Tăng cường tiếp cận thuốc điều trị AIDS ở Việt Nam: Các khía cạnh về xã hội và y tế

Tăng cường tiếp cận thuốc điều trị AIDS ở Việt Nam: Các khía cạnh về xã hội và y tế

Chương trình điều trị bằng ARV đang bắt đầu ở Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu của tác giả là mô tả và phân tích một bức tranh cụ thể về chương trình này, đề xuất một số khuyến nghị. Tác giả đã sử dụng ba phương pháp nghiên cứu là tổng hợp và phân tích các số liệu thứ cấp, phỏng vấn sâu và quan sát cách tổ chức tại 2 bệnh viện. Kết quả nghiên cứu cho thấy năng lực của cán bộ và phương tiện chuyên môn của hệ thống điều trị còn yếu, người nhiễm HIV/AIDS chưa tuân thủ điều trị và còn bị kỳ thị, giá thuốc còn quá cao.

Tác giả đã khuyến nghị về việc ban hành hoặc sửa đổi một số chính sách với người trực tiếp chương trình điều trị, thu hút sự tham gia tích cực của bệnh nhân HIV/AIDS và kết hợp điều trị nghiện, điều trị nhiễm và chăm sóc tại chỗ

pdf 6 trang Bích Huyền 01/04/2025 280
Bạn đang xem tài liệu "Tăng cường tiếp cận thuốc điều trị AIDS ở Việt Nam: Các khía cạnh về xã hội và y tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftang_cuong_tiep_can_thuoc_dieu_tri_aids_o_viet_nam_cac_khia.pdf

Nội dung text: Tăng cường tiếp cận thuốc điều trị AIDS ở Việt Nam: Các khía cạnh về xã hội và y tế

  1. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tăng cường tiếp cận thuốc điều trị AIDS ở Việt Nam: Các khía cạnh về xã hội và y tế Nguyễn Trần Lâm Chương trình điều trị bằng ARV đang bắt đầu ở Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu của tác giả là mô tả và phân tích một bức tranh cụ thể về chương trình này, đề xuất một số khuyến nghị. Tác giả đã sử dụng ba phương pháp nghiên cứu là tổng hợp và phân tích các số liệu thứ cấp, phỏng vấn sâu và quan sát cách tổ chức tại 2 bệnh viện. Kết quả nghiên cứu cho thấy năng lực của cán bộ và phương tiện chuyên môn của hệ thống điều trị còn yếu, người nhiễm HIV/AIDS chưa tuân thủ điều trị và còn bị kỳ thị, giá thuốc còn quá cao. Tác giả đã khuyến nghị về việc ban hành hoặc sửa đổi một số chính sách với người trực tiếp chương trình điều trị, thu hút sự tham gia tích cực của bệnh nhân HIV/AIDS và kết hợp điều trị nghiện, điều trị nhiễm và chăm sóc tại chỗ. The ARV program has been implementing in Viet Nam. The author's objective is to describe and ana- lyze a panorama of this treatment program and to suggest some recommendations. Three study meth- ods are used: to collect, classify and analyze secondary data, to carry out in-depth interviews and observations in 2 hospitals. The study results show poor staff professional capacity and inadequate equipment of the treatment system, PLWHA's poor observance of treatment regulations, stigma towards PLWHA and very high price of ARV. Recommendations are to promulgate or amend some policies for direct caregivers, to involve active participation of PLWHA, to combine on the spot at the same time drug abuse treatment, ART and care for PLWHA. 1. Bối cảnh chống AIDS đã tăng đáng kể trong vòng 3 năm qua. Dịch AIDS ở Việt Nam đang diễn tiến đáng lo Các biện pháp tăng cường chương trình PC AIDS ngại. Trong suốt những năm 90, tỉ lệ nhiễm HIV đã đã được thảo luận trong cuộc họp nhóm chuyên gia tăng nhanh ở tất cả các quần thể của chương trình vào tháng 12 năm 2003. Chiến lược mới về AIDS giám sát. Theo dự đoán, với 30.000 người đang cần có nhiều điểm thuận lợi cho chương trình điều trị được điều trị bằng thuốc kháng retrovirut (ARV), ARV (CTĐT) (3). Kể từ năm 2003, các tổ chức quốc Việt Nam cần 150 triệu USD để chi trả điều trị cho tế đã viện trợ rất mạnh cho Việt Nam. Mặc dù hiện số bệnh nhân này (chỉ tính riêng năm 2004). Nhu tại chỉ có dự án ESTHER(5) (Pháp) là cấp kinh phí cầu ARV là rất lớn, nhưng hệ thống y tế ở nước ta mua ARV điều trị miễn phí cho bệnh nhân AIDS, hiện nay chưa đủ năng lực để thực hiện cũng như nhiều dự án khác bắt đầu được triển khai. Dự án giám sát các dịch vụ điều trị. Hướng dẫn điều trị Quỹ toàn cầu (GFATM) đã được thông qua (12 quốc gia hiện nay vẫn chưa hoàn thiện. Sự tham gia triệu USD). Tháng 6/2004, Việt Nam được chọn là của xã hội dân sự cũng như của người có HIV/AIDS nước thứ 15 nhận tài trợ của Quỹ của Tổng thống (PHA) vào chương trình AIDS cũng mới ở mức độ Bush về phòng chống AIDS (PEPFAR). PEPFAR hình thức. Luật về thuốc đang được rà soát sửa đổi. hy vọng dự phòng cho 660.000 ca nhiễm mới; chăm Các cuộc hội thoại giữa Chính phủ và các tổ chức sóc cho 65.000 PHA; và hỗ trợ điều trị cho 13.000 quốc tế nhằm giảm giá thuốc đang được tiến hành. PHA. Tháng 7/2004, Giám đốc điều hành của Quỹ Mặc dù số lượng thuốc ARV còn hạn chế, việc Bill Clinton đến Việt Nam và hứa sẽ tiếp tục hỗ trợ tiếp cận điều trị bằng ARV đang có nhiều yếu tố các hoạt động nghiên cứu và dự phòng về HIV. thuận lợi. Ngân sách của Chính phủ cho phòng CDC cũng đang thực hiện một dự án 10 triệu USD Tạp chí Y tế Công cộng,11.2005, Số 4 (4) 27
  2. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | trong 5 năm. Trong bối cảnh như vậy, nhiều nhà BVNĐ: từ 658 (2001) lên 1457 (2003). Kết quả là hoạch định chính sách dự đoán rằng CTĐT sẽ có các bệnh nhân phải nằm chung giường, có khi 2-3 nhiều lợi điểm hơn là rủi ro. Nhiều giả định cũng người một giường. Một vấn đề khác nảy sinh là được đưa ra về tính khả thi của chương trình. Dựa hiện tượng “bệnh nhân vượt tuyến”, từ nông thôn vào các dữ liệu thu thập được trong đợt đánh giá từ ra thành phố. Nguyên nhân là do kỳ thị tại địa tháng 7 đến tháng 9/2004 tại Hà Nội và TP Hồ Chí phương, sự thiếu niềm tin vào bác sĩ tỉnh lẻ, và Minh, bài viết này mô tả và phân tích một bức tranh quảng cáo về ARV mới đây. Đa phần PHA đến cụ thể về CTĐT ở Việt Nam, đồng thời đề xuất một khoa điều trị trong tình trạng nặng (đã chuyển sang số khuyến nghị. AIDS) và họ không có khả năng chi trả tiền thuốc, kể cả các chi phí liên quan như xét nghiệm, ăn ở. 2. Phương pháp Thường thường, PHA được điều trị các bệnh nhiễm Chúng tôi sử dụng ba phương pháp chính: 1. trùng cơ hội sau đó họ phải xuất viện. Tuy nhiên vì Tổng hợp và phân tích các số liệu thứ cấp, bao đa số họ nghèo nên nhiều người cứ chây ỳ ở lại, gồm: tài liệu/ báo cáo liên quan đến CTĐT; đề gây nhiều khó khăn cho bệnh viện. Vấn đề cũng cương xin tài trợ; báo cáo tiến trình và đánh giá; 2. nan giải tương tự tại các bệnh viện phụ sản: cơ chế 54 phỏng vấn sâu được thực hiện với các cán bộ y chuyển bệnh nhân trẻ em (bị nhiễm từ mẹ) sang tế, bệnh viện, nhà thuốc, các tổ chức quốc tế hoạt bệnh viện nhi còn bất cập. động về AIDS, NGO, và PHA; 3. Quan sát cách tổ 3.3 Tham nhũng chức điều trị tại 2 bệnh viện, và tương tác giữa nhân Cán bộ y tế thường phàn nàn về đồng lương ít viên y tế và bệnh nhân. ỏi. Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân tiêu cực làm một số bác sĩ bán thuốc ARV ra ngoài kiếm 3. Kết quả lời. Ngoài ra cũng có một hệ thống “điều phối 3.1. Thay đổi về thể chế/ nhân sự thuốc” rất tinh vi, bắt đầu từ đội ngũ trình dược Từ năm 1987, Uỷ ban Quốc gia phòng chống viên (TDV) của các công ty thuốc - rồi đến bác sĩ AIDS (UBQG) đã trải qua nhiều thay đổi về tổ chức điều trị (BS) - dược sĩ tại quầy thuốc (DS) của bệnh Do quá trình thay đổi như vậy, nhiều cán bộ lâu viện. Qui trình tóm tắt như sau: TDV “hoa hồng” năm, có kinh nghiệm về AIDS đã chuyển sang làm cho BS- BS kê đơn và khuyến nghị bệnh nhân (BN) cho các cơ quan /NGO quốc tế. Việc thay đổi này ra mua thuốc tại quầy thuốc BV- sau đó DS sẽ có cũng ảnh hưởng về chất lượng cán bộ và chất lượng “hoa hồng” cho BS. Tuy nhiên, ARV trong quầy một số chương trình/dự án về AIDS. thuốc BV thường đắt hơn nhiều so với ARV thị 3.2. Năng lực của hệ thống điều trị trường ngoài. Ngoài ra, một số BS (nhất là tại TP HCM) cũng có phòng khám tư và muốn thu hút BN Từ 1995, Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt ra đó. Trong cơ chế công-tư như vậy, viên thuốc đới (Viện YHLS), Bệnh viện (BV) Trung ương ARV có thể luồn lách theo nhiều kênh bất hợp Huế, và BV Nhiệt đới Thành phố HCM (BVNĐ) pháp, và rồi cuối cùng cũng lại bán cho BN. được chỉ định là 3 cơ quan chính về điều trị, có trách nhiệm hướng dẫn điều trị tại 3 miền, trong đó 3.4. Hướng dẫn điều trị Viện YHLS là cơ quan đầu não. Nói chung, PHA Mười năm sau khi trường hợp HIV đầu tiên được điều trị tại các khoa truyền nhiễm thuộc một được phát hiện, Việt Nam mới có hướng dẫn điều BV đa khoa. Nếu PHA nào có bệnh đường tình dục trị quốc gia (năm 2000), tuy nhiên cũng chỉ trọng hoặc lao sẽ được điều chuyển đến các viện chức tâm vào việc điều trị và chẩn đoán các bệnh nhiễm năng (Viện Da liễu, Viện Lao). Vấn đề ở chỗ: tại trùng cơ hội là chính. Hiện nay Tài liệu hướng dẫn các khoa truyền nhiễm này, PHA và những người điều trị đang được chỉnh sửa, với sự hỗ trợ của các không nhiễm đều tập trung ở đó. Số giường bệnh chuyên gia quốc tế (WHO, CDC, ESTHER, Thái quá hạn chế không đáp ứng được số lượng bệnh Lan). Chúng tôi đặt ra câu hỏi là: Trong giai đoạn nhân ngày càng tăng. Ví dụ ở Viện YHLS có 10 1993-2000, không biết các BS kê đơn thế nào? Một giường; BV Đống Đa 20 giường; BVNĐ 10 giường. số BS nói rằng họ kê đơn “theo cảm tính” và “có Trong khi đó số bệnh nhân nội trú tăng nhanh (tại thuốc gì thì dùng thuốc đấy”. Trong nhiều trường BV Đống Đa: từ 152 (2001) lên 298 (2003); tại hợp, việc kê đơn ẩu là do động cơ kiếm lời của BS, 28 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2005, Số 4 (4)
  3. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | và cũng phụ thuộc vào mức độ sẵn có của ARV vào nhiên chưa có tài liệu nào đánh giá chất lượng điều thời điểm BS kê đơn. Tính sẵn có này lại phụ thuộc trị tại các cơ sở đó. vào qui trình tiếp thị của các hãng thuốc. Ngoài ra, 3.8. Cơ sở hạ tầng trình độ điều trị và công thức điều trị cũng khác Việt Nam còn thiếu nhiều phòng thí nghiệm và nhau giữa các BS miền Bắc và BS miền Nam. Một các dịch vụ liên quan (xét nghiệm, kho bảo quản BS nói: thuốc, v.v ). Nhiều tỉnh gặp rất nhiều khó khăn về " rất ít BS (điều trị) biết công thức điều trị... theo dõi lâm sàng vì không có trang thiết bị. Tính nhiều người kê đơn bừa có thuốc nào thì dùng thuốc toàn quốc, chỉ có 8 trung tâm được trang bị máy đấy, chẳng quan tâm gì đến hiệu ứng của thuốc... đếm tế bào CD4. họ dùng ddI, d4T và crixivan [indinavir] bởi vì họ 3.9. Tiếp cận và bình đẳng điều trị chẳng hiểu gì về công thức điều trị chuẩn ... hơn Tuy số PHA ngày càng tăng nhanh, chỉ có số ít nữa cũng do thiếu thuốc quá nên cũng chẳng có sự PHA được tiếp cận ARV. Hiện tại đối tượng được lựa chọn nào khác... do vậy cứ kệ thôi, đến đâu thì ưu tiên điều trị bằng ARV là cán bộ nhà nước bị đến...bệnh nhân thì muốn điều trị... nhưng lúc đó thì phơi nhiễm, phụ nữ có thai, trẻ em bị nhiễm. Hơn cũng chỉ có loại thuốc đó thôi nên BS phải kê thuốc nữa, chỉ có một số ít PHA, những người có điều đó thôi... chấp nhận công thức sai mà thế thì làm kiện và sống ở các thành phố lớn mới dễ được tiếp gì chẳng kháng thuốc!" cận điều trị. Bệnh nhân ở các tỉnh miền núi và nông 3.5. Đào tạo và nghiên cứu thôn ít khi được đề cập. Trong tiêu chí lựa chọn Đây là nhu cầu cấp thiết, tuy nhiên chưa được bệnh nhân để đưa vào CTĐT của một số dự án, đầu tư đúng mức. Hiện nay ở Việt Nam mới có lẻ người tiêm chích ma túy vẫn bị loại. Trong bối cảnh tẻ vài chương trình nâng cao năng lực cho BS điều 70% người nhiễm là người tiêm chích ma túy như trị. Tuy nhiên năng lực điều trị, nhất là BS các tỉnh hiện nay, CTĐT cũng phải tính đến việc điều trị còn rất yếu. Các BS điều trị thường ít có kiến thức cho nhóm này cũng như việc làm thế nào để phối về xã hội học và tâm lý, ảnh hưởng lớn đến việc tư hợp với các chương trình giảm tác hại khác (phát vấn, chăm sóc, hỗ trợ. Ngoài ra nhiều BS phàn nàn bao cao su, trao đổi kim tiêm, methadone) rằng chỉ vì họ không biết ngoại ngữ nên không cập 3.10. Vấn đề sử dụng thuốc nhật được thông tin mới, và như vậy dẫn đến việc Giống như các thuốc khác, ARV cũng được điều trị sai. bán ở các hiệu thuốc và BN mua không cần trình 3.6. Lồng ghép điều trị và chăm sóc đơn. Tình trạng này rất dễ dẫn đến kháng thuốc, Việt Nam chưa có mô hình lồng ghép toàn diện nguy hiểm đến tính mạng. Một số gia đình có người dự phòng-điều trị-chăm sóc-hỗ trợ. Các chương nhiễm dùng cả thuốc Đông y, tuy nhiên mọi vấn đề trình thiếu tính hệ thống và thường nặng về "thí liên quan đến nguồn thuốc, trình độ người cấp điểm". Thực tế là các CTĐT lại tách rời việc chăm thuốc và chất lượng thuốc đều chưa được kiểm sóc, hỗ trợ và tâm lý (cơ quan nhà nước tổ chức định, đánh giá. Bản thân việc kê đơn thuốc cũng có điều trị; còn NGO tổ chức chăm sóc, trong khi đó vấn đề bởi vì thuốc được kê lại phụ thuộc vào mức NGO lại không có vai trò can thiệp đối với các độ sẵn có của thị trường và đạo đức của BS. Hơn CTĐT nhà nước). Do phối hợp không hiệu quả nên nữa, BS lại thiếu kiến thức và thông tin cần thiết dẫn đến việc chồng chéo các chương trình. Việc về ARV. BS điều trị không nhận được sự tư vấn về phối hợp giữa CTĐT và các chương trình chuyên thuốc từ dược sĩ. môn liên quan khác (mẹ lây truyền sang con, tư vấn 3.11. Tuân thủ điều trị xét nghiệm tự nguyện, giảm thiểu tác hại, và Tuân thủ điều trị (TTĐT) là mức độ tham gia chương trình lao) còn rất yếu. tích cực của bệnh nhân trong một chương trình 3.7.Mô hình tư nhân chăm sóc y tế. TTĐT cần được hiểu theo nghĩa Hiện nay ở Việt Nam hầu như không có cơ sở rộng, bao gồm việc tham gia vào lịch trình chăm tư nhân tổ chức điều trị cho PHA. BS điều trị thường sóc, có mặt theo lịch hẹn để làm xét nghiệm, uống là cán bộ nhà nước và tập trung chủ yếu ở Hà Nội thuốc theo yêu cầu, thay đổi phong cách sống sao và TP HCM. Một số BS có phòng khám tư và thu cho hợp lý, và tránh hành vi nguy cơ (Rabkin & cs. hút bệnh nhân "có điều kiện" ra đó để điều trị. Tuy 2004). Đối với BN điều trị ARV, TTĐT là vấn đề Tạp chí Y tế Công cộng,11.2005, Số 4 (4) 29
  4. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | sống còn cho thành công điều trị, đòi hỏi việc uống thuốc sản xuất trong nước đều chưa được tiền duyệt thuốc chuẩn mực và nghiêm ngặt 100% nhằm tránh chất lượng. Giá thuốc nói chung còn quá cao so với kháng thuốc. Khi BN bỏ lỡ hoặc uống sai giờ qui khả năng người dùng. Ví dụ, chi phí sẽ là 96.6 USD/ định, kháng thuốc phát triển và thuốc dừng công người/ tháng nếu điều trị theo công thức AZT+3 hiệu. Trong nghiên cứu này, đa số các BS được TC+NVP. Báo cáo của WHO-Ford (2004) khuyến phỏng vấn đều nói mức độ không TTĐT là rất cao. nghị về các chiến lược ngắn hạn và dài hạn cho Việt Mặc dù TTĐT là một trong những tiêu chí lựa chọn Nam nhằm tạo một môi trường chính sách thuốc trong điều trị và BN phải ký vào một bản cam kết, ARV hợp lý. Các khuyến nghị chính bao gồm: nhưng đây chỉ là hình thức. Có 5 nguyên nhân chính - Khuyến khích nhập khẩu song song các thuốc BN không TTĐT: ARV có bằng độc quyền sáng chế; - BS thiếu tư vấn cho họ (về cách dùng, tác - Tiến hành thương lượng về giá với các công dụng phụ của thuốc/kháng thuốc...); ty nắm giữ bằng độc quyền sáng chế ARV; - Cách tổ chức của bệnh viện và thái độ kỳ thị - Ban hành giấy phép không tự nguyện để nhập của nhân viên y tế; khẩu hoặc sản xuất trong nước; - Tính bí mật không được đảm bảo; - Tạo điều kiện nhập khẩu thuốc; - Chưa có hệ thống chăm sóc tiếp nối về tâm lý; - Tác dụng phụ của thuốc và kháng thuốc rất 4. Bàn luận phổ biến, tác động đến tâm lý BN. Hiện nay số lượng các dự án về AIDS ngày 3.12. Kỳ thị càng tăng, thu hút nhiều đối tác tham gia. Thông PHA bị kỳ thị ở nhiều cấp độ: cộng đồng kỳ thị, qua các quá trình này, tương tác giữa các tổ chức BS kỳ thị, gia đình kỳ thị. Truyền thông thường gắn nhà nước-tư nhân sẽ được định dạng lại, và như vậy người ma tuý và mại dâm với các từ “tệ nạn xã sẽ dẫn đến các vấn đề về chính sách, cơ chế điều hội”; “trung gian truyền bệnh”; “nhóm nguy cơ phối, cạnh tranh, tham nhũng vv đây sẽ là những cao”, vv... làm gia cố kỳ thị trong xã hội và ảnh yếu tố tác động đến sự tiếp cận và công bằng của hưởng tiêu cực đến chất lượng của CTĐT (Lâm chương trình. Các chương trình ARV thành công ở (4) 2004). Braxin (Galvao 2002 ) và Thái Lan (Van dam & Hutchinson 2002(14)) cho thấy: với sự hỗ trợ chính trị 3.13. Sự tham gia của cộng đồng cao và sự tham gia hiệu quả của các đối tác, các a. Quốc tế: hiện nay có 3 dự án lớn cung cấp dịch vụ điều trị có thể được đảm bảo về chất lượng. ARV là GFATM, PEPFAR, và ESTHER. Ngoài ra Nghiên cứu cho thấy việc triển khai chương trình còn rất nhiều dự án quốc tế khác về AIDS. ARV có thể tăng cường hệ thống y tế, hoặc cũng b. NGO trong nước: sự tham gia của các tổ chức có thể ngược lại, gây ra sự bất bình đẳng trong hệ này vào CTĐT chưa rõ nét và mới chỉ bắt đầu. Một thống y tế (Kalanda & cs. 2004(7); Streefland số tổ chức tôn giáo cũng bắt đầu tham gia (VD: Học 2004(10)). Hệ thống y tế ở nước ta hiện nay đang viện Phật giáo Huế; Tu hội Nữ tu Bắc Ái Vĩnh Sơn). phải đương đầu với hàng loạt vấn đề, như: bất cập c. PHA: sự tham gia của PHA vào CTĐT còn trong chính sách nhập khẩu thuốc/mua thuốc, sự mờ nhạt. Có một số nhóm PHA đã được thành lập thiếu trách nhiệm của mạng lưới dịch vụ, và lỏng (ví dụ: Cafe Hy vọng, Nhóm Bright Future, Nhóm lẻo trong việc kiểm tra giám sát. Hoa phượng đỏ, Câu Lạc bộ Hải Âu), tuy nhiên Qua đánh giá, chúng tôi thấy có nhiều nhân tố không có sự liên kết giữa các nhóm này. GIPA ngăn cản PHA tiếp cận dịch vụ điều trị ARV. Ví dụ, (Greater Involvement of People with AIDS) là khi đến bệnh viện điều trị, PHA chưa nhận thức chương trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về được quyền lợi của mình và họ cũng không nhận nhu cầu và cuộc sống của PHA. được đầy đủ thông tin tư vấn về các tiêu chuẩn lựa 3.14. Tình hình về ARV chọn bệnh nhân cũng như số tế bào CD4 có ý nghĩa Tính đến thời điểm tháng 7/2003 mới có 9 loại gì. Việc lộ thông tin bị nhiễm, thời gian chờ đợi lâu, ARV được đăng ký tại Việt Nam. Có 3 công ty được thái độ kỳ thị của y tế bệnh viện, vấn đề “quota cấp giấy phép, nhưng chỉ có STADA Vietnam JV điều trị”, công thức điều trị phức tạp, tác dụng phụ Ltd là công ty duy nhất sản xuất ARV. Tuy nhiên của thuốc, v.v... là những yếu tố, ở chừng mực nào 30 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2005, Số 4 (4)
  5. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | đó, nếu không giải quyết tốt, sẽ làm mất niềm tin và y tế của một CTĐT; của PHA vào các dịch vụ y tế công cộng, gây cản - Ban hành chế độ chính sách hợp lý đối với trở lớn cho việc tiếp cận điều trị và tính bền vững những người trực tiếp thực hiện CTĐT, đồng thời của chương trình. Thuốc AIDS cũng như một hàng tăng cường công tác giám sát theo hướng hỗ trợ họ; hoá, nếu không điều tiết tốt có thể dẫn đến những - Xác định nhu cầu, quan điểm và cơ chế liên hậu quả về y tế, xã hội, và văn hoá (Geest, White kết/phối hợp giữa các cơ quan khác nhau trong hệ & Hardon 1996; Whyte & cs. 2002(16); Farmer thống chăm sóc-điều trị; 1999(3), 2001(2)). Đối với các bệnh liên quan đến kỳ thị, bệnh nhân có thể mua thuốc từ các nguồn y tế - Phát triển mạng lưới các nhà khoa học xã hội tư nhân hoặc từ các nguồn không chính thống, hoạt động về AIDS và bệnh truyền nhiễm. nhưng không được kê đơn, và bệnh nhân thường - Đặc biệt lưu tâm đến vấn đề tuân thủ điều trị hành động dựa theo cảm tính/quan điểm của riêng (bảo đảm tính bí mật cho PHA ngay từ lúc đầu; mình khi tính đến các yếu tố về an toàn và hiệu quả khắc phục rào cản về hành chính, tổ chức, thái độ (Whyte & cs. 2002(16)). Chính vì vậy dù ARV có thể kỳ thị tại địa bàn cung cấp ARV; theo dõi, giám sát sẵn có trong các dịch vụ công, nhưng thị trường tiếp nối trong quá trình điều trị, có kết hợp tư vấn thuốc ngoài khu vực nhà nước sẽ phát triển, và có về tâm lý và dinh dưỡng) thể dẫn đến tình trạng ARV “chợ đen” đa dạng hơn b. Về sự tham gia của cộng đồng: và thậm chí chất lượng tốt hơn. Hơn nữa, chất lượng - Thu hút sự tham gia của PHA vào CTĐT (ví và uy tín của các dịch vụ nhà nước có thể bị giảm dụ, trong việc chăm sóc, tư vấn bạn tình; phát triển sút do chính các bác sĩ điều trị - những người thường mạng lưới của PHA,vv ); sử dụng văn phòng công hoặc phòng khám tư làm - Kết nối sự tham gia của các chuyên gia về địa điểm “giao lưu kín” với chính bệnh nhân của chính sách, các cơ sở nghiên cứu khoa học về mình. Để đảm bảo chất lượng điều trị có sự tuân thủ AIDS, khu vực tư nhân, các nhóm tôn giáo; tốt của PHA, đòi hỏi sự tổng hợp của ba vấn đề chính: a) chất lượng dịch vụ của cán bộ y tế nhà - Phát triển các mô hình chăm sóc sức khoẻ ban nước và nhân viên/cộng tác viên y tế cộng đồng; b) đầu tại cộng đồng cho người nghiện đồng thời kết mối quan hệ tốt (biểu hiện bằng lòng tin) giữa nhân hợp điều trị nghiện, điều trị nhiễm và chăm sóc tại (1) viên y tế và người sử dụng dịch vụ; c) PHA được chỗ (Broadhead & cs. 2002 ); khuyến khích và tự họ cũng muốn sử dụng thuốc - Kết nối/điều phối các cơ sở y tế sẵn có vào (Streefland 2004(10)). trong một hệ thống ăn khớp sao cho CTĐT bằng ARV sẽ được lồng ghép theo xu hướng tăng cường 5. Kết luận và khuyến nghị (chứ không phải mâu thuẫn) với các chương trình Mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2010, 70% liên quan khác; PHA sẽ được điều trị bằng ARV. Tuy nhiên với Cuối cùng, cần cân nhắc giữa hai con đường: phát năng lực của hệ thống y tế và điều trị như hiện nay, triển một cách ồ ạt các mô hình thí điểm về chăm sóc mục tiêu này là quá lớn. Dựa vào kinh nghiệm, và hỗ trợ hay phát triển một hệ thống dự phòng - nghiên cứu quốc tế, và kết quả đánh giá vừa qua, chăm sóc - điều trị - hỗ trợ liên hoàn và ăn khớp? chúng tôi xin khuyến nghị những vấn đề sau đây: a. Về chính sách và hệ thống y tế: - Hoàn thiện Hướng dẫn điều trị quốc gia đồng thời soạn thảo qui định về bảo quản thuốc, trách Lời cảm ơn. nhiệm của bác sĩ điều trị, và tuân thủ điều trị; Tôi cảm ơn Tổ chức Health Action International - Quyết định dứt khoát về cơ chế cung cấp và đã tài trợ cho nghiên cứu này để đánh giá sự thay quản lý ARV; phân cấp điều trị; đổi của chương trình tiếp cận điều trị ARV ở Việt - Sửa đổi một số chính sách về thuốc và vấn đề Nam. Tôi chân thành cảm ơn đông đảo các bạn bè, bản quyền; đồng nghiệp quốc tế và trong nước, và một số người - Tổ chức đào tạo cho nhân viên y tế, cả trong có HIV/AIDS ở Hà Nội và Thành phố HCM đã giúp và ngoài khu vực nhà nước, về các khía cạnh xã hội tôi hoàn thành nghiên cứu này. Tạp chí Y tế Công cộng,11.2005, Số 4 (4) 31
  6. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tác giả: Network for Equity in Health in Southern Africa. 2004. Nguyễn Trần Lâm, MA, PhD Candidate, Trường Đại học 8. Lam, N.T. Nguoi Tiem Chich Ma Tuy o Vietnam: Cac Tổng hợp Amsterdam, Hà Lan. Địa chỉ: Kloverniersburgwal Dong Thai ve Nguy Co Mac AIDS va Cac Moi Quan He 48, 1012 CX Amsterdam. E-mail: N.T.Lam@uva.nl. Điện Tinh Duc (Du an Encourages, CIHP)- Nha Xuat Ban Y Hoc. thoại: (+3120) 525 2265 - Fax: (+3120) 5252446. 2004. 9. Rabkin, M. et al. The Columbia Clinical Manual. Tài liệu tham khảo Columbia University Mailman School of Public Health. 2004. 1. Broadhead, R.S. et al. Increasing Drug Users' Adherence to HIV Treatment: Results of a Peer-driven 10. Streefland, P. Public Health Care Under Pressure in Intervention Feasibility Study. Social Science & Sub-Saharan Africa. Health Policy, 2004 (in press). 2004. Medicine, 55: 235-246. 2002. 11. TreatAsia. Special Report: Expanded Availability of 2. Farmer P. et al. Community based approaches HIV/AIDS Drugs in Asia-Creates Urgent Need for Trained to HIV treatment in resource-poor settings. Lancet 358, Doctors, July 2004. 404-409. 2001. 12. UBQG PC AIDS, MD, MT- National Committee for 3. Farmer, P. Infections and inequalities: the modern AIDS, Drug and Prostitution Prevention and Control. 2004 plagues. University of California Press, Berkeley. 1999 13. The National Strategy on HIV/AIDS Prevention and 4. Galvao, J. Access to Antiretroviral Drugs in Brazil. Control in Vietnam Till 2010 with a Vision to 2020. Medical Lancet, 360: 1862-65. Geest van der S, S.Reynolds Whyte Publishing House. 2004. & A. Hardon. 2002 14. Van Dam, J. & Hutchinson, S. Access to Treatment for 5. The Anthropology of Pharmaceuticals. Annual Review of HIV/AIDS: Report of a Meeting of International Experts, Anthropology 25, 153-178. 1996 June 2001, Washington, USA. 2002. 6. Hien, N.T. et al. HIV/AIDS Epidemic in Vietnam: Evolution 15. WHO-Ford. Thuoc Khang Virus Gia Phai Chang Cho and Responses. AIDS Education and Prevention. 2004. Nguoi Co HIV/AIDS o Vietnam: Cac Van De Phap Ly va Thuong Mai, Hanoi, 6/2004. 7. Kalanda et al. Proposed Framework for Monitoring Equity in Access and Health Systems Issues in 16. Whyte, S Reynolds, S van der Geest, A. Hardon. Social Antiretroviral Therapy Programmes in Southern Africa. lives of medicines. Cambridge University Press: Equi-TB Knowledge Programme, Malawi and Regional Cambridge. 2002. 32 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2005, Số 4 (4)