ NKVM chung lên tới 14,3%. Nguyên và vết mổ sạch thì được xử trí bằng cách khâu lại nhân có thể do Bệnh viện Chợ Rẫy là bệnh viện vết mổ và tiếp tục điều trị. Không ghi nhận trường tuyến Trung ương nên bệnh nhân thường là những hợp nào NKVM khoan phẫu thuật phải mổ lại. Với trường hợp nặng, phức tạp ngoài ra mật độ bệnh các nghiên cứu của các tác giả trong nước [4, 5, 6] nhân cũng lớn dẫn tới nguy cơ NKVM cũng cao thì tỷ lệ này cũng gần tương ứng do điều kiện bệnh hơn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cao viện hạng II và đây cũng là một thành công trong hơn các số liệu của CDC về tình hình NKVM trên xử trí vết mổ tại bệnh viện vì không có trường hợp thế giới với tỷ lệ khoảng 5%, hay nghiên cứu tại nào phải mổ lại dù trong đó có những bệnh nhân sốc Brazil là 3,3% vào năm 2003 [7]. Tỷ lệ NKVM tại nhiễm khuẩn nặng. bệnh viện Sa Đéc còn cao do bệnh viện chưa sử Triệu chứng lâm sàng các vết mổ nhiễm khuẩn dụng kháng sinh dự phòng mà chủ yếu sử dụng thường ghi nhận dấu hiệu chính là đỏ nơi vết mổ, kháng sinh phổ rộng và phối hợp trong khi hiệu sau đó sẽ hết khi được chăm sóc và điều trị với quả của việc dùng kháng sinh dự phòng đã được kháng sinh, những trường hợp không đáp ứng với một số tác giả chứng minh [8]. Ngoài ra nguyên điều trị thì vết mổ sẽ bung ra và phải xử trí thoát nhân tỷ lệ NKVM còn cao là do khoa Phẫu thuật dịch, khâu thứ cấp vết thương, những trường hợp gây mê hồi sức của bệnh viện còn chưa đủ tiêu này thì thời gian sử dụng kháng sinh và nằm viện chuẩn về vô khuẩn. của bệnh nhân sẽ kéo dài hơn. Vấn đề đánh giá Tỷ lệ NKVM được ghi nhận tại các khoa Ngoại triệu chứng lâm sàng cũng còn mang tính chủ quan là 11,4%; khoa Sản là 2,7% với số mẫu bệnh phẩm do khai của người bệnh, nhất là triệu chứng đau vết được cấy khuẩn là 29 trong đó có 18 mẫu không có mổ và chỉ có những trường hợp khi có đủ 04 dấu căn nguyên gây bệnh và 11 mẫu có căn nguyên gây hiệu của NKVM (sưng, nóng, đỏ, đau) thì mới là bệnh. Khoa Ngoại thường ghi nhận NKVM ở các triệu chứng điển hình, trong đó cũng có một ít bệnh nhân mổ ở nhóm nhiễm bẩn mà chủ yếu là trường hợp rịn dịch, mủ từ vết mổ, và những trường viêm ruột thừa có biến chứng, bệnh nhân sản hợp NKVM sâu thì có xuất hiện vết thương bị hở. thường gặp là mổ bắt con và tỷ lệ NKVM cũng Nghiên cứu cho thấy một số yếu tố liên quan thấp hơn. đến NKVM (bảng 3.3) những bệnh nhân sử dụng Với những mẫu phân lập được ghi nhận chỉ có corticoid trước mổ thì nguy cơ NKVM cao hơn, điều 01 loài vi khuẩn gây bệnh và chiếm tỷ lệ cao nhất này cũng phù hợp vì sức đề kháng của bệnh nhân là tụ cầu vàng 45,4%; tiếp đến là trực khuẩn mủ đã giảm, huyết áp và đường huyết thường cao, lớp xanh 27,3% và Enterococcus 27,3%, các loài này mỡ dưới da thường dầy hơn dễ tạo môi trường sinh chỉ gây nhiễm khuẩn bề mặt da là chính; chỉ có 07 sản cho vi khuẩn. trường hợp sâu ở lớp cân cơ, so với nghiên cứu tại Đối với những bệnh nhân nhóm ASA II-III, tỷ các bệnh viện trong nước của Bộ Y tế về căn lệ NKVM cũng cao hơn nhóm ASA I, điều này cũng nguyên gây NKVM tại các bệnh viện miền Bắc thì phù hợp với cảnh báo của Hiệp hội Gây mê Thế có sự khác biệt (Escheria coli 20,5%, Pseudomonas giới. Đối với những trường hợp choáng cũng liên aeruginosa 20,5% và Staphylococcus aureus 18%), quan đến NKVM đối với những trường hợp choáng so với bệnh viện Nam Định tỷ lệ tụ cầu là 55,9%, nhiễm khuẩn, tỷ lệ này rất cao đến 91%, vì vậy vấn trực khuẩn mủ xanh là 41,2% [5]. Các kháng sinh đề giải quyết kịp thời các bệnh lý ngoại khoa và sử được sử dụng để điều trị tại BVĐK Sa Đéc phổ biến dụng kháng sinh phù hợp trước, trong và sau mổ 58 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
  6. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | cũng cần được quan tâm đúng mức. Nghiên cứu bệnh phẩm khi phân lập thì không tìm được vi cũng ghi nhận đối với các vết mổ sạch thì tỷ lệ khuẩn gây NKVM đây cũng là một yếu tố khó khăn NKVM thấp hơn các nhóm sạch nhiễm, nhiễm và trong nghiên cứu cũng như trong điều trị. Nhóm nhiễm bẩn, trong nhóm nhiễm bẩn thì tỷ lệ NKVM cũng chưa có căn cứ để kết luận NKVM về căn cao đối với các trường hợp viêm ruột thừa có biến nguyên gây bệnh có liên quan giữa vết mổ và môi chứng như viêm phúc mạc do ruột thừa vỡ, abces trường hay không vì thường cấy khuẩn khi có ruột thừa, điều này cũng phù hợp với nghiên cứu tại NKVM chứ chưa cấy khuẩn thường xuyên các dịch, bệnh viện Nhi Đồng II Hồ Chí Minh [3] về tỷ lệ mủ trong vết mổ. NKVM trên bệnh nhân viêm ruột thừa và cảnh báo Trong nghiên cứu này, chúng tôi chưa đề cập không để viêm ruột thừa trở thành biến chứng thì tỷ được mối liên quan giữa NKVM giữa 02 nhóm có lệ NKVM sẽ tăng cao. sử dụng kháng sinh dự phòng và không sử dụng Những trường hợp NKVM chủ yếu là các trường kháng sinh dự phòng do hầu hết các bệnh nhân hợp mổ cấp cứu, vì vậy vấn đề chuẩn bị bệnh nhân trong nghiên cứu không dùng kháng sinh dự phòng trước mổ về vùng mổ, kháng sinh dự phòng cũng là trước mổ. Mặc dù số bệnh nhân tham gia nghiên cứu một vấn đề đáng được quan tâm. Về phương pháp không quá ít (460 bệnh nhân) tuy nhiên NKVM mổ, chúng tôi nhận thấy có mối liên quan giữa mổ không phải là quá phổ biến nên chúng tôi cũng chưa mở, mổ nội soi và nội soi chuyển mở, tỷ lệ NKVM thực hiện được một số phân tích sâu về các yếu tố trong nhóm nội soi là thấp nhất tiếp theo là mổ mở, liên quan hoặc các phân tích về sự tương tác hay nhóm ghi nhận mổ nội soi sau đó chuyển mổ mở thì yếu tố nhiễu đối với NKVM. tỷ lệ NKVM rất cao. Điều này cũng phù hợp, vì đối Chúng tôi đề nghị Ban Giám đốc bệnh viện cần với những ca này thì thường khi mổ nội soi, tổn có kế hoạch nâng cấp khoa phẫu thuật gây mê hồi thương thường không giải quyết được do mức độ tổn sức theo tiêu chuẩn vô khuẩn: thiết kế theo một thương và khi chuyển mổ mở thì thời gian mổ chiều, thông khí trong các buồng mổ, hệ thống điều thường kéo dài, thời gian mổ cũng là yếu tố của hòa. Ngoài ra cần trang bị hệ thống tiệt trùng dụng NKVM, trong nghiên cứu chúng tôi nhận thấy với cụ nội soi theo tiêu chuẩn vì hiện tại chỉ tiệt khuẩn những ca mổ thời gian <30 phút thì không ghi nhận với dung dịch tiệt khuẩn là chính. Cần có kế hoạch NKVM, điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên nhằm giảm tải tại khoa Sản, khoa Ngoại bằng cách cứu của các tác giả trong nước [1,5,6]. Vì vậy vấn mở rộng xây dựng các buồng bệnh, thực hiện đề án đề tay nghề, trình độ của bác sỹ phẫu thuật cũng là 1816 đối với tuyến trước trong đó có thể chuyển các một yếu tố mà bệnh viện cũng cần chú ý, thời gian bệnh nhân đã mổ về các bệnh viện tuyến trước tiếp quy định để giải quyết các ca mổ tùy thuộc vào trình tục chăm sóc vết mổ, điều dưỡng. độ bác sỹ phẫu thuật nên vấn đề kết hợp trong kíp Hội đồng chống nhiễm khuẩn bệnh viện thực phẫu thuật cũng cần được quan tâm. Nhóm cũng ghi hiện công tác cấy khuẩn tại các buồng hậu phẫu nhận có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giống như buồng mổ, cấy khuẩn tay nhân viên y tế NKVM và cách xử trí vết mổ, đối với những vết mổ và dụng cụ sau tiệt khuẩn. có dẫn lưu hay để hở da thì tỷ lệ NKVM cao hơn. Thường những vết mổ nhiễm và nhiễm bẩn mới có Triển khai sử dụng kháng sinh dự phòng khi dẫn lưu và NKVM được ghi nhận thường xuất hiện điều kiện cho phép: xây khu vực phòng mổ mới ở chân ống dẫn lưu và thường thấy có màu đỏ ở chân theo đúng tiêu chuẩn vô khuẩn ngoại khoa. ống. Vấn đề cũng đặt ra cho các thầy thuốc lâm Người nhà bệnh nhân và bệnh nhân: Sử dụng sàng là chỉ định phẫu thuật cần đúng lúc và kịp thời thuốc theo đúng y lệnh bác sỹ không tự ý dùng nhằm giảm tỷ lệ mổ muộn có thể đưa đến NKVM. thuốc. Khám và điều trị ở các cơ sở y tế có uy tín về Vấn đề cấy khuẩn và kháng sinh đồ cũng là một chuyên môn, nhập viện sớm để điều trị khi có các vấn đề quan tâm của nhóm nghiên cứu vì kết quả dấu hiệu của bệnh ngoại khoa, sản khoa để phòng có được sau 48 giờ mà triệu chứng lâm sàng của biến chứng. bệnh nhân cần phải xử trí ngay nên vấn đề sử dụng Với các nhà nghiên cứu: Tiếp tục thu thập thông kháng sinh phù hợp cũng chưa thực hiện tốt. Kháng tin về bệnh nhân phẫu thuật toàn viện để có bức sinh phải sử dụng thường là phổ rộng và hiệu quả tranh tổng thể về NKVMå tại bệnh viện Sa Đéc. kinh tế chưa cao vì thường là đắt tiền, một số mẫu Phân tích sâu dưới các khía cạnh về tương tác, tác Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 59
  7. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | động, nhiễu để có cái nhìn thực chất về NKVM từ khoa Ngoại, Sản BVĐK Sa Đéc đã cung cấp thông đó có các giải pháp can thiệp cụ thể, hiệu quả hơn. tin cho nghiên cứu này. Ban Giám đốc bệnh viện cùng các cán bộ y tế khoa Ngoại, Sản và Phẫu thuật Lời cảm ơn gây mê hồi sức bệnh viện đã giúp đỡ trong quá trình Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bệnh nhân triển khai nghiên cứu. Tài liệu tham khảo phố Hồ Chí Minh. Y Hoc TP. Ho Chi Minh 2010. Vol.14 (Supplement of No 1): p. 124 - 128. 5. Tống Vĩnh Phú và cs, Đánh giá thực trạng và căn nguyên Tiếng Việt gây nhiễm khuẩn vết mổ tại khoa Ngoại bệnh viện đa khoa 1. Đặng Hồng Thanh và cộng sự, Xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn tỉnh Nam Định - Báo cáo hội nghị khoa học,. vết mổ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình năm 2011. Bệnh viện đa khoa Ninh Bình, 2012. 6. Vũ Bảo Châu, Cao Minh Nga, Tìm hiểu căn nguyên vi khuẩn gây nhiễm khuẩn vết mổ và sự đề kháng kháng sinh tại 2. Hoàng Hoa Hải, Lê Thị Anh Thư, Nguyễn Ngọc Bích và bệnh viện 175. Y Hoc TP. Ho Chi Minh, 2009. 13(1): p. 4. cs, Nhiễm khuẩn vết mổ và vấn đề sử dụng kháng sinh. Y Hoc TP. Ho Chi Minh, 2001. 5(2): p. 41-46. Tiếng Anh 3. Nguyễn Thị Lan Anh, Xác định các yếu tố liên quan đến nhiễm trùng vết mổ ở bệnh viện Nhi Đồng 2 TP Hồ Chí 7. Aldo Cunha Medeiros, et al. (2005) Surgical Site Minh. Báo cáo hội nghị khoa học, 2009. Infection in a University Hospital in Northeast Brazil. BJID, 2005. 9(August). 4. Phạm Thúy Trinh, Lê Thị Anh Đào, and Nguyễn Thị Thanh Trúc và cs, Nghiên cứu tình trạng nhiễm khuẩn vết 8. Nandi, P et al. (1999), Surgical wound infection. Hong mổ tại khoa ngoại tổng hợp bệnh viện Đại học Y dược Thành Kong Medical Journal, 1999. 5(1): p. 82-86. 60 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)