Thực trạng bao phủ bảo hiểm y tế và một số yếu tố liên quan ở người lao động phi chính thức Quận Long Biên, Hà Nội
Thực trạng bao phủ bảo hiểm y tế và một số yếu tố liên quan ở người lao động phi chính thức Quận Long Biên, Hà Nội
Nghiên cứu cắt ngang có phân tích được thực hiện tại Quận Long Biên, Hà Nội năm 2015 với mục tiêu: Mô tả thực trạng tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) của người lao động khu vực phi chính thức, Quận Long Biên, Hà Nội và xác định một số yếu tố liên quan đến tham gia BHYT. Với phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn, đã có 377 người lao động (NLĐ) phi chính thức tham gia nghiên cứu. Điều tra viên đã phỏng vấn trực tiếp NLĐ sử dụng mẫu phiếu phỏng vấn có cấu trúc. Số liệu được phân tích với STATA 12.0, các kỹ thuật thống kê mô tả, hồi qui logistics đơn biến và đa biến đã được sử dụng. Kết quả cho thấy tỷ lệ NLĐ phi chính thức có BHYT là 21,2%; tỷ lệ NLĐ có dự định mua BHYT là 77,7%; có 70,3% chủ hộ gia đình (HGĐ) sẵn lòng mua BHYT cho các thành viên trong HGĐ. Có mối liên quan giữa trình độ học vấn (TĐHV), kinh tế, tình trạng sức khoẻ với việc có BHYT. Nghiên cứu đưa ra khuyến nghị cần tăng cường truyền thông, cung cấp thông tin về lợi ích của BHYT, BHYT theo HGĐ đến NLĐ, tập trung vào nhóm có thu nhập thấp, TĐHV thấp.
Nên có những nghiên cứu với qui mô lớn hơn nhằm đưa ra giải pháp tăng sự bao phủ BHYT với NLĐ phi chính thức
File đính kèm:
thuc_trang_bao_phu_bao_hiem_y_te_va_mot_so_yeu_to_lien_quan.pdf
Nội dung text: Thực trạng bao phủ bảo hiểm y tế và một số yếu tố liên quan ở người lao động phi chính thức Quận Long Biên, Hà Nội
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Thực trạng bao phủ bảo hiểm y tế và một số yếu tố liên quan ở người lao động phi chính thức quận Long Biên, Hà Nội Bùi Thị Tú Quyên, Nguyễn Thị Kim Ngân Nghiên cứu cắt ngang có phân tích được thực hiện tại quận Long Biên, Hà Nội năm 2015 với mục tiêu: Mô tả thực trạng tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) của người lao động khu vực phi chính thức, quận Long Biên, Hà Nội và xác định một số yếu tố liên quan đến tham gia BHYT. Với phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn, đã có 377 người lao động (NLĐ) phi chính thức tham gia nghiên cứu. Điều tra viên đã phỏng vấn trực tiếp NLĐ sử dụng mẫu phiếu phỏng vấn có cấu trúc. Số liệu được phân tích với STATA 12.0, các kỹ thuật thống kê mô tả, hồi qui logistics đơn biến và đa biến đã được sử dụng. Kết quả cho thấy tỷ lệ NLĐ phi chính thức có BHYT là 21,2%; tỷ lệ NLĐ có dự định mua BHYT là 77,7%; có 70,3% chủ hộ gia đình (HGĐ) sẵn lòng mua BHYT cho các thành viên trong HGĐ. Có mối liên quan giữa trình độ học vấn (TĐHV), kinh tế, tình trạng sức khoẻ với việc có BHYT. Nghiên cứu đưa ra khuyến nghị cần tăng cường truyền thông, cung cấp thông tin về lợi ích của BHYT, BHYT theo HGĐ đến NLĐ, tập trung vào nhóm có thu nhập thấp, TĐHV thấp. Nên có những nghiên cứu với qui mô lớn hơn nhằm đưa ra giải pháp tăng sự bao phủ BHYT với NLĐ phi chính thức. Từ khoá: Bảo hiểm y tế, lao động phi chính thức, yếu tố liên quan, Hà Nội Health insurance coverage and some related factors among informal employees in Long Bien district, Hanoi Bui Thi Tu Quyen, Nguyen Thi Kim Ngan This cross-sectional analytical study was conducted in the urban district of Long Bien in Hanoi in 2015 with these objectives: To describe the situation of informal employees’ participation in health insurance in Long Bien district, Hanoi and identify some factors related to informal employees’ participation in health insurance. Using the multi-stage sampling method, we recruited 377 informal employees for this study. Investigators interviewed the employees using a structured questionnaire. Data analysis, involving descriptive statistics, univariate and multivariate logistic regression models was performed with STATA 12.0. Our results show that 21.2% of informal employees participated in health insurance, 48 Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2016, Số 42
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 77.7% of employees had an intention of buying health insurance, and 70.3% of heads of households were willing to buy health insurance for their family members. Education, economic conditions and health status were found to be associated with the possession of health insurance. It is necessary to enhance communication and provide information about the benefits of health insurance and household- based health insurance for informal employees, especially those with low income and low education. Other studies at a larger scale need to be conducted in order to find solutions to increase the coverage of health insurance among informal employees. Keywords: health insurance, informal employees, related factors, Hanoi. Tác giả: Trường Đại học Y tế Công cộng 1. Đặt vấn đề 2. Phương pháp nghiên cứu Bảo hiểm y tế (BHYT) được áp dụng trong lĩnh Nghiên cứu cắt ngang có phân tích, thu thập vực chăm sóc sức khoẻ, là cơ chế chia sẻ về gánh thông tin từ NLĐ khu vực phi chính thức thuộc 14 nặng tài chính khi ốm đau/ bệnh tật. BHYT cũng phường, quận Long Biên, Hà Nội. Nghiên cứu được giúp làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tiến hành từ tháng 4/2015 đến tháng 11/2015 với các hỗ trợ ngân sách nhà nước nhằm cải thiện và nâng tiêu chí chọn NLĐ là những người từ 18 đến 60 tuổi, cao chất lượng phục vụ của ngành y. có thời gian sống tại quận Long Biên từ 12 tháng trở lên, làm việc độc lập hoặc trong các nhóm/ tổ Hiện nay, BHYT tại Việt Nam đã bao phủ khoảng chức không có bảo hiểm xã hội và đồng ý tham gia 70% dân số, với 30% còn lại chủ yếu là nhóm NLĐ nghiên cứu. khu vực phi chính thức [2]. Từ 1/1/2015, Luật BHYT sửa đổi đã có hiệu lực với qui định BHYT theo hộ gia Cỡ mẫu được tính theo công thức cho nghiên cứu đình và đến ngày 1/1/2016 là hình thức bắt buộc với cắt ngang người mua BHYT tự nguyện. Năm 2010, ở Hà Nội chỉ có khoảng 0,5% người lao động phi chính thức có BHYT [3], số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam năm 2014 cũng cho thấy chỉ có 6,5% NLĐ phi chính thức có BHYT. Chính vì vậy, việc cung cấp những bằng chứng góp phần đưa ra những chủ trương, chính Trong đó: n là cỡ mẫu tối thiểu cần cho nghiên cứu, p=0,065 sách phù hợp nhằm tăng tỷ lệ bao phủ BHYT trong là tỷ lệ NLĐ phi chính thức có thẻ BHYT; khu vực lao động phi chính thức là rất cần thiết. Đây d: sai số chấp nhận =0,025; z(1- /2): Hệ số tin cậy (Với độ là một nghiên cứu cắt ngang được triển khai tại 14 tin cậy 95% thì giá trị của z=1,96). Cỡ mẫu cần thiết là 374 phường thuộc quận Long Biên vào năm 2015 với mục NLĐ phi chính thức, trên thực tế nghiên cứu đã phỏng vấn tiêu (1) Mô tả thực trạng tham gia BHYT của NLĐ khu được 377 NLĐ. vực phi chính thức, quận Long Biên, Hà Nội năm 2015 Chọn mẫu: Mẫu nghiên cứu được chọn nhiều và (2) Xác định một số yếu tố liên quan đến tham gia giai đoạn theo sơ đồ sau: BHYT của NLĐ khu vực phi chính thức. Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2016, Số 42 49
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 3. Kết quả nghiên cứu 3.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Tỷ lệ nam giới trong mẫu nghiên cứu là 44,6%, còn lại là nữ giới. Tuổi trung bình của các đối tượng là 40 ± 11,53; người trẻ nhất là 18 tuổi và lớn nhất là 70 tuổi. Tỷ lệ ĐTNC thuộc nhóm tuổi từ 40 đến 49 là 28,4%; thấp nhất là nhóm 60-70 (2,1%); tỷ lệ ĐTNC thuộc các nhóm tuổi khác khoảng 23%. Có Hình 1. Các giai đoạn chọn mẫu 29% ĐTNC đi làm thuê hàng ngày để kiếm sống, 26% buôn bán tại nhà. Khoảng 55% ĐTNC có trình độ học vấn (TĐHV) từ trung học phổ thông (THPT) Mẫu nghiên cứu cho từng phường được tính trở lên, tỷ lệ đã tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) tương ứng theo tỷ lệ dân số của phường, phường có là 38%. Phần lớn các ĐTNC đang sống cùng vợ/ đông dân hơn thì số ĐTNC cũng nhiều hơn. chồng (84,6%); 80% ĐTNC sống trong gia đình có điều kiện kinh tế tương tự những HGĐ xung quanh, Điều tra viên là 6 cán bộ trung tâm y tế quận khoảng 14% sống trong gia đình có điều kiện kinh tế Long Biên, đây là các cán bộ đã có kinh nghiệm kém hơn còn lại là những HGĐ khá giả. trong triển khai các nghiên cứu tại cộng đồng. Điều tra viên được tập huấn về các nội dung liên 3.2 Thực trạng bao phủ bảo hiểm y tế quan đến nghiên cứu trước khi phỏng vấn ở thực địa. Điều tra viên phỏng vấn trực tiếp người lao động khu vực phi chính thức được chọn theo mẫu phiếu phỏng vấn có cấu trúc, phiếu phỏng vấn bao gồm các nội dung: Thông tin chung ĐTNC, tình trạng BHYT, một số yếu tố liên quan đến mua BHYT. NLĐ phi chính thức trong nghiên cứu này là những NLĐ tự do, là những NLĐ tại hộ gia đình hoặc theo nhóm nhỏ nhưng không đăng ký theo qui định Biểu đồ 1. Phân bố tỷ lệ có thẻ bảo hiểm y tế theo giới tính (%) của luật pháp, không thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh và không được hưởng chế độ an sinh xã hội. Đây cũng là khái niệm được Liên Hợp Quốc đưa Biểu đồ 1 cho thấy tỷ lệ NLĐ phi chính thức ở ra và Tổng cục Thống kê Việt Nam cũng sử dụng. Long Biên có thẻ BHYT là 21,2%; tỷ lệ có bảo hiểm trong nhóm NLĐ nữ là 23,9%, tỷ lệ này trong nhóm Số liệu nghiên cứu được phân tích bằng phần NLĐ nam là 17,9%. mềm STATA 12.0, các kỹ thuật phân tích thống kê mô tả, mô hình hồi qui logistics đơn biến và đa biến Tỷ lệ NLĐ có dự định vẫn tiếp tục tham gia hoặc được sử dụng. Nghiên cứu được hội đồng Đạo đức sẽ tham gia BHYT trong tương lai là 77,7% (nam: trường Đại học Y tế Công cộng thông qua, các đối 75%; nữ: 80%). Với những người chủ gia đình (101 tượng được quyền quyết định tham gia nghiên cứu. người), là người có quyền ra quyết định trong gia Trong quá trình triển khai, khi ĐTNC có nhu cầu đình thì có 70,3% sẵn lòng mua BHYT cho người biết các thông tin liên quan đến BHYT hay chăm trong gia đình với điều kiện hiện tại (về kinh tế) và sóc sức khỏe nhóm nghiên cứu đã tư vấn trong khả 84,2% sẵn lòng mua BHYT cho người trong gia đình năng hiểu biết của mình. khi có điều kiện về kinh tế (Bảng 1). 1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam 2014 50 Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2016, Số 42
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Bảng 1. Dự định tham gia bảo hiểm y tế Bảng 2 cho thấy: Trong nhóm NLĐ sống trong gia đình có điều kiện kinh tế tốt hơn xung quanh, tỷ Nội dung Nam Nữ Chung p lệ người có thẻ BHYT là 48,5%; tỷ lệ này trong nhóm Tham gia BHYT trong tương lai (n=377) có điều kiện kinh tế kém và trung bình (so với xung Có tham gia 126 (75,0) 167 (79,9) 293 (77,7) 0,30 quanh) là khoảng 18,6%. Những NLĐ trong HGĐ Không tham gia 32 (19,0) 32 (15,3) 64 (17,0) kinh tế giàu, khá giả có khả năng có BHYT cao gấp 3,5 lần những người trong HGĐ trung bình, nghèo Không biết 10 (6,0) 10 (4,8) 20 (5,3) (p<0,001) khi có cùng giới tính, nhóm tuổi, TĐHV . Sẵn lòng mua BHYT cho người trong gia đình với điều kiện hiện tại (n=101)* NLĐ có TĐHV cao thì cũng tham gia BHYT nhiều hơn những người có TĐHV thấp (p<0,01). NLĐ có Có 47 (68,1) 24 (75,0) 71 (70,3) 0,34 TĐHV từ THPT trở lên có khả năng có BHYT cao Không 14 (20,3) 4 (12,5) 18 (17,8) gấp khoảng 2,6 lần những người có TĐHV dưới Không trả lời 8 (11,6) 4 (12,5) 12 (11,9) THPT sau khi đã hiệu chỉnh theo một số yếu tố khác Sẵn lòng mua BHYT cho người trong gia đình khi có điều kiện có trong mô hình. (n=101)* Có 57 (82,6) 28 (87,5) 85 (84,2) 0,98 Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến dự định tham gia Không 6 (8,7) 3 (9,4) 9 (8,9) bảo hiểm y tế của người lao động làm việc Không trả lời 6 (8,7) 1 (3,1) 7 (6,9) khu vực phi chính thức Sẽ tham Mô hình 1 Mô hình 2 Yếu tố 3.3 Một số yếu tố liên quan đến tham gia, dự gia n(%) OR (CI95%) OR (CI95%) định tham gia bảo hiểm y tế Giới tính Nữ 167 (79,9) Ref Ref Bảng 2. Một số yếu tố liên quan đến tham gia bảo Nam 126 (75,0) 0,8 (0,5-1,2) 0,9 (0,5-1,5) hiểm y tế của người lao động làm việc khu vực Kinh tế phi chính thức Trung bình, nghèo 268 (77,9) Ref Ref Có BHYT Mô hình 1 Mô hình 2 Yếu tố Giàu, khá giả 25 (75,8) 0,9 (0,4-2,0) 0,6 (0,2-1,4) n(%) OR (CI95%) AOR (CI95%) Trình độ học vấn Giới tính Dưới THPT 135 (79,9) Ref Ref Nữ 50 (23,9) Ref Ref Từ THPT trở lên 158 (76,0) 0,8 (0,5-1,3) 0,7 (0,4-1,3) Nam 30 (17,9) 0,7 (0,4-1,1) 0,58 (0,33-1,02) Nhóm tuổi Kinh tế Dưới 50 tuổi 217 (76,7) Ref Ref Trung bình, nghèo 64 (18,6) Ref Ref Từ 50 tuổi trở lên 76 (80,9) 1,3 (0,7-2,3) 1,2 (0,6-2,3) Giàu, khá giả 16 (48,5) 4,1 (1,9-9,1)*** 3,5 (1,6-7,5)** Tình trạng sức khỏe Trình độ học vấn Có bệnh mạn tính/ 43 (86,0) Ref Ref Dưới THPT 25 (14,8) Ref Ref đau ốm Từ THPT trở lên 55 (26,4) 2,1 (1,2-3,5)** 2,6 (1,5-4,8)** Khỏe mạnh 250 (76,5) 0,5 (0,2-1,3) 0,6 (0,3-1,4) Nhóm tuổi Chủ hộ gia đình Dưới 50 tuổi 58 (20,5) Ref Ref Là chủ hộ 76 (75,2) Ref Ref Từ 50 tuổi trở lên 22 (23,4) 1,2 (0,7-2,1) 1,3 (0,7-2,5) Không là chủ hộ 217 (78,6) 1,3 (0,7- 2,0) 1,4 (0,7-2,5) Tình trạng sức khỏe Đang có thẻ BHYT Có bệnh mạn tính/ Không có thẻ 219 (73,3) Ref Ref 16 (32,0) Ref Ref hay đau ốm Có thẻ 74 (92,5) 4,4 (1,8-0,5)*** 5,0 (2,0-2,4)*** Khỏe mạnh 64 (19,6) 0,5 (0,3-0,9)* 0,5 (0,2-0,99)* Chủ hộ gia đình Mô hình 1: Mô hình logistic đơn biến Là chủ hộ 25 (24,8) Ref Ref Mô hình 2: Mô hình logistic đa biến ***p<0,001 Không là chủ hộ 55 (19,9) 0,8 (0,4-1,3) 0,7 (0,4-1,2) Mô hình 1: Mô hình logistic đơn biến Tỷ lệ NLĐ có thẻ BHYT trong nhóm có bệnh Mô hình 2: Mô hình logistic đa biến mạn tính hoặc hay đau ốm là 32% cao hơn so với *p<0,05; **p<0,01; ***p<0,001 tỷ lệ này trong nhóm NLĐ khỏe mạnh (19,6%; Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2016, Số 42 51
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | p<0,05). Những người có bệnh mạn tính hoặc hay sống tại địa bàn Long Biên ít nhất là 1 năm, như vậy đau ốm có khả năng có thẻ BHYT cao gấp 2 lần họ cũng có sự ổn định hơn so với những người làm những người khỏe mạnh khác trong cùng nhóm tuổi, tự do mà có sự di biến động nhiều (buôn bán hàng cùng giới tính, cùng TĐHV và kinh tế. NLĐ nữ có xu rong và ở trọ .). Ngoài ra tại Long Biên, chính sách hướng có BHYT nhiều hơn NLĐ nam, những người về BHYT cũng được tuyên truyền tới NLĐ tương đối ở nhóm tuổi từ 50 trở lên cũng có xu hướng có thẻ tốt vì vậy người dân cũng hiểu về lợi ích của BHYT BHYT nhiều hơn nhóm dưới 50 tuổi. Tuy nhiên, sự và từ đó cũng tham gia BHYT nhiều hơn. khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Một số yếu tố liên quan đến tham gia BHYT của Về dự định tham gia BHYT (Bảng 3), trong cùng NLĐ khu vực phi chính thức nhóm tuổi, cùng TĐHV và tình trạng sức khỏe . những NLĐ đang có thẻ BHYT có khả năng vẫn tiếp Giới tính tục mua thẻ BHYT cao gấp 5 lần những người hiện không có thẻ BHYT (p<0,001). Chưa thấy có mối liên NLĐ nam giới có xu hướng tham gia BHYT tự quan giữa nhóm tuổi, nhóm TĐHV, tình trạng sức nguyện ít hơn so với nữ giới, kết quả này cũng tương khỏe, tình trạng kinh tế . với dự định mua thẻ BHYT tự nghiên cứu của Barnighausen và CS [7]. Trong của NLĐ khu vực phi chính thức (p>0,05). nhóm tuổi lao động, dường như nam giới thường có sức khoẻ tốt hơn nữ giới, một phần là do đặc điểm 4. Bàn luận sinh học theo giới, ngoài ra cũng do ở lứa tuổi này nữ giới thường đang trong độ tuổi sinh đẻ nên đối mặt với Tham gia BHYT cũng là một hình thức trả trước nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khoẻ. Với những lý cho chi phí khám chữa bệnh, BHYT đã trở thành một do trên nữ giới cũng có xu hướng mua BHYT nhiều trong những phương thức đảm bảo tài chính có nhiều hơn nam giới vì họ cũng có khả năng sẽ sử dụng dịch ưu điểm trong y tế. Tuy nhiên một thời gian dài đã vụ y tế trong chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn nam giới. qua, chính sách BHYT mới chỉ nhắm đến đối tượng NLĐ ở khu vực chính thức (trong các cơ quan và Việc làm và thu nhập doanh nghiệp nhà nước), chưa có chính sách và cơ chế hướng tới việc tăng bao phủ BHYT cho khu vực Trong nghiên cứu ở Long Biên, những NLĐ phi chính thức [2, 5]. Việt Nam triển khai thực hiện sống trong HGĐ có điều kiện kinh tế khá giả hơn các chính sách BHYT đến nay đã được 23 năm, BHYT HGĐ xung quanh thì khả năng có BHYT cũng cao đã trở thành một trong những chính sách an sinh xã hơn những NLĐ sống trong hộ gia đình khác. Kết hội quan trọng. Đây là một trong những chiến lược quả này ở khía cạnh kinh tế cũng tương tự nghiên cứu phát triển chung về kinh tế, xã hội, y tế. Tuy vậy, của Barnighausen và CS [7], các tác giả đã chứng đối tượng lao động trong khu vực phi chính thức minh những người không có thu nhập ổn định thì khả chưa được cụ thể trong các chính sách hỗ trợ của nhà năng tham gia BHYT cũng thấp hơn những người có nước. Năm 2010, có khoảng hơn 1 triệu lao động khu thu nhập ổn định. Trong nhóm NLĐ hiện không có vực phi chính thức ở Hà Nội nhưng chỉ có khoảng BHYT, một nhóm không nhỏ không có BHYT là do 5000 người tham gia BHYT (chiếm khoảng 0,5%), sự chuyển đổi BHYT theo HGĐ. Với Luật BHYT sửa đây quả là một con số rất thấp [3], cho đến 2014 đổi có hiệu lực từ đầu năm 2015, việc mua BHYT cũng chỉ có 6,5% NLĐ phi chính thức của Việt Nam của NLĐ dưới góc độ về kinh tế lại càng khó khăn. có BHYT. Điều này cho thấy tỷ lệ khoảng 30% dân Hiện nay, muốn mua BHYT thì NLĐ không còn được số Việt Nam chưa có BHYT chủ yếu là thuộc nhóm quyền mua cho cá nhân, thay vào đó phải mua cho tất lao động phi chính thức. cả các thành viên trong HGĐ. Đây quả là một gánh nặng về chi phí mua BHYT, chính vì vậy nhiều NLĐ Tỷ lệ NLĐ khu vực phi chính thức trong nghiên có khả năng mua cho 1 người nhưng không thể mua cứu tại Long Biên có BHYT là 21,2%. Tỷ lệ này cao cho cả gia đình, kết quả là họ đã không có BHYT. hơn rất nhiều so với ước tính của tác giả Trần Thị Phương Châm và cộng sự (CS) [3] khi dùng cùng Việc làm và thu nhập của NLĐ khu vực phi khái niệm về NLĐ phi chính thức. Nguyên nhân do chính thức còn thấp và bấp bênh, đây cũng là một đối tượng trong nghiên cứu tại Long Biên năm 2015 trong những nguyên nhân chính cản trở đến khả chúng tôi chọn là những NLĐ phi chính thức sinh năng tham gia BHYT của nhóm lao động này [5, 52 Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2016, Số 42
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 6]. Trên con đường hội nhập sâu vào nền kinh tế xu hướng đến khám nhiều dịch vụ hơn so với bất kỳ thế giới, BHYT nói riêng và hệ thống an sinh xã dạng BHYT nào khác [4]. Trên thực tế, khi chính sách hội nói chung của Việt Nam cần được hoàn thiện BHYT được thực hiện đã tạo một gánh nặng bổ sung và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của NLĐ đặc cho hệ thống y tế. Các cơ sở y tế ở tất cả các tuyến biệt là những nhóm yếu thế như lao động khu vực từ Trung ương, tỉnh, huyện đã trải nghiệm sự tăng lên phi chính thức. NLĐ thuộc khu vực này thường là của số lượng bệnh nhân cả điều trị nội trú và ngoại trú. những người có TĐHV thấp, nhận thức xã hội còn Các cơ sở y tế vì vậy đã phải nhận số lượng bệnh nhân hạn chế, lao động phần lớn chưa qua đào tạo, việc nhiều hơn so với khả năng cung cấp dịch vụ, nhân lực y làm không ổn định và thu nhập thấp. NLĐ phi chính tế cũng bị dàn trải và sử dụng nhiều vào các nhiệm vụ/ thức là những người thường phải đối mặt với tình công việc phi lâm sàng tạo ra sự thâm hụt tài chính và trạng không an toàn và căng thẳng hơn so với những ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc. Đây cũng là một NLĐ chính thức; và cũng ít tiếp cận với những dịch nguy cơ ảnh hưởng đến sự an toàn của quỹ BHYT nếu vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng hơn. Họ cũng những người tham gia lại là những người hay ốm và cần thường làm việc trong môi trường kém hơn và không có bảo hiểm chi trả. an toàn với mức lương thấp, 1/3 trong số họ có mức thu nhập dưới $1,25/ngày [10]. Như vậy có thể thấy, Hạn chế của nghiên cứu kinh tế là yếu tố rất quan trọng và là yếu tố chính tác động đến quyết định tham gia hoặc không tham gia Do đặc điểm của người lao động phi chính thức BHYT của NLĐ, tuy vậy lý do này không phải là tất là di biến động nhiều, nơi nào có cơ hội tìm kiếm cả. Còn có những yếu tố khác nữa liên quan đến dịch việc làm dễ dàng thì họ dễ dàng di cư đến. Ngoài ra vụ y tế, liên quan đến cung cấp bảo hiểm cũng ảnh việc xác định được nghề nghiệp của ĐTNC dựa trên hưởng đến quyết định mua BHYT của NLĐ. số liệu/ thông tin thứ cấp cũng rất khó khăn. Chính vì những lý do trên, nhóm nghiên cứu đã phải chọn Yếu tố sức khoẻ mẫu nhiều giai đoạn với phương pháp chọn mẫu “nhà liền nhà”, điều này cũng đã hạn chế tính đại BHYT cũng là một biện pháp chia sẻ nguy cơ, tránh diện của mẫu nghiên cứu. rủi ro, những tổn thất lớn ngoài sự chịu đựng của mỗi cá nhân. Nguyên tắc của BHYT là có đóng có hưởng, 5. Khuyến nghị cộng đồng cùng chia sẻ rủi ro, lấy số đông bù cho số ít không may mắc bệnh phải điều trị tốn kém. Đây cũng Từ các kết quả trên chúng tôi có một số khuyến chính là cơ sở để bảo hiểm hình thành và phát triển. nghị sau: (1) Cần tăng cường truyền thông, cung cấp Tuy vậy, cũng vẫn còn những người quan niệm mình thông tin về lợi ích BHYT, BHYT theo HGĐ đến khỏe mạnh thì đóng bảo hiểm chỉ để cho người khác NLĐ; tập trung vào nhóm có thu nhập thấp, nam giới được hưởng vì thế khi họ còn khỏe mạnh thì không nghĩ và TĐHV thấp; (2) Rà soát/ đánh giá về khả năng và không muốn tham gia BHYT nhưng đến khi bệnh tật tham gia BHYT HGĐ của NLĐ khu vực phi chính đe dọa thì lại tìm mọi cách để có thẻ bảo hiểm và dùng thức và nhà nước nên có sự hỗ trợ phần nào đó để thẻ bảo hiểm [1, 8, 9]. Nghiên cứu ở Long Biên cũng mua BHYT cho những HGĐ còn khó khăn dựa trên cho thấy những người có bệnh mạn tính/ hay ốm đau những kết quả rà soát. thì mua BHYT cũng cao hơn những người khoẻ mạnh 2 lần. Có tới 58% NLĐ phi chính thức cho biết lý do Lời cảm ơn không mua BHYT là cảm thấy sức khỏe tốt, không cần tham gia BHYT. Có thể nói hiện nay chính sách BHYT Nghiên cứu viên xin cảm ơn người lao động phi tự nguyện vẫn còn chưa sát với thực tế, thiếu chặt chẽ chính thức quận Long Biên đã tham gia nghiên cứu nên chỉ những người hay ốm, người mắc bệnh mạn tính này. Cảm ơn Trung tâm Y tế dự phòng Long Biên đã hoặc người điều trị đặc biệt có chi phí lớn thì mới tham phối hợp và giúp đỡ nhóm nghiên cứu trong quá trình gia BHYT, đây là một sự “lựa chọn ngược” và gây ảnh thu thập số liệu thực địa. Cảm ơn các phản biện đã hưởng lớn đến sự an toàn của quỹ. Xu hướng này không đóng góp ý kiến quí báu cho bài báo. Chúng tôi cũng chỉ xuất hiện ở những người tham gia bảo hiểm ở khu chân thành cảm ơn Trường Đại học Y tế Công cộng vực lao động phi chính thức mà đó là tâm lý chung, đã tạo điều kiện cho nhóm triển khai nghiên cứu và những người hưởng chính sách BHYT tự nguyện có hỗ trợ kinh phí cho nghiên cứu thông qua dự án AP. Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2016, Số 42 53
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tài liệu tham khảo Tiếng Anh Tiếng Việt 7. Barnighausen,T., Yuanli Liu, Xinping Zhang and Rainer Sauerborn (2007). Willingness to pay for social health 1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011). Bảo hiểm y tế ở Việt insurance among informal sector workers in Wuhan, China: Nam: Nghiên cứu trường hợp về người lao động cho khu vực a contingent valuation study. BMC Health Serv Res. 7: p. phi chính thức. 114. 2. Bộ Y tế (2013). Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 8. Bitran, Ricardo. 2014. Universal health coverage and the 2013, Hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân. Bộ Y challenge of informal employment: lessons from developing tế và Nhóm đối tác phát triển. countries. Health, Nutrition, and Population (HNP) discussion 3. Trần Thị Phương Châm (2012). Bảo hiểm y tế khu vực paper. Washington DC ; World Bank Group. kinh tế phi chính thức ở Hà Nội. Luận văn Thạc sỹ chuyên worldbank.org/curated/en/2014/01/19491214/universal- ngành Kinh tế chính trị. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. health-coverage-challenge-informal-employment-lessons- developing-countries [cited 2015 Nov 18] 4. Nguyễn Dung, Nguyễn Nhật Nam, Dương Bích Hạnh, Nguyễn Quang Ngọc, James F. Phillips, Jane Hughes (2009). 9. Mathauer, I., J.O. Schmidt, and M. Wenyaa (2008), Ảnh hưởng của các chính sách bảo hiểm đến nhà cung cấp và Extending social health insurance to the informal sector in người sử dụng ở Thừa Thiên- Huế từ những số liệu định tính. Kenya. An assessment of factors affecting demand. Int J Health Plann Manage. 23(1): p. 51-68. 5. Viện Hanns Seide, Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2012). An sinh xã hội cho khu vực phi chính thức và người 10. Rockefeller Foundation (2013). Health vulnerabilities lao động phi chính thức ở Việt Nam: Kết quả rà soát tài liệu of informal worker [Online]. Avaiable from: và cơ sở dữ liệu. NXB Hà Nội rockefellerfoundation.org/report/health-vulnerabilities-of- informal-workers/ [cited 2015 Nov 15] 6. Vũ Thị Nhâm (2013). Một số vấn đề về triển khai bảo hiểm y tế tự nguyện tại Việt Nam. Luận văn Thạc sỹ. 54 Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2016, Số 42