Sử dụng thang peds ql đánh giá chất lượng sống liên quan sức khỏe của trẻ bị bạch cầu cấp thể lympho
Đánh giá chất lượng sống liên quan sức khỏe của trẻ bị bệnh bạch cầu cấp. Phương pháp: Sử dụng thang đo chất lượng sống liên quan sức khỏe trẻ em Peds QL 4.0 đánh giá 36 trẻ bị bệnh bạch cầu cấp thể lympho đã được điều trị và theo dõi với thời gian trung bình 27,07 ± 12,03 tháng; tuổi trung bình 11,12 ± 2,58, so sánh với nhóm chứng là 74 trẻ khỏe mạnh, tuổi trung bình 11,02 ± 2,23. Kết quả: Trẻ điều trị bệnh bạch cầu cấp thể lympho Báo cáo chất lượng sống trong lĩnh vực thể chất, xã hội và học tập thấp hơn một cách có ý nghĩa so với trẻ khỏe mạnh (P < 0,001).
Chất lượng sống trong lĩnh vực cảm xúc của trẻ điều trị bạch cầu cấp thể lympho tương tự nhóm trẻ khỏe mạnh ( P> 0,05). Kết luận: Thang đo chất lượng sống liên quan sức khỏe trẻ em Peds QL 4.0 là công cụ hữu ích có thể sử dụng để đánh giá chất lượng sống của trẻ bị bệnh bạch cầu cấp. Sự khác biệt về chất lượng sống của trẻ bị bạch cầu cấp thể lympho so với trẻ khỏe mạnh cho thấy những trải nghiệm kết hợp giữa bệnh và quá trình điều trị có thể gây cho trẻ bị bạch cầu cấp dễ tổn thương và gặp khó khăn hơn trong nhiều lĩnh vực. Những nhận định này cũng làm nổi bật lên tầm quan trọng của việc nên đánh giá chất lượng sống liên quan sức khỏe ở trẻ bị ung thư ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình điểu trị và theo dõi về sau
File đính kèm:
su_dung_thang_peds_ql_danh_gia_chat_luong_song_lien_quan_suc.pdf
Nội dung text: Sử dụng thang peds ql đánh giá chất lượng sống liên quan sức khỏe của trẻ bị bạch cầu cấp thể lympho
- TẠP CHÍ NHI KHOA 2013, 6, 1 SỬ DỤNG THANG Peds QL ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG SỐNG LIÊN QUAN SỨC KHỎE CỦA TRẺ BỊ BẠCH CẦU CẤP THỂ LYMPHO Nguyễn Thị Thanh Mai, Nguyễn Thị Thu Lê TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá chất lượng sống liên quan sức khỏe của trẻ bị bệnh bạch cầu cấp. Phương pháp: Sử dụng thang đo chất lượng sống liên quan sức khỏe trẻ em Peds QL 4.0 đánh giá 36 trẻ bị bệnh bạch cầu cấp thể lympho đã được điều trị và theo dõi với thời gian trung bình 27,07 ± 12,03 tháng; tuổi trung bình 11,12 ± 2,58, so sánh với nhóm chứng là 74 trẻ khỏe mạnh, tuổi trung bình 11,02 ± 2,23. Kết quả: Trẻ điều trị bệnh bạch cầu cấp thể lympho báo cáo chất lượng sống trong lĩnh vực thể chất, xã hội và học tập thấp hơn một cách có ý nghĩa so với trẻ khỏe mạnh (P < 0,001). Chất lượng sống trong lĩnh vực cảm xúc của trẻ điều trị bạch cầu cấp thể lympho tương tự nhóm trẻ khỏe mạnh ( P> 0,05). Kết luận: Thang đo chất lượng sống liên quan sức khỏe trẻ em Peds QL 4.0 là công cụ hữu ích có thể sử dụng để đánh giá chất lượng sống của trẻ bị bệnh bạch cầu cấp. Sự khác biệt về chất lượng sống của trẻ bị bạch cầu cấp thể lympho so với trẻ khỏe mạnh cho thấy những trải nghiệm kết hợp giữa bệnh và quá trình điều trị có thể gây cho trẻ bị bạch cầu cấp dễ tổn thương và gặp khó khăn hơn trong nhiều lĩnh vực. Những nhận định này cũng làm nổi bật lên tầm quan trọng của việc nên đánh giá chất lượng sống liên quan sức khỏe ở trẻ bị ung thư ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình điểu trị và theo dõi về sau. Từ khóa: Chất lượng sống, trẻ em, bạch cầu cấp thể lympho 1. ĐẶT VẤN ĐỀ và coi chất lượng sống là một trong các tiêu chuẩn đánh giá về hiệu quả điều trị. Các nghiên cứu này Ngày nay với những tiến bộ trong y học, tỷ lệ đã sử dụng các công cụ phỏng vấn về chất lượng sống sau 5 năm đã được nâng lên > 80% cho sống, phổ biến là công cụ Pediatric Quality of Life trẻ mắc bạch cầu cấp thể lympho. Tuy nhiên bên (Peds QL) và nhận thấy chất lượng sống ở trẻ bị cạnh tỷ lệ sống sót, trẻ bị bạch cầu cấp thể lympho ung thư suy giảm rõ rệt so với trẻ khỏe mạnh mặc (BCCL) phải trải qua quá trình điều trị phức tạp dù sau kết thúc điều trị 3 -5 năm. Ở Việt Nam, có và kéo dài, với nhiều loại hóa chất khiến cho sự phát triển bình thường và chất lượng sống của trẻ, một số nghiên cứu về chẩn đoán và điều trị bệnh đặc biệt là lĩnh vực sinh hoạt, lao động và học tập BCCL với mục tiêu nâng cao tỷ lệ sống, nhưng có thể bị ảnh hưởng sâu sắc bởi độc tính và tác chưa có nghiên cứu nào quan tâm đến lĩnh vực động không mong muốn của các phương pháp chất lượng sống của trẻ bị ung thư trong và sau điều trị y tế tích cực trong ung thư. Ở các quốc gia điều trị. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này phát triển, đã có nhiều nghiên cứu đánh giá về chất với mục tiêu: lượng cuộc sống liên quan sức khỏe của trẻ em bị Sử dụng công cụ Peds QL đánh giá chất lượng ung thư trong và sau nhiều năm kết thúc điều trị sống ở trẻ bị BCCL sau ít nhất 12 tháng điều trị. 46
- PHẦN NGHIÊN CỨU 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN [6], Litzelman và CS (2011) [4], Sitaresmi và CS CỨU (2008) [7], Sung và CS (2010) [9]. PedsQL 4.0 là một công cụ đánh giá đa lĩnh vực đã được xác 2.1. Đối tượng định tính hiệu quả và độ tin cậy ở trẻ khỏe mạnh Nhóm bệnh gồm tất cả bệnh nhân được chẩn và trẻ bị ung thư. Peds QL 4.0 gồm 23 mục về đoán bạch cầu cấp thể lympho được điều trị và 4 lĩnh vực: sức khỏe thể chất; cảm xúc; quan hệ theo dõi ngoại trú tại khoa Ung bướu Bệnh viện Nhi bạn bè và học tập của trẻ. Thang được cho điểm Trung ương trong 6 tháng (từ tháng 10-2010 đến nhằm đánh giá mức độ khó khăn của trẻ về 4 lĩnh hết tháng 3-2011), có thời gian từ khi được chẩn vực trong một tháng qua. Các mức độ khó khăn đoán và điều trị bệnh ≥ 12 tháng, tuổi từ 8 -17 tuổi, được đánh giá theo điểm như sau: 0 điểm: chưa biết đọc, nói và hiểu được tiếng Kinh, tự nguyện bao giờ gặp khó khăn;1 điểm: Rất ít khi gặp khó đồng ý tham gia nghiên cứu. Loại trừ bệnh nhân bị khăn; 2 điểm: thỉnh thoảng gặp khó khăn; 3 điểm: tổn thương hệ thần kinh trung ương, bị ảnh hưởng thường gặp khó khăn; 4 điểm: thường xuyên, luôn chức năng nhận thức (chậm phát triển trí tuệ, tâm luôn gặp khó khăn. Điểm đánh giá về khó khăn thần phân liệt, tự kỷ, bại não ), rối loạn cảm xúc của mỗi lĩnh vực bằng tổng điểm của tất cả các hành vi, các rối loạn về chức năng vận động hoặc mục trong lĩnh vực đó. Tổng điểm càng cao cho các bệnh thực thể mạn tính từ trước khi mắc bệnh thấy mức độ khó khăn càng cao, đồng nghĩa với bạch cầu cấp. Tổng số nhóm bệnh gồm 36 trẻ. chất lượng sống ở lĩnh vực đó càng thấp. Chất Nhóm chứng: Là những trẻ hoàn toàn khỏe lượng sống chung được đánh giá bằng tổng điểm mạnh tại thời điểm nghiên cứu có tuổi, giới và của 4 lĩnh vực. trình độ học vấn tương đương nhóm bệnh, với số Thang Peds QL 4.0 bằng tiếng Anh đã được lượng khoảng gấp 2 lần nhóm bệnh. Loại trừ ra dịch sang tiếng Việt bởi 1 bác sĩ chuyên ngành khỏi nhóm chứng những trẻ trong vòng một tháng qua có mắc bệnh cấp tính nặng phải điều trị nội trú Tâm thần trẻ em và 1 cử nhân tâm lý. Bản dịch tại bệnh viện hoặc mắc bệnh mạn tính và những tiếng Việt được 1 giáo viên có trình độ đại học trẻ có anh chị em ruột, bố mẹ bị bệnh ung thư hoặc ngoại ngữ về tiếng Anh dịch ngược lại độc lập. bệnh mạn tính. Nhóm chứng gồm 74 trẻ được Sau đó thống nhất trong nhóm dịch từng câu từ để chọn ở ba trường học là trường tiểu học Nghĩa đạt sự chính xác và phù hợp nhất về nội dung của Tân- Cầu Giấy- Hà Nội, trường tiểu học và trung thang. Tiến hành đánh giá thử nghiệm ở 15 trẻ bị học cơ sở của huyện Duy Tiên- Tỉnh Hà Nam. ung thư và đánh giá lặp lại sau 1 tuần. Nhóm dịch 2.2. Phương pháp thuật hoàn thiện lại phiên bản tiếng Việt 1 lần nữa sau đánh giá thử nghiệm. 2.2.1. Loại hình nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, so sánh bệnh - chứng. 2.2.3. Phương pháp phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm thống kê SPSS 16.0 với so sánh 2.2.2. Phương pháp đánh giá: Đối tượng phân tích các biến số nghiên cứu của 2 nhóm bệnh nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp bởi nhóm - chứng bằng phép thử 2 và Student t-test. nghiên cứu theo một qui trình thống nhất với công χ cụ đánh giá chất lượng sống trẻ em 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Công cụ đánh giá: Sử dụng thang điểm đánh giá chất lượng sống trẻ em (Pediatric Quality of 3.1. Đặc điểm đối tượng Life - PedsQL 4.0) của Bệnh viện Nhi và Trung Nhóm trẻ bệnh gồm 36 trẻ, tuổi từ 8 - 17 tuổi, tâm sức khỏe Sandiego, California [10]. Thang tuổi trung bình 11,12 ± 2,58. Đa số là học sinh tiểu điểm này được xây dựng bởi W.Varni và CS công học (75%), giới nam nhiều hơn nữ, tỷ lệ nam/ nữ bố năm 2002, đã được sử dụng rộng rãi gần đây là 3:1, 33,3% trẻ ở Hà Nội, 66,6% trẻ ở tỉnh khác. trong các nghiên cứu của Reinfjell và CS (2007) 75% là BCCL thể nguy cơ cao. 10 trẻ (27,8%) đã 47
- TẠP CHÍ NHI KHOA 2013, 6, 1 hoàn thành phác đồ điều trị, 72,2% đang trong quá Không có sự khác biệt giữa nhóm trẻ bệnh và trình điều trị. 52,8% số trẻ đã có thời gian điều trị nhóm trẻ khỏe mạnh về tuổi, giới, trình độ học vấn và theo dõi sau chẩn đoán ung thư > 24 tháng, và địa dư. thời gian trung bình là 27,07 ± 12,03. 3.2. Chất lượng sống của trẻ bị bạch cầu Nhóm chứng gồm 74 trẻ khỏe mạnh, tuổi từ 8 cấp thể lympho -17 tuổi, tuổi trung bình 11, 02 ± 2,23. 64,9% là học sinh tiểu học, 62,2% là trẻ trai, 27,03% số trẻ ở Hà 3.2.1. Chất lượng sống trong lĩnh vực thể Nội, 72,97% ở Hà Nam. chất Bảng 1. So sánh khó khăn trong lĩnh vực thể chất giữa nhóm trẻ bị BCCL và nhóm trẻ khỏe mạnh Nhóm bệnh Nhóm chứng Khó khăn về lĩnh vực thể chất (n = 36) (n = 74) p TB ± SD TB ± SD Đi lại khó khăn 0,69 ± 1,09 0,39 ± 0,52 >0,05 Chạy nhảy khó khăn 1,19 ± 1,37 0,66 ± 0,86 <0,05 Khó khăn khi tập thể dục 1,33 ± 1,33 0,66 ± 0,83 <0,05 Khó nâng vật nặng 1,75 ± 1,25 1,46 ± 1,27 >0,05 Khó khăn khi tự tắm 1,22 ± 1,29 0,07 ± 0,38 <0,001 Khó khăn khi làm việc nhà 1,58 ± 1,30 0,20 ± 0,52 <0,001 Bị đau cơ thể 1,50 ± 1,23 0,96 ± 0,96 <0,05 Sức khỏe yếu 1,78 ± 1,40 0,62 ± 0,87 <0,001 Tổng điểm 11,06 ± 6,66 5,03 ± 3,91 <0,001 Nhận xét: Điểm trung bình của thang đánh giá về khó khăn thể chất ở trẻ bị BCCL cao hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm trẻ khỏe mạnh, đặc biệt về các vấn đề: chạy nhảy, tập thể dục, tự tắm, làm việc nhà, bị đau cơ thể, sức khỏe yếu với p < 0,001. 48
- PHẦN NGHIÊN CỨU 3.2.2. Chất lượng sống trong lĩnh vực cảm xúc Bảng 2. So sánh chất lượng sống trong lĩnh vực cảm xúc giữa nhóm trẻ bị BCCL và nhóm trẻ khỏe mạnh. Nhóm bệnh (n = 36) Nhóm chứng (n = 74) Khó khăn về lĩnh vực cảm xúc p TB ± SD TB ± SD Cảm thấy sợ hoặc hoảng sợ 0,86 ± 1,15 1,05 ± 0,94 >0,05 Cảm thấy buồn hoặc chán nản 1,44 ± 1,32 1,16 ± 0,95 >0,05 Cảm thấy tức giận 1,56 ± 1,42 0,93 ± 0,85 <0,05 Khó ngủ 0,97 ± 1,16 0,80 ± 1,03 >0,05 Lo lắng 1,33 ± 1,22 0,90 ± 1,10 >0,05 Tổng điểm 6,17 ± 4,66 4,85 ± 3,12 >0,05 Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tổng điểm đánh giá các vấn đề cảm xúc ở trẻ bị BCCL so với nhóm trẻ khỏe mạnh (p>0,05). Tuy nhiên, trẻ bị BCCL hay có biểu hiện tức giận hơn so với trẻ khỏe mạnh (p<0,05). 3.2.3. Chất lượng sống trẻ bị ung thư trong lĩnh vực quan hệ bạn bè và xã hội Bảng 3. So sánh khó khăn về quan hệ bạn bè & xã hội giữa nhóm trẻ bị BCCL và nhóm trẻ khỏe mạnh Nhóm bệnh Nhóm chứng (n = 36) (n = 74) Khó khăn trong quan hệ bạn bè và xã hội p TB ± SD TB ± SD Khó thân thiện với các bạn 1,28 ± 1,36 0,30 ± 0,68 <0,001 Các bạn không muốn chơi 0,72 ± 1,14 0,59 ± 0,68 >0,05 Bị các bạn trêu chọc 0,92 ± 1,23 1,20 ± 1,05 >0,05 Không làm được những việc phù hợp lứa tuổi 1,81 ± 1,35 0,23 ± 0,69 <0,001 Khó chơi với bạn khác 0,89 ± 1,21 0,23 ± 0,61 <0,001 Tổng điểm 5,61 ± 4,15 2,55 ± 2,40 <0,001 Nhận xét: Điểm trung bình của thang đánh giá khó khăn về quan hệ bạn bè và xã hội ở trẻ bị BCCL cao hơn rất rõ rệt so với nhóm trẻ khỏe mạnh (p<0,001). Khó khăn rõ rệt của trẻ bị BCCL trong các vấn đề về quan hệ bạn bè là: khó thân thiện với các bạn, không làm được những việc mà các bạn cùng tuổi làm được, khó chơi với các bạn khác (p<0,001). 49
- TẠP CHÍ NHI KHOA 2013, 6, 1 3.2.4. Chất lượng sống trẻ trong lĩnh vực học tập Bảng 4. So sánh khó khăn trong lĩnh vực học tập giữa nhóm trẻ bị BCCL và nhóm trẻ khỏe mạnh Nhóm bệnh Nhóm chứng Khó khăn về lĩnh vực học tập (n = 36) (n= 74) p TB ± SD TB ± SD Khó tập trung học ở lớp 1,14 ± 1,29 1,11 ± 1,00 >0,05 Khó nhớ, quên nhiều trong học tập 1,14 ± 1,35 0,84 ± 0,84 >0,05 Khó theo kịp học tập 1,39 ± 1,42 0,61 ± 0,81 <0,01 Nghỉ học vì không khỏe 2,42 ± 1,20 1,04 ± 0,83 <0,001 Nghỉ học gặp bác sỹ hoặc đến bệnh viện 2,64 ± 1,20 0,92 ± 0,99 <0,001 Tổng điểm 8,72 ± 5,13 4,51 ± 3,01 <0,001 Nhận xét: Điểm trung bình của thang đánh giá về khó khăn học tập của trẻ bị BCCL cao hơn rất rõ rệt so với nhóm trẻ khỏe mạnh (p<0,001). Trẻ bị BCCL gặp khó khăn rõ rệt so với trẻ khỏe mạnh về vấn đề: khó theo kịp việc học tập đặc biệt là phải nghỉ học nhiều vì không khỏe, nghỉ học nhiều để gặp bác sĩ hoặc đến bệnh viện (p < 0,001). 3.2.5. Đánh giá chất lượng sống chung liên quan sức khỏe của trẻ bị bạch cầu cấp thể lympho Nhóm bệnh Nhóm chứng 31.56 32 28 24 20 16.89 16 11.06 12 8.72 8 5.03 6.17 4.85 5.61 4.51 2.55 4 0 Lĩnh vực g C B n T B u D H h H Q c & S K L S C Biểu đồ 1. So sánh khó khăn chung, khó khăn về các lĩnh vực của chất lượng sống giữa nhóm trẻ bị BCCL và nhóm trẻ khỏe mạnh Nhận xét: Trẻ bị BCCL có mức độ khó khăn chung về chất lượng sống cao hơn một cách có ý nghĩa so với trẻ khỏe mạnh (p<0,001). Đồng nghĩa với chất lượng sống của trẻ bị BCCL thấp hơn rõ rệt so với nhóm chứng là trẻ khỏe mạnh. 50
- PHẦN NGHIÊN CỨU 4. BÀN LUẬN của thang chất lượng sống khi đánh giá khó khăn về lĩnh vực cảm xúc của trẻ bị BCCL so với trẻ 4.1. Chất lượng sống về lĩnh vực sức khỏe khỏe mạnh (p > 0,05) (bảng 2) dẫn đến nhận định thể chất của trẻ bị BCCL trẻ bị BCCL sau 1 năm chẩn đoán và điều trị có Theo nghiên cứu của nhiều tác giả, chất lượng chất lượng sống về lĩnh vực cảm xúc bình thường sống về thể chất của trẻ em bị BCCL suy giảm như trẻ khỏe mạnh. Sự khác biệt này có thể do rõ rệt so với trẻ khỏe mạnh ở giai đoạn điều trị thời điểm đánh giá chất lượng sống về lĩnh vực tích cực [5],[9]. Landolt và CS tại Thụy Sỹ (2006) cảm xúc của chúng tôi là 27 ± 12,09 tháng. Với nghiên cứu về chất lượng sống của trẻ em bị ung khoảng thời gian này đã giúp trẻ bị BCCL thích thư sau một năm theo dõi, cũng cho biết: so với trẻ ứng và điều chỉnh cảm xúc mình ổn định hơn so em khỏe mạnh ở nhóm chứng, các trẻ em bị ung với khoảng thời gian ≤ 12 tháng sau chẩn đoán thư thời điểm 6 tuần sau chẩn đoán có nhiều than trong nghiên cứu của các tác giả trên. phiền hơn về chức năng hoạt động thể chất [3]. 4.3. Chất lượng sống về lĩnh vực quan hệ Trong nghiên cứu của chúng tôi, trẻ bị BCCL bạn bè và xã hội của trẻ bị BCCL sau một năm chẩn đoán và điều trị có khó khăn Kết quả từ bảng 3 của chúng tôi cho thấy điểm về sức khỏe thể chất nhiều hơn rõ rệt so với trẻ trung bình của thang đánh giá chất lượng sống về khỏe mạnh (p < 0,001) (bảng1). Kết quả này đồng khó khăn trong quan hệ bạn bè và xã hội của trẻ nghĩa với chất lượng sống trong lĩnh vực sức khỏe bị BCCL cao hơn rất rõ rệt so với nhóm chứng (p thể chất ở trẻ bị BCCL giảm so với trẻ khỏe mạnh cùng lứa tuổi. Như vậy, kết quả của chúng tôi hoàn < 0,001). Chứng tỏ rằng chất lượng sống ở lĩnh toàn phù hợp với những nghiên cứu trên. Ngoài vực quan hệ bạn bè và chức năng xã hội của trẻ bị ra, chúng tôi nhận thấy những khó khăn cụ thể của BCCL mặc dù đã hơn một năm sau chẩn đoán và trẻ về lĩnh vực sức khỏe thể chất là: khó khăn chạy điều trị vẫn bị suy giảm rõ so với trẻ khỏe mạnh. nhảy, tập thể dục, đặc biệt tự tắm khó khăn, khó Thực tế này cũng được ghi nhận ở nhiều làm việc nhà và có sức khỏe yếu. Điều này cho nghiên cứu của các tác giả cả châu Âu và châu Á. thấy trẻ bị BCCL cần được hỗ trợ để có thể thực Sử dụng cùng công cụ PedsQL 4.0 giống nghiên hiện được các hoạt động liên quan đến thể chất cứu của chúng tôi để đánh giá chất lượng sống như sinh hoạt, chăm sóc cá nhân, vui chơi hàng của trẻ em ung thư ở giai đoạn điều trị tấn công, ngày tại gia đình và trường lớp. nghiên cứu của các tác giả Sitaresmi (2008), Sung 4.2. Chất lượng sống về lĩnh vực cảm xúc (2010) và Reinfjell (2007) cũng đưa ra kết quả: có của trẻ bị BCCL sự giảm chất lượng sống của trẻ bị ung thư so Nghiên cứu của Landolt (2006) trên 52 bệnh nhi với nhóm chứng ở lĩnh vực hoạt động xã hội theo tuổi từ 7-15, tác giả nhận thấy so với trẻ em khỏe báo cáo của trẻ và cha mẹ trẻ [7],[9],[6]. Như vậy mạnh, trẻ em bị ung thư bị suy giảm cảm xúc rõ rệt nhận định từ nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn tại thời điểm 6 tuần sau chẩn đoán. Tại thời điểm phù hợp với các tác giả trên thế giới. Ung thư và một năm sau điều trị bệnh nhân vẫn tiếp tục suy quá trình điều trị ung thư làm suy giảm rõ rệt chất giảm chức năng cảm xúc [3]. Reinfjell (2007) cũng lượng sống về lĩnh vực quan hệ bạn bè và xã hội sử dụng thang PedsQL 4.0 như chúng tôi, nghiên của trẻ bị ung thư, kể cả giai đoạn sau chẩn đoán cứu ở 56 trẻ từ 9-16 tuổi và cho biết điểm đánh giá và điều trị nhiều năm. chất lượng sống về lĩnh vực tâm lý của trẻ bị BCCL 4.4. Chất lượng sống về lĩnh vực học tập giảm một cách có ý nghĩa so với nhóm chứng khỏe của trẻ bị BCCL mạnh theo bản tự đánh giá của trẻ [6]. Những nghiên cứu gần đây trên thế giới đều Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi khẳng định sự suy giảm chất lượng sống về học không thể hiện có sự khác biệt về điểm trung bình tập của trẻ bị ung thư sau một thời gian tương đối 51
- TẠP CHÍ NHI KHOA 2013, 6, 1 dài từ 3-12 năm, đặc biệt ở lĩnh vực học tập đối với (không tái phát bệnh) góp phần quan trọng vào trẻ trai [5],[6]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi sự ổn định trở lại chất lượng sống bình thường thấy rằng điểm trung bình của thang đánh giá khó của trẻ bị ung thư, nhiều trẻ em đã chung sống khăn học tập của trẻ bị BCCL cao hơn so với nhóm hòa bình với bệnh ung thư như với một bệnh lý chứng (p < 0,001) (bảng 4). Như vậy, kết quả của mạn tính. Đồng thời cho thấy sự cần thiết phải có chúng tôi hoàn toàn phù hợp với các tác giả trên những nghiên cứu theo dõi đánh giá chất lượng thế giới. Ung thư và quá trình điều trị bệnh ảnh sống lâu dài sau 5 năm, 10 năm cho những trẻ em hưởng làm suy giảm rõ rệt chất lượng sống về lĩnh ung thư ở Việt Nam. vực học tập của trẻ tại thời điểm một năm sau chẩn 5. KẾT LUẬN đoán và điều trị. Những khó khăn nổi bật mà trẻ thường gặp phải là: nghỉ học nhiều vì không khỏe, Trẻ điều trị BCCL với thời gian sau chẩn đoán nghỉ học nhiều để đến bệnh viện hoặc gặp bác sĩ. là 27,07 ± 12,03 tháng có chất lượng sống về lĩnh Thực tế khi tiến hành nghiên cứu chúng tôi nhận vực sức khỏe thể chất, lĩnh vực học tập, lĩnh vực thấy mặc dù phải nghỉ học nhiều nhưng một số trẻ quan hệ bạn bè và xã hội và chất lượng sống em bị ung thư vẫn học giỏi, có em vẫn là học sinh chung suy giảm rõ rệt so với trẻ khỏe mạnh. Chất giỏi 2 năm liền hoặc đứng đầu lớp. Theo Reinfjell lượng sống về lĩnh vực cảm xúc của nhóm trẻ (2007), chức năng trí tuệ của trẻ bị bạch cầu cấp này không có khác biệt so với trẻ khỏe mạnh. Từ có giảm so với nhóm trẻ khỏe mạnh nhưng vẫn những kết luận này cho thấy tầm quan trọng cần trong giới hạn bình thường [6]. phải đánh giá chất lượng sống của trẻ em ung thư • Chất lượng sống chung của trẻ bị ung thư ở nhiều thời điểm khác nhau và theo dõi lâu dài Trung bình tổng điểm của 4 lĩnh vực thể hiện sau điều trị. mức độ khó khăn chung của trẻ bị BCCL trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nhóm trẻ TÀI LIỆU THAM KHẢO khỏe mạnh (p < 0,001) (biểu đồ 1). Điều này cho thấy chất lượng sống chung của trẻ bị BCCL sau 1. Grant J et al (2006), “Health status and một năm chẩn đoán và điều trị thấp hơn rõ rệt so health-related quality of life in adolescent survivors với nhóm trẻ khỏe mạnh. of cancer in childhood”, Journal of Aldolescent Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với Health 38: 504-510 nghiên cứu của nhiều tác giả khác. Theo nghiên 2. Harila MJ et al (2010), “High Health-Related cứu của Reinfjell (2007) nhận thấy trẻ em bị bạch Quality of Life Among Long-Term survivors of cầu cấp sau 4,2 đến 12,5 năm chẩn đoán và điều Childhood Acute L ymphoblastic Leukemia”, Pediatr trị có tổng điểm về đánh giá chất lượng sống Blood Cancer: 331-336 chung giảm so với nhóm chứng khỏe mạnh [6]. 3. Landolt MA et al (2006), “Health-related Nghiên cứu của tác giả Grand (2006) cũng khẳng quality of life in children with newly diagnosed định chất lượng sống chung của trẻ sau khi hoàn cancer: a one year follow-up study”, Health and thành điều trị ung thư 4 tháng, thấp hơn so với Quality of Life Outcomes: 7525-4-63 quần thể trẻ em bình thường của Canada [1]. 4. Litzelman K et al (2011), “Quality of life Tuy nhiên, những nghiên cứu mới đây trên thế among parents of children with cancer or brain giới tập trung theo dõi trẻ em ung thư sống với thời tumors: the impact of child characteristics and gian dài hơn 5 năm sau chẩn đoán đã nhận thấy parental psychosocial factors”, Quality of Life chất lượng sống của những trẻ này không có sự Res, 9854-9862 khác biệt so với nhóm chứng khỏe mạnh [2],[8]. 5. Palacio-Vieira JA et al (2008), “Changes Điều này gợi ý yếu tố thời gian và yếu tố sức khỏe in health-related quality of life (HRQoL) in 52
- PHẦN NGHIÊN CỨU a population-based sample of children and of Life and health Status in Parity With a adolescents after 3 years of follow-up”, Qual Comparison Group”, Pediatr Blood Cancer Life Res: 1207-1215. 55: 337-343 6. Reinfjell T et al (2007), “Health related 9. Sung L et al (2010), “ Quality of life during quality of life and intellectual functioning in children active treatment for pediatric acute lymphoblastic in remission from acute lymphoblastic leukaemia”, leukemia”, International Journal of Cancer; DOI: The Author Journal: 1280-1285 10.1002/ijc.25433 7. Sitaresmi MN et al (2008), “Health-related quality of life assessment in Indonesian childhood 10. Varni JW et al (2001), “PedsQL™ 4.0: acute lymphoblastic leukemia”, Health and Quality Reliability and Validity of the Pediatric Quality of of Life Outcomes: 7525-6-96 Life Inventory™ Version 4.0 Generic Core Scales 8. Sundberg KK et al (2010), “Long-Term in Healthy and Patient Populations”, Medical Care Survivors of Childhood Cancer Report Quality 39(8): 800 - 812 ABTRACTS HEALTH-RELATED QUALITY OF LIFE IN CHILDREN WITH ACUTE LYMPHOBLASTIC LEUKAEMIA Mai TT Nguyen1, Ph.D 1.Department of Pediatrics, Hanoi Medical University, Vietnam Aim: To evaluate the health related quality of life (HRQOL) of children with acute lymphoma leukemia (ALL). Patients and Method: Health related quality of life were evaluated in 36 ALL children (mean age 11,12 ± 2,58) treated for 27,07 ± 12,03 months. As a control, 74 healthy children (mean age: 11, 02 ± 2,23) matched age, gender, education levels and geographic areas were enrolled. All children were assessed through a cross - sectional approach using the Pediatric Quality of Life Inventory (Peds QL) 4.0. Results: ALL children reported signifi cantly lower HRQOL in physical, social and school areas than those of healthy children (P < 0.001). No signifi cant difference on health related quality of life in emotional area was found between two groups (P > 0.05). Conclusions: The Peds QL 4.0 was an useful intrument for measuring Quality of Life in children with ALL. Signifi cant diffi rences in HRQOL found between two groups indicate that complex illness – treatment experience in ALL children resulted in being more vulnerable and diffi cult in many areas. The fi ndings highlight the importance of re-evaluation of health - related quality of life in children with ALL in different periods. Keywords: Quality of life, children, leukemia 53