Sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại CHILILAB năm 2011: Thực trạng và một số đề xuất
Sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại CHILILAB năm 2011: Thực trạng và một số đề xuất
Hiện nay, mô hình tiếp cận và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh đã có nhiều thay đổi so với những năm trước đây. Nghiên cứu này được thực hiện để bước đầu đưa ra bức tranh toàn cảnh của việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh (DVKCB) trong phạm vi các xã, phường thuộc cơ sở thực địa CHILILAB, Trường Đại học Y tế Công cộng (thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi định lượng để thu thập thông tin. Tổng số 1.370 hộ gia đình (HGĐ) đã được tiếp cận và phỏng vấn để tìm hiểu tình trạng ốm/bệnh trong 4 tuần trước điều tra và việc sử dụng dịch vụ KCB của từng cá nhân trong HGĐ đó. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi bị ốm/bệnh chủ yếu người dân tự mua thuốc về điều trị (54%), tiếp đến là đi KCB ngoại trú (34,8%). Tỷ lệ lượt người phải điều trị nội trú chỉ chiếm 5,2% và 8,4% mời thầy thuốc về nhà KCB. Bệnh viện thị xã là lựa chọn phổ biến nhất của người dân khi đi KCB nội trú/ngoại trú với ưu điểm đi lại thuận tiện và được thanh toán BHYT. Bên cạnh đó, lĩnh vực y tế tư nhân cũng được lựa chọn nhiều hơn khi người dân tự đi mua thuốc và KCB ngoại trú. Mặc dù tỷ lệ lượt người sử dụng thẻ BHYT khi đi KCB ngoại trú và nội trú trên địa bàn nghiên cứu chỉ đạt 41% và 62% nhưng BHYT là một trong những yếu tố quyết định đối với việc sử dụng DVKCB.
Những người có BHYT khám chữa bệnh ngoại trú và nội trú nhiều hơn và ít tự mua thuốc về điều trị hơn so với nhóm không có thẻ BHYT. Khu vực sinh sống, trình độ học vấn và tuổi cũng có liên quan đến việc lựa chọn dịch vụ và cơ sở KCB (p<0.05). Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tăng cường chất lượng dịch vụ KCB ở y tế cơ sở vẫn là ưu tiên hàng đầu để thúc đẩy người dân sử dụng DVKCB phù hợp khi bị ốm/bệnh thay cho việc tự mua thuốc điều trị, cần phát huy hiệu quả và mở rộng độ bao phủ của BHYT, giảm tình trạng vượt tuyến và chi phí KCB không cần thiết. Bên cạnh đó, cần chú trọng quản lý lĩnh vực dịch vụ KCB tư nhân và thực hiện các khảo sát sâu hơn về khả năng cung ứng dịch vụ KCB trong cả khu vực nhà nước và tư nhân và hiệu quả sử dụng dịch vụ để xây dựng kế hoạch và chính sách toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu CSSK đa dạng người dân trên địa bàn nghiên cứu
File đính kèm:
su_dung_dich_vu_kham_chua_benh_cua_nguoi_dan_tai_chililab_na.pdf
Nội dung text: Sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại CHILILAB năm 2011: Thực trạng và một số đề xuất
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại CHILILAB năm 2011: Thực trạng và một số đề xuất Lê Bảo Châu (*), Trần Hữu Bích (*), Bùi Ngọc Linh (*), Hoàng Thế Kỷ (*), Nguyễn Phương Thùy (*) Hiện nay, mô hình tiếp cận và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh đã có nhiều thay đổi so với những năm trước đây. Nghiên cứu này được thực hiện để bước đầu đưa ra bức tranh toàn cảnh của việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh (DVKCB) trong phạm vi các xã, phường thuộc cơ sở thực địa CHILILAB, Trường Đại học Y tế Công cộng (thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi định lượng để thu thập thông tin. Tổng số 1.370 hộ gia đình (HGĐ) đã được tiếp cận và phỏng vấn để tìm hiểu tình trạng ốm/bệnh trong 4 tuần trước điều tra và việc sử dụng dịch vụ KCB của từng cá nhân trong HGĐ đó. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi bị ốm/bệnh chủ yếu người dân tự mua thuốc về điều trị (54%), tiếp đến là đi KCB ngoại trú (34,8%). Tỷ lệ lượt người phải điều trị nội trú chỉ chiếm 5,2% và 8,4% mời thầy thuốc về nhà KCB. Bệnh viện thị xã là lựa chọn phổ biến nhất của người dân khi đi KCB nội trú/ngoại trú với ưu điểm đi lại thuận tiện và được thanh toán BHYT. Bên cạnh đó, lĩnh vực y tế tư nhân cũng được lựa chọn nhiều hơn khi người dân tự đi mua thuốc và KCB ngoại trú. Mặc dù tỷ lệ lượt người sử dụng thẻ BHYT khi đi KCB ngoại trú và nội trú trên địa bàn nghiên cứu chỉ đạt 41% và 62% nhưng BHYT là một trong những yếu tố quyết định đối với việc sử dụng DVKCB. Những người có BHYT khám chữa bệnh ngoại trú và nội trú nhiều hơn và ít tự mua thuốc về điều trị hơn so với nhóm không có thẻ BHYT. Khu vực sinh sống, trình độ học vấn và tuổi cũng có liên quan đến việc lựa chọn dịch vụ và cơ sở KCB (p<0.05). Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tăng cường chất lượng dịch vụ KCB ở y tế cơ sở vẫn là ưu tiên hàng đầu để thúc đẩy người dân sử dụng DVKCB phù hợp khi bị ốm/bệnh thay cho việc tự mua thuốc điều trị, cần phát huy hiệu quả và mở rộng độ bao phủ của BHYT, giảm tình trạng vượt tuyến và chi phí KCB không cần thiết. Bên cạnh đó, cần chú trọng quản lý lĩnh vực dịch vụ KCB tư nhân và thực hiện các khảo sát sâu hơn về khả năng cung ứng dịch vụ KCB trong cả khu vực nhà nước và tư nhân và hiệu quả sử dụng dịch vụ để xây dựng kế hoạch và chính sách toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu CSSK đa dạng người dân trên địa bàn nghiên cứu. Từ khóa: khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế, ngoại trú, nội trú Utilization of health care services from household's perspective in CHILILAB 2011 Le Bao Chau (*), Tran Huu Bich (*), Bui Ngoc Linh (*), Hoang The Ky (*), Nguyen Phuong Thuy (*) 36 Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2012, Số 24 (24)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Past years have seen changes in access to and utilization of health care services in Viet Nam. This study was conducted with the aim to preliminarily provide an overall situation of health examination and treatment service utilization in 7 CHILILAB communes (Chi Linh district, Hai Duong province). This is a cross-sectional study employing the qualitative research method. Interviews were conducted with a total of 1.370 households to obtain information on illness/sickness status during 4 weeks before the interview and utilization of health care services by individuals in the households. Results show that self-medication was the most popular behavior (accounting for 54% of ill/sick cases), followed by 34.8% of cases visiting health facilities for out-patient services. In-patient care and home visit by physicians accounted for 5.2% and 8.4% respectively. District hospital was selected by most people for out-patient/in-patient care services thanks to its convenience of traveling and user's fee paid by health insurance. Besides, private health sector was chosen more by those who prefer self-medication and out-patient care services. Health insurance was found as a decisive factor for health care service seeking and utilization although only 41% and 62% of the health insurance card holders in the study site used the card for out-patient and in-patient care services respectively. Respondents covered by health insurance had more in-patient and out-patient care services and less self-medication than those who are without health insurance. Residence area (urban/rural), education levels and age were also found in relation to the selection of services and facilities for health care (p<0.05). Study findings confirmed that quality improvement for health services at the district and communal level is the top priority to promote effectiveness of health care service utilization. In addition, the management of private health services should be paid more attention to control the permission and quality of service provided. Further researches should be conducted to have more concrete evidence on effectiveness of health service utilization from perspective of both the user and the provider. Key words: health care service, health examination and treatment, health insurance, in-patient, out- patient Tác giả: (*) - Ths. BS. Lê Bảo Châu: Giảng viên Bộ môn Quản lý Hệ thống Y tế, Trường Đại học Y tế Công cộng. Email: lbc@hsph.edu.vn. Điện thoại: 04 62662349 - TS. BS. Trần Hữu Bích: Phó hiệu trưởng Trường Đại học Y tế Công cộng, Giám đốc cơ sở thực địa CHILILAB - Trường Đại học YTCC. Email: thb@hsph.edu.vn. Điện thoại: 04 62662390 - CN. Bùi Ngọc Linh: trợ giảng Bộ môn Kinh tế Y tế, Trường Đại học Y tế Công cộng. Email: bnl@hsph.edu.vn. Điện thoại: 04 62662336 - CN. Hoàng Thế Kỷ: học viên cao học YTCC khóa 14, Trường Đại học Y tế Công cộng. Email: hoangtheky@gmail.com - CN. Nguyễn Phương Thùy: trợ giảng Bộ môn Quản lý Hệ thống Y tế, Trường Đại học Y tế Công cộng. Email: npt@hsph.edu.vn. Điện thoại: 04 62662349 1. Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu chức hệ thống y tế cơ sở, đặc biệt việc ra đời của Hiện nay, hệ thống chăm sóc sức khỏe (CSSK) luật BHYT với nhiều thay đổi, bổ sung trong việc ở nước ta đang phát triển đa dạng với sự tham gia thanh toán chi phí KCB bằng BHYT và mở rộng các của nhiều thành phần cùng với những thay đổi về tổ cơ sở KCB thanh toán BHYT đã khiến cho mô hình Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2012, Số 24 (24) 37
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | tiếp cận và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh loại hình dịch vụ KCB mà đối tượng đã sử dụng. (DVKCB) có nhiều thay đổi so với những năm trước Kiểm định t hai mẫu được sử dụng để so sánh các đây. Nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu: biến liên tục. Mối tương quan giữa sử dụng (1) mô tả thực trạng sử dụng DVKCB của người dân DVKCB với các yếu tố khác được xác định đơn tại 7 xã/phường trong hệ thống CHILILAB của thị biến thông qua kiểm định Khi bình phương. Phân xã Chí Linh và (2) Xác định một số yếu tố liên quan tích hồi quy logistic được áp dụng để xác định các đến việc lựa chọn và sử dụng DVKCB của người yếu tố liên quan tới việc sử dụng DVKCB của dân trên địa bàn CHILILAB như việc sử dụng thẻ người dân trong nghiên cứu. Mức ý nghĩa được BHYT, khoảng cách địa lý, chi phí KCB, chất lượng chọn là 0.05 và tỷ suất chênh OR được trình bày với dịch vụ... Dựa trên các kết quả nghiên cứu, các khoảng tin cậy 95%. khuyến nghị được đưa ra với các nhà quản lý trong lập kế hoạch và xây dựng chính sách cung ứng 3. Kết quả DVKCB đáp ứng tốt nhất nhu cầu CSSK của người Nghiên cứu đã tiếp cận và phỏng vấn được dân và phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. 1.370 hộ gia đình trên tổng số 7 xã/phường thuộc CHILILAB, trong đó tỷ lệ HGĐ ở vùng thị trấn và 2. Phương pháp nghiên cứu nông thôn tương tự nhau (52,3% và 47,7%) và tỷ lệ Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu hộ nghèo (theo phân loại của địa phương) là 5,6%. điều tra cắt ngang với cỡ mẫu là 1.380 hộ gia đình Tỷ lệ HGĐ có người ốm/bệnh trong vòng 4 tuần được chọn vào nghiên cứu dựa trên danh sách mẫu trước điều tra là 53,9%, trong đó khoảng 30% hộ có hộ gia đình của CHILILAB (CHILILAB là thành hơn 1 người ốm. viên của Mạng lưới các cơ sở thực địa quốc tế INDEPTH). Địa điểm nghiên cứu gồm 7 xã/phường 3.1. Mô hình sử dụng dịch vụ khám chữa (Văn An, An Lạc, Lê Lợi, Hoàng Tiến, Sao Đỏ, Phả bệnh khi ốm/bệnh Lại, Bến Tắm) thuộc thị xã Chí Linh - tỉnh Hải Trong tổng số 1.149 người ốm/bệnh trong 4 tuần Dương. Số liệu được thu thập từ tháng 08 đến tháng trước điều tra, chỉ có 8 người không mua thuốc hoặc 10 năm 2011 theo bộ câu hỏi đã thiết kế sẵn. KCB (chiếm 0,7%) với lý do chính là bệnh nhẹ nên Phương pháp thu thập thông tin: Nghiên cứu không cần đi khám chữa bệnh. Bảng 1 cho thấy khi thu thập thông tin về sử dụng DVKCB theo cá nhân bị ốm/bệnh, người dân chủ yếu tự mua thuốc về trong hộ gia đình. Các HGĐ được chọn vào nghiên điều trị hơn là đi khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế cứu theo phương pháp chọn ngẫu nhiên dựa trên (chiếm 54%). Tỷ lệ lượt người khám, điều trị ngoại danh sách mẫu, sau đó phỏng vấn trực tiếp chủ hộ trú chiếm 34,8% và điều trị nội trú trong 4 tuần gia đình để xác định tình trạng ốm/bệnh của từng trước điều tra chỉ chiếm 5,2%. thành viên trong 4 tuần qua và việc sử dụng Bảng 1. Sử dụng DVKCB khi ốm/bệnh của người DVKCB khi bị ốm/bệnh. Sau đó, mỗi cá nhân có dân tại Chililab năm 2011 sự kiện sử dụng DVKCB trong khoảng thời gian hồi cứu 4 tuần được phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi phù hợp với sự kiện sử dụng DV KCB của họ. Toàn bộ thông tin nghiên cứu được thu thập theo phương pháp định lượng, điều tra viên sử dụng bảng hỏi có cấu trúc gồm phiếu sàng lọc sự kiện sử dụng DVKCB và các phiếu sử dụng dịch vụ A, B, C, D tương ứng với 4 hình thức sử dụng DVKCB: (A) Tự mua thuốc về điều trị không qua KCB; (B) Mời Tự mua thuốc về điều trị khi bị ốm/bệnh: Trong thầy thuốc về nhà KCB; (C) KCB ngoại trú ; (D) tổng số 854 lượt người ốm tự mua thuốc điều trị, hầu KCB nội trú để phỏng vấn các đối tượng có sự kiện hết người dân đều lựa chọn hiệu thuốc/quầy thuốc tương ứng. tư nhân để mua thuốc khi bị ốm/bệnh (chiếm Số liệu được nhập bằng phần mềm Epi Data 3.1 khoảng 90%), chỉ có 20 lượt đến trạm y tế để mua và được quản lý và phân tích bằng phần mềm SPSS thuốc trong 4 tuần qua (chiếm 2,3%). 18.0. Số liệu được phân tích mô tả riêng theo từng Lý do chính khiến phần lớn người dân tự đi mua 38 Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2012, Số 24 (24)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | thuốc về điều trị khi bị ốm/bệnh là cho rằng bệnh nhẹ, không cần đi khám (60%), còn số khác thì mua theo đơn thuốc cũ (20%). Các rào cản khác như sợ mất thời gian chờ đợi khi đi khám bệnh và cơ sở y tế xa nhà cũng là các lý do được một số đối tượng nêu ra. Rất ít người nêu lý do về tài chính khiến họ quyết định tự đi mua thuốc mà không qua KCB. Mời thầy thuốc về nhà khám/chữa bệnh khi bị Hình 1. Tỷ lệ KCB nội trú và ngoại trú theo cơ sở ốm/bệnh: đây cũng là một hình thức KCB khá phổ cung cấp dịch vụ biến của người dân khi bị ốm/bệnh, đặc biệt ở các vùng nông thôn. Mặc dù chỉ có 52 người trong số Khám chữa bệnh nội trú: Tỷ lệ điều trị nội trú 1.141 đối tượng sử dụng dịch vụ này khi bị ốm/bệnh khi bị ốm/bệnh trong 4 tuần trước điều tra chỉ chiếm nhưng trung bình 1 người có 4,33 lượt thày thuốc 5,2% trong tổng số 1.578 lượt sử dụng DVKCB. Số đến nhà trong vòng 4 tuần để khám chữa bệnh liệu trong hình 1 cho thấy ngoài bệnh viện thị xã là (bảng 1). Ngoài lý do bệnh nhẹ và sợ mất thời gian nơi được lựa chọn nhiều nhất trong điều trị nội trú chờ đợi khi đi khám, một số đối tượng còn cho biết (43,9%), có khá nhiều người dân đi KCB nội trú tại họ lựa chọn dịch vụ này vì ít tốn kém hơn và do thói bệnh viện tỉnh và trung ương (TW) với tỷ lệ tương quen. Đối tượng cung cấp dịch vụ này hầu hết là ứng là 24,4% và 20,7%. Lý do người dân lựa chọn CBYT thôn (41,3%) và thầy thuốc tư nhân tây y BV thị xã là vì gần nhà và có thể thanh toán BHYT, (36,1%). Ở đây, việc mời thầy thuốc về nhà KCB trong khi lựa chọn BV tỉnh phần lớn với lý do được thường mang tính chất "nội bộ" trong làng, xóm và thanh toán BHYT và bệnh nặng (53% và 17%). BV cán bộ y tế thôn dường như được tín nhiệm nhất để TW cũng thường được người dân lựa chọn khi bệnh cung cấp loại hình dịch vụ này. nặng (55%) và được đánh giá cao về uy tín (50%) Khám chữa bệnh ngoại trú: đây là hành vi phổ và trình độ chuyên môn của CBYT (45%). Số liệu biến thứ hai sau tự mua thuốc khi bị ốm/bệnh của cũng cho thấy hệ thống y tế tư nhân vẫn tham gia người dân trên địa bàn nghiên cứu (34,8%) khi bị rất ít trong việc cung cấp DVKCB nội trú tại địa bàn ốm/bệnh. Trong số các cơ sở y tế công thì bệnh viện nghiên cứu. (BV) thị xã được lựa chọn nhiều hơn là trạm y tế (TYT), sau đó đến bệnh viện trung ương (TW) và 3.2. Yếu tố liên quan tới sự lựa chọn và sử cuối cùng là bệnh viện tuyến tỉnh (27,1%, 16,9%, dụng dịch vụ KCB 14,6% và 5,8%) (hình 1). Bệnh viện TW được lựa Tình trạng BHYT: Có tới 2/3 (65%) số đối tượng chọn với lý do có CBYT có chuyên môn giỏi, bệnh sử dụng dịch vụ KCB trong nghiên cứu có BHYT, viện có uy tín và vì tình trạng bệnh nặng trong khi trong đó loại BHYT bắt buộc chiếm tỷ lệ cao nhất lý do phổ biến khi lựa chọn y tế cơ sở (TYT và BV (31,7%), sau đó là BHYT tự nguyện (16,6%). Tuy thị xã) là gần nhà (42%) và có thẻ BHYT (47%). vậy, tỷ lệ lượt KCB sử dụng thẻ BHYT chỉ đạt Mặc dù hiện nay tất cả 7 xã, phường trong nghiên 62,2% khi KCB ngoại trú và 41% khi KCB nội trú. cứu đã triển khai KCB bằng BHYT nhưng dường Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt về sử như chưa thực sự thu hút được người dân đến KCB. dụng dịch vụ KCB giữa những người có BHYT và Có thể thấy vai trò của y tế tư nhân chiếm tỷ trọng không có BHYT (hình 2). Với sự khác biệt có ý khá lớn trong việc cung cấp dịch vụ KCB ngoại trú nghĩa thống kê (p<0,05), những người có BHYT của người dân ở CHILILAB (chiếm 35% lượt KCB thường sử dụng dịch vụ KCB nội trú và ngoại trú ngoại trú), tương đương với điều tra mức sống hộ gia nhiều hơn những người không có BHYT. Trong khi đình năm 2008 (38,4%) [2]. Lý do nhiều người nêu đó, những người có thẻ BHYT lại tự mua thuốc mà ra khi lựa chọn dịch vụ KCB ngoại trú tư nhân là gần không qua KCB ít hơn những người không có thẻ nhà và không mất thời gian chờ đợi (33,5% và (p<0,05). Đối với dịch vụ mời thầy thuốc về nhà 34%). Trong số các dịch vụ KCB tư nhân, hình thức KCB, có quan sát thấy sự khác biệt giữa 2 nhóm KCB do các CBYT nhà nước làm ngoài giờ hành nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê chính được nhiều người lựa chọn nhất, gần và chất (p>0,05) (Bảng 2). lượng dịch vụ tốt. Tuổi và trình độ học vấn: Sau khi lọc các đối Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2012, Số 24 (24) 39
- | TRAO ĐỔI - CHIA SẺ KINH NGHIỆM | tượng dưới 18 tuổi do đối với nhóm tuổi này, cha mẹ ngoại trú ở các cơ sở y tế công lập nhiều hơn các cơ hoặc người chăm sóc thường là người quyết định sử sở y tế tư nhân. Những người trên 60 tuổi đi khám dụng dịch vụ, phân tích cho thấy có mối liên quan chữa bệnh ngoại trú ít hơn nhưng lại điều trị nội trú có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi và trình độ học nhiều hơn nhóm dưới 60 tuổi (Bảng 2). vấn của người sử dụng dịch vụ với hành vi sử dụng Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống dịch vụ KCB, cụ thể là việc tự đi mua thuốc về điều kê giữa giới và tình trạng kinh tế (hộ nghèo/không nghèo theo phân loại của địa phương) với việc sử dụng dịch vụ KCB của người dân khi sử dụng kiểm định Khi bình phương để kiểm định từng biến. Khu vực sinh sống: Nghiên cứu cũng cho thấy có mối liên quan giữa khu vực sinh sống (nông thôn hay thành thị) với hành vi sử dụng dịch vụ KCB. Người dân ở khu vực nông thôn thường tự đi mua thuốc mà không qua KCB nhiều hơn người dân ở Hình 2.Tỷ lệ có thẻ BHYT trong các đối tượng sử khu vực thành thị. Ngược lại, người dân sống tại các dụng DV KCB khi ốm/bệnh phường thường đi khám bệnh ngoại trú và nội trú khi bị ốm/bệnh hơn người dân ở xã. Sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05) (Bảng 2). trị, KCB nội trú và ngoại trú (p<0,05) . Những người có trình độ học vấn cao thì tỷ lệ tự điều trị bằng cách Bàn luận đi mua thuốc thấp và có xu hướng khám chữa bệnh Tỷ lệ người dân không có bất cứ hành vi tìm Bảng 2. Mô hình hồi quy logistics về mối liên quan kiếm dịch vụ y tế nào khi bị ốm/bệnh trong nghiên giữa tự mua thuốc không qua KCB, KCB cứu rất thấp (0,7%) so với 2,9% theo điều tra tại 5 ngoại trú và nội trú khi ốm/bệnh và một tỉnh Tây Nguyên tiến hành năm 2009 bởi Viện số yếu tố dân số học và việc tham gia chiến lược và Chính sách y tế) [2] cho thấy người BHYT dân tại Chí Linh có ý thức khá tốt trong việc tìm kiếm các dịch vụ khám và điều trị khi bị ốm/bệnh. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tự mua thuốc về điều trị không qua KCB vẫn là cách xử lý phổ biến nhất của người dân khi có vấn đề về sức khỏe, tuy nhiên, so với điều tra tương tự tiến hành trên cùng địa bàn, sau hơn 5 năm, đã có sự chuyển dịch trong mô hình sử dụng dịch vụ KCB khi tỷ lệ tự mua thuốc đã giảm đi và tỷ lệ khám chữa bệnh ngoại trú Hình 3. So sánh xu hướng sử dụng DVKCB tại CHILILAB năm 2006 và 2011 40 Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2012, Số 24 (24)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | tăng lên, dù chưa nhiều (hình 3). Đây là một thay để đảm bảo tuân thủ quy định của Nhà nước hầu như đổi đáng khích lệ khi người dân đã có ý thức hơn chưa được thực hiện. Trong khi đó, việc cung cấp trong việc đi khám, chữa bệnh để được chẩn đoán dịch vụ KCB nội trú tại địa bàn nghiên cứu hầu như và kê đơn phù hợp. vẫn do y tế công đảm nhiệm, không có sự thay đổi Về địa điểm mua thuốc, nghiên cứu cho thấy tỷ qua các năm. Dịch vụ KCB theo tây y là sự lựa chọn lệ mua thuốc tại TYT xã/phường rất thấp và chủ phổ biến hơn rất nhiều so với dịch vụ KCB bằng y yếu mua tại quầy thuốc/hiệu thuốc tư nhân (2,9% học dân tộc/đông y (Hình 1). và 90%). Kết quả này khác biệt khá lớn so với kết Kết quả phân tích về mối liên quan giữa việc quả nghiên cứu của Trần Thị Bích Hồi năm 2008 tham gia BHYT, tuổi, trình độ học vấn và nơi sinh tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng trong đó tỷ lệ mua thuốc sống của đối tượng nghiên cứu với hành vi sử dụng ở trạm y tế xã lên tới 65,1% và quầy thuốc tư chỉ dịch vụ KCB khi ốm/bệnh khá tương đồng với phát có 27,7% [5]. Có lẽ những ưu điểm do gần nhà, giờ hiện của nhiều nghiên cứu khác [3,4,5,6,9,10]. Rất mở cửa thuận tiện, đa dạng chủng loại, giá cả và nhiều người chọn bệnh viện thị xã để KCB vì lý do hình thức thanh toán linh hoạt khiến cho các cơ sở được thanh toán BHYT và gần nhà. Tuy nhiên, điều dược tư nhân chiếm ưu thế hơn hẳn quầy thuốc của đáng quan tâm ở đây là có một tỷ lệ không nhỏ trạm y tế. Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu người dân có thẻ BHYT nhưng không sử dụng để cũng chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu về các khía được miễn giảm chi phí (đi KCB tại các cơ sở y tế cạnh kinh doanh dược phẩm tại địa bàn nghiên cứu tư nhân, tự đi mua thuốc ) và tỷ lệ sử dụng thẻ (chất lượng thuốc, công tác quản lý, giấy phép BHYT khi KCB ngoại trú và nội trú chỉ đạt 41% và hành nghề, ) để có thể đưa ra các khuyến nghị cụ 62,2%. Có lẽ bên cạnh yếu tố kinh tế, chất lượng thể hơn. chuyên môn của cơ sở y tế đang trở nên quan trọng Hình thức mời thầy thuốc về nhà KCB cũng khá hơn trong lựa chọn cơ sở cung cấp dịch vụ vì mặc được ưa thích bởi tính thuận tiện và thoải mái cho dù tỷ lệ sử dụng BHYT ở tuyến tỉnh và TW là thấp người ốm/bệnh mặc dù người bệnh phải chi trả hoàn nhất nhưng vẫn có sự gia tăng việc sử dụng dịch vụ toàn chi phí dù có thẻ BHYT (tỷ lệ có thẻ BHYT tại tuyến này. Lý do "giá rẻ" không được nhiều đối chiếm tới 62%). Đặc biệt, cán bộ y tế thôn dường như tượng nghiên cứu chọn lựa để giải thích cho việc lựa rất được tín nhiệm khi tỷ lệ người dân mời CBYT thôn chọn cơ sở KCB, dù là tuyến cơ sở hay tuyến cao về KCB tại nhà tăng lên rất nhiều (năm 2005-2006 chỉ hơn. Ngoài ra việc chờ đợi lâu, thiếu nhiệt tình của có 17,8% lượt KCB tại nhà đến năm 2011 chiếm CBYT cũng là một trong những nguyên nhân khiến 41,3%) trong khi cán bộ y tế nhà nước lại ít được lựa người dân ưa thích dịch vụ KCB tư nhân hơn. chọn hơn (giảm từ 36,1% xuống còn 18%) [3]. Đối với KCB ngoại trú và nội trú, bệnh viện thị 4. Kết luận và khuyến nghị xã là lựa chọn phổ biến nhất của người dân trong đó Kết luận tỷ lệ lượt người sử dụng dịch vụ nội trú tại cơ sở này Kết quả nghiên cứu cho thấy hiện nay trên địa cao hơn ngoại trú (hình1). Trong khi đó, tỷ lệ lượt bàn nghiên cứu, chủ yếu người dân tự điều trị bằng người chọn bệnh viện tuyến TW để KCB ngoại trú thuốc và khám chữa bệnh ngoại trú khi bị ốm/bệnh. đã gia tăng gấp đôi so với khảo sát năm 2005-2006 Tỷ lệ lượt người điều trị nội trú và mời thầy thuốc (14,6% so với 7,3%) [3]. Bên cạnh đó, hơn 1/3 lượt về nhà là rất thấp. Bệnh viện thị xã là lựa chọn phổ người lại chọn KCB ngoại trú tại cơ sở y tế tư nhân, biến nhất của người dân khi đi KCB nội trú/ngoại trong đó, hình thức KCB do các CBYT nhà nước trú với ưu điểm đi lại thuận tiện và được thanh toán làm ngoài giờ hành chính được nhiều người lựa chọn BHYT. Bên cạnh đó, lĩnh vực y tế tư nhân cũng hơn cả vì tính thuận tiện (không mất thời gian chờ được lựa chọn nhiều hơn khi người dân tự đi mua đợi (40%), gần nhà (34%) và chất lượng dịch vụ tốt thuốc và KCB ngoại trú. Mặc dù tỷ lệ lượt người sử (thái độ nhiệt tình (21%), trình độ chuyên môn giỏi dụng thẻ BHYT khi đi KCB ngoại trú và nội trú trên (21%). Tuy vậy, hình thức KCB này thường mang địa bàn nghiên cứu chỉ đạt 41% và 62% nhưng tính chất "làm thêm" nên cơ sở vật chất, trang thiết BHYT là một trong những yếu tố quyết định đối với bị còn nhiều hạn chế, thường kết hợp KCB và bán việc sử dụng DVKCB. Những người có BHYT thuốc, nhiều cơ sở chưa có giấy phép hành nghề và khám chữa bệnh ngoại trú và nội trú nhiều hơn và việc quản lý thời gian làm ngoài giờ của các CBYT ít tự mua thuốc về điều trị hơn so với nhóm không Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2012, Số 24 (24) 41
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | có thẻ BHYT. Khu vực sinh sống, trình độ học vấn và đáp ứng nhu cầu KCB đa đạng của người dân. và tuổi cũng có liên quan đến việc lựa chọn dịch vụ Cuối cùng, cần có khảo sát sâu hơn để xác định và cơ sở KCB (p<0.05). năng lực cung cấp dịch vụ của các cơ sở KCB trên Khuyến nghị địa bàn thuộc cả lĩnh vực nhà nước và tư nhân một cách đầy đủ cũng như hiệu quả sử dụng dịch vụ của Việc tăng cường chất lượng dịch vụ KCB tại y người dân để cung cấp các bằng chứng đầy đủ hơn tế cơ sở (trạm y tế và bệnh viện thị xã) vẫn là ưu cho xây dựng chiến lược/chính sách KCB trên địa tiên hàng đầu để thu hút hơn nữa người dân đến sử bàn nghiên cứu. dụng dịch vụ KCB, giảm tình trạng tự mua thuốc và KCB tại các cơ sở không hợp pháp, phát huy hiệu quả của BHYT, giảm các chi phí không cần thiết do Lời cảm ơn việc KCB vượt tuyến. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Chính quyền và Bên cạnh đó, cần tăng cường quản lý dịch vụ nhân dân thị xã Chí Linh, Văn phòng thực địa của khu vực y tế tư nhân, hỗ trợ nâng cao trình độ CHILILAB cùng đội ngũ điều tra viên, giám sát viên, chuyên môn của các cơ sở này và có cơ chế quản lý nhập liệu viên đã tham gia, thu thập, cung cấp số liệu chặt chẽ để đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp và hỗ trợ chúng tôi thực hiện nghiên cứu này. Tài liệu tham khảo 6. Lê Thục Lan (2009), Nghiên cứu tính công bằng trong sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân xã Tứ Cường, 1. Bộ Y tế - Tổng cục Thống kê (2003), Thực trạng các mục huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, Luận văn Thạc sỹ tiêu y tế quốc gia, Điều tra y tế quốc gia 2001-2002, Hà Nội YTCC, Đại học YTCC 2. Bộ Y tế - Viện chiến lược và chính sách y tế (2009), Báo 7. Nguyễn Thị Thanh, Trần Thị Mai Oanh, Khương Anh cáo đánh giá tác động nội dung hỗ trợ cho người nghèo của Tuấn, Nguyễn Phương Hạnh (2006), Những yếu tố chính dự án chăm sóc sức khỏe nhân dân các tỉnh Tây Nguyên, Hà ảnh hưởng tới việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại hai Nội. trạm y tế xã ở một huyện của Hải Phòng, Viện chiến lược và chính sách y tế, Hà Nội. 3. Nguyễn Thị Hồng Hà (2006), Nghiên cứu sử dụng dịch vụ y tế tại Chí Linh, Hải Dương, Báo cáo nghiên cứu, Đại học 8. Tổng cục thống kê (2008), Kết quả khảo sát mức sống hộ Y tế Công cộng gia đình năm 2008, Nhà xuất bản thống kê. 4. Nguyễn Văn Hòa (2001), Nghiên cứu thói quen tìm kiếm 9. Chu Văn Tuyến (2004), Mô tả thực trạng sử dụng dịch vụ và sử dụng DVKCB trong CSSK của người dân Sóc Sơn, Hà khám chữa bệnh của người dân trạm y tế xã Tân Trào, huyện Nội, Luận văn thạc sỹ y tế công cộng, Đại học Y Hà Nội. Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, Luận văn Thạc sỹ YTCC, Đại học YTCC. 5. Trần Thị Bích Hồi (2008), Nghiên cứu tình hình sử dụng dịch vụ y tế của nhân dân huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, Đại 10. Đinh Mai Vân (2005), Thực trạng cung cấp và sử dụng học y Hải Phòng. dịch vụ khám chữa bệnh ở trạm y tế xã tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Luận văn Thạc sỹ YTCC, Đại học YTCC. 42 Tạp chí Y tế Công cộng, 4.2012, Số 24 (24)