Sự bùng phát dịch HIV ở người nghiện chích ma túy trẻ ở Quảng Ninh: Các yếu tố nguy cơ nhiễm HIV
Mục tiêu của nghiên cứu là nhằm mô tả các yếu tố nguy cơ nhiễm HIV ở thanh niên nghiện chính ma tuý ở tỉnh Quảng Ninh - Việt Nam. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp điều tra ngang tiến hành ở người nghiện chích ma tuý (NCMT) ở vùng đô thị của tỉnh Quảng Ninh (Thành phố Hạ Long và thị xã Cẩm Phả) vào tháng 4/2000. Tổng số 602 người người nghiện chích ma tuý đã được lựa chọn bằng kỹ thuật "Hòn tuyết lăn", sau đó được xét nghiệm và phỏng vấn về HIV. Các yếu tố tiên đoán về tình trạng nhiễm HIV đã được xác định bằng phân tích hồi quy đơn biến và đa biến. Nghiên cứu đã đưa ra kết quả : 99,2% người nghiện chích ma tuý là nam giới và 57% dưới 20 tuổi. (Tuổi trung bình là 20,3; SD = 4,8). Tỷ lệ nhiễm HIV ở người nghiện chích ma tuý là 32%. 50,7% người nghiện chích ma tuý đã Báo cáo có dùng chung bơm kim tiêm trong 6 tháng qua. Tỷ lệ dùng bao cao su thường xuyên với gái mại dâm trong 12 tháng qua là 39,6%. Tình trạng nhiễm HIV có liên quan với các yếu tố sau: Trên 20 tuổi, có nghề nghiệp, tiêm chích ma tuý hơn 2 năm, tiêm chích ma tuý hơn 14 lần một tuần, dùng lại bơm kim tiêm đã dùng và đã từng ở trung tâm cai nghiện, đã từng có sinh hoạt tình dục. Qua phân tích đa biến, những yếu tố tiên đoán tình trạng nhiễm HIV là : Trên 20 tuổi, tiêm chích hơn 14 tuần mỗi lần, và tiêm chích hơn 3 năm.
Từ kết quả nghiên cứu trên, nhóm nghiên cứu đã kết luận: Người nghiện chích ma tuý ở Quảng Ninh là rất trẻ, có tỷ lệ nhiễm HIV cao, và có nhiều hành vi nguy cơ cao nhiễm HIV. Xây dựng môi trường hỗ trợ trong việc thay đổi hành vi là cần thiết. Về lâu dài, cần phải có chiến lược dự phòng sử dụng ma tuý và nghiện chích ma tuý trong thanh niên
File đính kèm:
su_bung_phat_dich_hiv_o_nguoi_nghien_chich_ma_tuy_tre_o_quan.pdf
Nội dung text: Sự bùng phát dịch HIV ở người nghiện chích ma túy trẻ ở Quảng Ninh: Các yếu tố nguy cơ nhiễm HIV
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Sự bùng phát dịch HIV ở người nghiện chích ma túy trẻ ở Quảng Ninh: Các yếu tố nguy cơ nhiễm HIV Nguyễn trần Hiển1, Vũ văn Tâm2, Nguyễn văn Thích3, Tôn Thất Bách1 Mục tiêu của nghiên cứu là nhằm mô tả các yếu tố nguy cơ nhiễm HIV ở thanh niên nghiện chính ma tuý ở tỉnh Quảng Ninh - Việt Nam. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp điều tra ngang tiến hành ở người nghiện chích ma tuý (NCMT) ở vùng đô thị của tỉnh Quảng Ninh (Thành phố Hạ Long và thị xã Cẩm Phả) vào tháng 4/2000. Tổng số 602 người người nghiện chích ma tuý đã được lựa chọn bằng kỹ thuật "Hòn tuyết lăn", sau đó được xét nghiệm và phỏng vấn về HIV. Các yếu tố tiên đoán về tình trạng nhiễm HIV đã được xác định bằng phân tích hồi quy đơn biến và đa biến. Nghiên cứu đã đưa ra kết quả : 99,2% người nghiện chích ma tuý là nam giới và 57% dưới 20 tuổi. (Tuổi trung bình là 20,3; SD = 4,8). Tỷ lệ nhiễm HIV ở người nghiện chích ma tuý là 32%. 50,7% người nghiện chích ma tuý đã báo cáo có dùng chung bơm kim tiêm trong 6 tháng qua. Tỷ lệ dùng bao cao su thường xuyên với gái mại dâm trong 12 tháng qua là 39,6%. Tình trạng nhiễm HIV có liên quan với các yếu tố sau: Trên 20 tuổi, có nghề nghiệp, tiêm chích ma tuý hơn 2 năm, tiêm chích ma tuý hơn 14 lần một tuần, dùng lại bơm kim tiêm đã dùng và đã từng ở trung tâm cai nghiện, đã từng có sinh hoạt tình dục. Qua phân tích đa biến, những yếu tố tiên đoán tình trạng nhiễm HIV là : trên 20 tuổi, tiêm chích hơn 14 tuần mỗi lần, và tiêm chích hơn 3 năm. Từ kết quả nghiên cứu trên, nhóm nghiên cứu đã kết luận: Người nghiện chích ma tuý ở Quảng Ninh là rất trẻ, có tỷ lệ nhiễm HIV cao, và có nhiều hành vi nguy cơ cao nhiễm HIV. Xây dựng môi trường hỗ trợ trong việc thay đổi hành vi là cần thiết. Về lâu dài, cần phải có chiến lược dự phòng sử dụng ma tuý và nghiện chích ma tuý trong thanh niên. The study’s objective is to describe HIV infection risk factors among young injecting drug users (IDUs) in two urban areas in Quang Ninh province (Ha Long city and Cam Pha town) in April 2000 by a cross-sec- tion study. As many as 602 IDUs were chosen by "snow ball" technique, and after that, they were tested for HIV and interviewed. The study used simple and multiple regression analysis to identify predictive factors of HIV infection. It was found that 99,2% of IDUs are men and 57% are under 20 years old. (Medium age: 20,3; SD=48). 32% of IDUs are HIV infected, 50,7% reported that they had needle sharing for over last 6 months, and 39,6% used condom regularly when having sexual intercourse with sex workers over the last 12 months. HIV infection is related to the following factors: being more than 20 years old, being empoyed, having drug injecting practice for over more than two years, practising drug injection more than 14 times per week, reusing injection needles, having attended in rehabiliation centers, having been involved in sex- sual activities. By using multiple regression analysis, factors used to predict HIV infection are: being more than 20 years old, practising drug injection more than 14 times per week, having drug injecting practice for over more than 3 years. In conclusion, IDUs in Quang Ninh are very young and have many high risk behav- iors. It is necessary to build a supportive environment for their behavior change. In the long-term, it is nec- essary to develop drug use/injecting drug use prevention strategy for young people. 32 Tạp chí Y tế công cộng, 8.2004, Số 1 (1)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Đặt vấn đề nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện ở Quảng Ninh Ở nhiều nước trên thế giới, nghiện chích ma vào năm 1994 ở gái mại dâm. Trong các năm 1995 tuý (NCMT) là phương thức chủ yếu làm lan và 1996 không phát hiện thêm được trường hợp truyền HIV. Theo các ước tính gần đây của nào, nhưng đến tháng 3/1997, nhiễm HIV tăng chương trình phòng chống HIV/ AIDS của Liên nhanh ở người NCMT. Tính đến 30/4/2001, tổng hiệp quốc (UNAIDS) có khoảng 5 - 10 triệu người số 3.567 người nhiễm HIV đã được báo cáo ở NCMT ở 128 nước trên thế giới, trong đó 114 nước Quảng Ninh, chiếm 10% tổng số người nhiễm HIV đã báo cáo có dịch HIV ở những người NCMT1. cao nhất trên 100.000 dân. Thành phố Hạ Long và NCMT đóng vai trò quan trọng cho việc xuất hiện thị xã Cẩm Phả là những nơi có nhiều người nhiễm và lan tràn dịch HIV. Sự lan truyền HIV qua dùng HIV nhất, chiếm hơn 70% các trường hợp nhiễm chung bơm kim tiêm và gây nên bùng phát những HIV của tỉnh. Hầu hết những người nhiễm HIV là vụ dịch HIV ở người NCMT2 đã được báo cáo ở người NCMT. Kết quả giám sát trọng điểm cho Bắc Mỹ và Tây Âu trong những năm của thập kỷ thấy rằng tỷ lệ nhiễm HIV ở người NCMT tăng 803. Trong các thập kỷ qua hai khu vực có xảy ra nhanh từ 0% năm 1996 đến 40% năm 1997 và 66% sự lan truyền nhanh dịch HIV là Đông Nam châu năm 1998. Tỷ lệ nhiễm HIV vẫn còn thấp ở những Á (từ năm 1986) và các nước vừa tách ra từ Liên nhóm quần thể khác. Do đó, chúng tôi tiến hành bang Xô Viết (từ năm 1995)3. Ở khu vực châu Á nghiên cứu này nhằm mục tiêu xác định các yếu và Tây Thái Bình Dương, đã xảy ra những vụ dịch tố nguy cơ nhiễm HIV ở người NCMT ở Quảng HIV lớn ở quần thể người NCMT ở Thái Lan, Ninh, từ đó đưa ra các chiến lược làm giảm nguy Myanmar, Ấn Độ, Malaysia, Trung Quốc và Việt cơ lan truyền HIV ở Quảng Ninh nói riêng và ở Nam. Ở một số thành phố, tỷ lệ nhiễm HIV ở Việt Nam nói chung. người NCMT đã vượt quá 40% sau một năm dịch xuất hiện. Tỷ lệ nhiễm HIV ở người NCMT ở khu Phương pháp vực Đông Nam châu Á đã được báo cáo là cao - Thiết kế nghiên cứu là điều tra cắt ngang, nhất trên thế giới4. vào thời điểm tháng 4/2000. Ở Việt Nam, trường hợp nhiễm HIV đầu - Địa điểm nghiên cứu là thành phố Hạ tiên đã được phát hiện vào năm 1990. Dịch HIV Long và thị xã Cẩm Phả là nơi có số người NCMT đã tăng nhanh, chủ yếu là ở người NCMT từ năm và nhiễm HIV cao nhất ở Quảng Ninh. 1993. Cho đến năm 1996, tỷ lệ nhiễm HIV ở người - Đối tượng nghiên cứu là người đã và đang NCMT cao chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh, và tiêm chích ma tuý trong 6 tháng qua trước thời ở nhiều tỉnh phía Nam. Nhưng từ năm 1997, có sự điểm điều tra. tăng nhanh tỷ lệ nhiễm HIV ở người NCMT ở - Chọn mẫu nghiên cứu : Mỗi khu vực Hạ nhiều tỉnh phía Bắc như Lạng Sơn, Quảng Ninh và Long và Cẩm Phả được phân thành 3 tầng: khu Hải Phòng5-6. Vào cuối năm 2000, tổng số 32.359 vực buôn bán, khu vực khai thác than và khu vực người nhiễm HIV đã được báo cáo ở Việt Nam, giáp ranh giữa thành phố và nông thôn. Tại mỗi 64% là người NCMT, 4.094 bệnh nhân AIDS và tầng, chọn ngẫu nhiên một phường. Tại mỗi 1.259 người chết vì AIDS. Tuy nhiên, con số ước phường chọn 100 người NCMT theo kỹ thuật "Hòn tính là 118.000 người nhiễm HIV trong đó 21.000 tuyết lăn". Tiến hành phỏng vấn cá nhân dựa trên là NCMT vào cuối năm 20007. bộ câu hỏi của Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) đã Quảng Ninh là một tỉnh ở phía Bắc Việt được chỉnh lý cho phù hợp. Bộ câu hỏi bao gồm Nam, giáp biên giới với tỉnh Quảng Tây của Trung các phần: Đặc trưng cá nhân và nhân khẩu học, Quốc, nơi mà tỷ lệ nhiễm HIV cũng tăng nhanh và thực hành sử dụng ma tuý trong 6 tháng qua, thực cao. Tỉnh Quảng Ninh có dân số khoảng 1 triệu hành tình dục và tiền sử mắc các bệnh lây truyền người với diện tích 610 km2 bao gồm 1 thành phố, qua đường tình dục, kiến thức và nhận thức về 2 thị xã và 11 huyện. Hai ngành công nghiệp chính HIV/AIDS. Điều tra viên là cán bộ y tế, là những của Quảng Ninh là khai thác than và du lịch. người có nhiều kinh nghiệm trong điều tra về sức Quảng Ninh được coi là tỉnh có tỷ lệ nhiễm HIV khoẻ và có mối quan hệ tốt với những người tăng nhanh và cao nhát ở Việt Nam cũng như so NCMT thông qua các hoạt động chăm sóc sức với các nước khác trong khu vực. Trường hợp Tạp chí Y tế công cộng, 8.2004, Số 1 (1) 33
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | khoẻ. Họ cũng được tập huấn hai ngày về phương Bảng 1: Các đặc trưng nhân khẩu học của người pháp lựa chọn và phỏng vấn đối tượng điều tra NCMT ở tỉnh Quảng Ninh năm 2000 cũng như cách hạn chế các sai số hệ thống trong quá trình điều tra. Giáo dục viên đồng đẳng tiếp cận người NCMT ở đường phố, giải thích mục tiêu điều tra và động viên họ tham gia nghiên cứu. Phương pháp giấu tên vô danh cũng được áp dụng. Mỗi đối tượng điều tra đều được nhận một mã số để họ có thể quay lại nhận kết quả xét nghiệm nếu họ muốn. Đồng thời với phỏng vấn, mỗi đối tượng điều tra được lấy 2ml máu tĩnh mạch để xét nghiệm HIV. Phương cách xét nghiệm II của TCYTTG đã được áp dụng. Một mẫu máu được coi là dương tính nếu có dương tính với cả hai xét nghiệm với hai loại sinh phẩm khác nhau : Ngưng kết hạt (SFD HIV 1/2 PA Sanofi Fujirebio) và miễn dịch hấp thu men ELISA (GENSCREEN HIV 1/2, Sanofi, Diagnostics Pasteur, France). - Phương pháp phân tích số liệu Bảng 2 trình bày thực hành tiêm chích ma Số liệu được đưa vào máy tính sử dụng phần tuý của người NCMT. Hầu hết họ tiêm heroin, bắt mềm EPI - INFO, 6.04, sau đó được phân tích bằng đầu sử dụng ma tuý trước 20 tuổi. Lý do chủ yếu phần mềm SPSS 7.0. Do có sự khác biệt về địa dư, của việc sử dụng ma tuý là thử cho biết và bị bạn số liệu cũng được phân tích theo thành phố và thị bè rủ rê. Thời gian chuyển từ hút sang chích trung xã. Kiểm định khi bình phương được áp dụng để so bình là 6-8 tháng (SD = 8,5). Lý do chuyển từ hút sánh các biến định tính và kiểm định Mann sang tiêm chích ma tuý là tiêm chích rẻ hơn, phê Whitney được sử dụng để so sánh các biến liên hơn và đua theo bạn bè. Đa số tiêm chích ngoài tục. Sự kết hợp giữa HIV dương tính và các yếu tố đường phố (67,1%). Gần một nửa (47,3%) tiêm nguy cơ được xác định đơn biến thông qua kiểm chích hơn 7 lần mỗi tuần (Trung bình 7,9; SD = định khi bình phương. 5,9). Đa số người NCMT đã tiêm chích mới gần Phân tích hồi qui logistic đã được áp dụng để đây, trung bình 1,8 năm (SD = 0,8) với tỷ lệ 46,7% xác định các yếu tố tiên đoán (predictor) nhiễm bắt đầu tiêm chích ma tuý trong năm vừa qua, và HIV. Tất cả các biến có giá trị p<0,20 đã được đưa 71,1% tiêm chích trong 2 năm vừa qua. Tỷ lệ vào phân tích mô hình đa biến. Sự lựa chọn các biến người NCMT sử dụng lại bơm kim tiêm đã dùng đã dựa trên lựa chọn tiến từng bước (forward step- rồi là 69% trong năm qua và 51% dùng lại bơm wise). Mức ý nghĩa được chọn là 0,05, và tỷ suất kim tiêm trong 6 tháng qua. Người NCMT ở thị xã chênh (OR) được trình bày với khoảng tin cậy 95%. Cẩm Phả bắt đầu sử dụng ma tuý sớm hơn, số tiêm chích mới gần đây nhiều hơn, tiêm chích ngoài đường phố nhiều hơn, số lần tiêm chích mỗi tuần Kết quả thấp hơn và dùng chung bơm kim tiêm nhiều lần Các đặc trưng nhân khẩu học của quần thể hơn so với người NCMT ở thành phố Hạ Long nghiên cứu được trình bày ở Bảng 1. Hầu hết đối (Bảng 2). tượng nghiên cứu là nam giới, chưa lập gia đình, Hành vi tình dục của người NCMT được hiện sống với cha mẹ, thất nghiệp (bao gồm cả trình bày ở Bảng 3. Đa số (61,5%) đã từng có quan học sinh hiện đang đi học), và đã sống ở thành phố hệ tình dục, trong số đó, 71% đã có quan hệ tình này hơn 10 năm. Hơn một nửa dưới 20 tuổi (trung dục lần đầu tiên dưới 20 tuổi. Khoảng một nửa đã bình là 20,3 và SD=4,8). Người NCMT ở thị xã có quan hệ tình dục trong tháng qua, trong số họ Cẩm Phả trẻ hơn, trình độ học vấn thấp hơn, và 61,7% đã có quan hệ tình dục với gái mại dâm hiện đang đi học nhiều hơn (Bảng 1). (GMD). Sử dụng bao cao su trong lần gần đây nhất 34 Tạp chí Y tế công cộng, 8.2004, Số 1 (1)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Bảng 2: Thực hành tiêm chích ma túy của người Bảng 3: Thực hành tình dục của người NCMT ở NCMT ở tỉnh Quảng Ninh năm 2000 tỉnh Quảng Ninh năm 2000 với GMD là 53%, và thấp hơn với các loại tình Bảng 4: Kiến thức và nhận thức về HIV/AIDS khác. Tỷ lệ người luôn sử dụng bao cao su trong 12 của người NCMT ở tỉnh Quảng Ninh năm 2000 tháng qua là 16,2% với bạn tình thường xuyên, 16,7% với bạn tình bất chợt và 39,6% với GMD. ở thị xã Cẩm Phả, tỷ lệ người NCMT đã từng có quan hệ tình dục nhiều hơn, và có tần số quan hệ tình dục với GMD cao hơn so với người NCMT ở thành phố Hạ Long (Bảng 3). Kiến thức và nhận thức về HIV/AIDS được trình bày ở bảng 4. Nhìn chung, người NCMT ở Quảng Ninh có kiến thức tương đối tốt về HIV/AIDS, những hiểu biết đúng về dự phòng HIV vẫn còn thấp (trả lời đúng cả ba cách phòng lây truyền HIV, luôn sử dụng bao cao su, thuỷ chung và sử dụng bơm kim tiêm sạch). Hơn hai phần ba nhận thức được hành vi nguy cơ do dùng chung bơm kim tiêm và 88% nhận thức được nguy cơ do dùng bơm kim tiêm. Các chương trình dự phòng HIV chỉ đến được một số ít người NCMT - người NCMT ở thị xã Cẩm Phả có kiến thức về dự Tạp chí Y tế công cộng, 8.2004, Số 1 (1) 35
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | phòng HIV thấp hơn, đã thay đổi hành vi ít hơn và giám sát trọng điểm HIV (31% so với 66%). Sự được tiếp cận chương trình dự phòng HIV ít hơn so khác biệt có thể là do những người NCMT ở trong với người NCMT ở thành phố Hạ Long (bảng 4). giám sát trọng điểm được chọn ở trong trung tâm Tỷ lệ hiện nhiễm HIV nói chung ở người cai nghiện và trại giam, là người có hành vi nguy NCMT là 32%. Không có sự khác biệt về tỷ lệ hiện cơ cao hơn và nhiều tuổi hơn. Trong khi đó, trong nhiễm HIV giữa hai khu vực. Tỷ lệ hiện nhiễm nghiên cứu của chúng tôi, người NCMT được chọn HIV là 35% ở thành phố Hạ Long, và 28,8% ở thị theo phương pháp "Hòn tuyết lăn", do đó những xã Cẩm Phả. Bảng 5 trình bày các nguy cơ nhiễm người NCMT trẻ hơn, và khó tiếp cận hơn đã được HIV ở người NCMT. Nhiễm HIV có liên quan với chọn vào nghiên cứu. Như nhiều nước châu Á, sự tuổi trên 20, thất nghiệp, bắt đầu tiêm chích lúc bùng nổ dịch HIV ở Quảng Ninh là do hậu quả hơn 20 tuổi, tiêm chích ma tuý hơn 2 năm ở Cẩm thay đổi của các yếu tố kinh tế xã hội. Đó là sự Phả, hơn 3 năm ở Hạ Long, tiêm chích nhiều hơn 7 xuất hiện loại ma tuý mới, tăng buôn bán ma tuý, lần mỗi tuần ở Cẩm Phả và hơn 14 lần mỗi tuần ở di dân, nghèo đói, chuyển từ hút sang chích hero- thành phố Hạ Long, dùng lại bơm kim tiêm ở Hạ in, người NCMT trẻ hơn và có hành vi nguy cơ cao Long, đã từng ở trung tâm cai nghiện thành phố (ở hơn. Hơn 100.000 người nghiện ma tuý đã được Cẩm Phả); đã từng có quan hệ tình dục (ở Hạ báo cáo vào cuối năm 2000 ở Việt Nam. Tỉnh Long); và tuổi có quan hệ tình dục lần đầu là hơn Quảng Ninh nổi tiếng với du lịch và khai thác 20 tuổi ở cả hai khu vực. Trong phân tích đa biến, than. Quảng Ninh cũng được xem là điểm nóng sau khi chỉnh lý theo khu vực, những yếu tố tiên trong đường dây vận chuyển và buôn bán ma tuý đoán nhiễm HIV là hơn 20 tuổi, tiêm chích hơn 14 từ Lào vào Việt Nam và từ đó sang Trung Quốc. lần mỗi tuần và tiêm chích hơn 2 năm (bảng 5). Theo Sở Lao động và Thương binh xã hội tỉnh Quảng Ninh ước tính có khoảng 4.000 người nghiện ma tuý. Có nhiều lý do giải thích sự gia Bàn luận tăng tỷ lệ người nghiện ma tuý ở Quảng Ninh. Vào Tỷ lệ nhiễm HIV ở người NCMT Quảng giữa thập kỷ 90, khai thác than trái phép (than thổ Ninh là rất cao. Tuy nhiên tỷ lệ nhiễm HIV trong phỉ) là khá phổ biến ở Quảng Ninh, thu hút nhiều nghiên cứu này của chúng tôi thấp hơn kết quả thanh niên thất nghiệp từ các vùng nông thôn và Bảng 5: Nguy cơ nhiễm HIV của người NCMT ở tỉnh Quảng Ninh năm 2000 36 Tạp chí Y tế công cộng, 8.2004, Số 1 (1)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | từ các tỉnh khác. Một số chủ khai thác than trái có thể là do hai nguyên nhân. Thứ nhất là những phép khuyến khích công nhân sử dụng ma tuý người bị bắt vào trung tâm cai nghiện là người đã nhằm dễ kiểm soát, thậm chí một số chủ còn trả tiêm chích trong thời gian dài và có hành vi nguy công cho công nhân bằng ma tuý. Ngoài ra, có chủ cơ cao hơn. Thứ hai là sử dụng và dùng chung bơm buôn bán thuốc phiện trả tiền thưởng hay bằng ma kim tiêm có thể đã xảy ra trong trung tâm cai tuý cho những người nghiện ma tuý nếu họ lôi kéo nghiện. được người nghiện ma tuý mới. Tỷ lệ di biến động Nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển và cao ở người NCMT cũng làm góp phần cho sự lây đang phát triển cho thấy rằng người NCMT vốn có lan nhanh nhiễm HIV. quan hệ tình dục bình thường với bạn tình và sử Người NCMT trong nghiên cứu của chúng dụng bao cao su không thường xuyên12-13, và nhiều tôi trẻ hơn nhiều so với nhiều nghiên cứu khác ở người NCMT có thể bị nhiễm HIV qua đường tình Việt Nam. Tuổi trung bình của họ là 20,3 thấp hơn dục14. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, chúng tôi nhiều so với người NCMT ở Hải Phòng (tuổi trung không tìm thấy có sự kết hợp có ý nghĩa thống kê bình là 25)8 và ở Thành phố Hồ Chí Minh (tuổi giữa quan hệ tình dục với nhiễm HIV, như đã mô trung bình là 38-39)9. Các đặc trưng khác về nhân tả rõ trong một số nghiên cứu ở Thái Lan15. Mối khẩu học của người NCMT cũng tương tự như các liên quan giữa nhiễm HIV với quan hệ tình dục nghiên cứu khác (mặc dù có sự khác nhau về hoàn muộn và tiêm chích ma tuý hơn 1 năm cho thấy cảnh kinh tế xã hội): đa số là nam giới, sống ở rằng hành vi tiêm chích nguy cơ cao có thể đóng thành phố, thất nghiệp, độc thân10. Sống trong vai trò quan trọng hơn hành vi tình dục có nguy cơ những điều kiện như vậy, họ là những người trong việc lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, việc không NCMT có khả năng dùng chung bơm kim tiêm tìm thấy mối liên quan giữa hành vi tình dục với nhiều hơn. nhiễm HIV không có nghĩa là tiêm chích ma tuý là Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian cách duy nhất làm lây truyền HIV ở quần thể 16 chuyển từ hút sang chích ma tuý là tương đối ngắn, NCMT. Như kết quả của nhiều nghiên cứu khác , trung bình khoảng 7 tháng, tương tự như một người NCMT ở Quảng Ninh vẫn có quan hệ tình dục bình thường, với tỷ lệ sử dụng bao cao su thấp nghiên cứu ở Quảng Tây, Trung Quốc, chứng tỏ với GMD, và thấp hơn với bạn tình thường xuyên. rằng những người mà sử dụng ma tuý gần đây có Một tỷ lệ không nhỏ người NCMT báo cáo là đã xu hướng chích ma tuý nhiều hơn11. Thời gian cửa mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục sổ (từ hút chuyển sang chích) ngắn hơn. Sau khi sử chứng tỏ họ đã có tình dục không an toàn. Đây có dụng ma tuý một thời gian họ hết tiền và không thể là nguy cơ tiềm tàng làm lây truyền HIV theo thể tiếp tục hút được nữa, do đó họ phải chuyển đường tình dục từ nhóm người NCMT sang các sang chích ma tuý vì nó rẻ hơn và có hiệu quả (hay nhóm người khác ở Quảng Ninh. Họ và bạn tình "phê") hơn. của họ có thể là cầu nối cho việc lan truyền HIV Nhiễm HIV tăng nhanh ở người NCMT có sang các quần thể khác như GMD, khách làng chơi liên quan chủ yếu tới việc dùng chung bơm kim và từ đó sang quần thể bình thường. Ở một số nước 22 tiêm . Hành vi tiêm chích ma tuý nguy cơ rất cao châu Á như Ấn Độ, dịch HIV đầu tiên xảy ra ở trước đây và hiện tại là lý do giải thích tại sao tỷ người NCMT từ đó lan nhanh sang bạn tình không lệ nhiễm HIV ở người NCMT ở Quảng Ninh lại sử dụng ma tuý và sang quần thể bình thường theo tăng nhanh như vậy. Dùng chung bơm kim tiêm đường tình dục khác giới17. Do đó các chương trình thường có liên quan chặt chẽ với điều kiện xã hội can thiệp phòng HIV cho người NCMT phải bao nơi xảy ra tiêm chích ma tuý. Nhiều người NCMT gồm cả các biện pháp phòng lây truyền đường tình sợ mang theo bơm kim tiêm vì nếu bị công an bắt dục. Biết rõ tình trạng nhiễm HIV cũng làm giảm sẽ bị coi là bằng chứng sử dụng ma tuý. Người hành vi nguy cơ18, nhưng trong nghiên cứu này, chỉ NCMT thường tiêm chích ngoài đường phố, là nơi có 14,5% người NCMT đã được xét nghiệm trước không có điều kiện để tiêm chích an toàn, và thiếu đây và trong số người đã được xét nghiệm, chỉ có bơm kim tiêm sạch. Mối liên quan giữa nhiễm một nửa biết được kết quả xét nghiệm. Do đó, dịch HIV và đã từng ở Trung tâm cai nghiện thành phố vụ tư vấn và xét nghiệm tự nguyện cần phải được Tạp chí Y tế công cộng, 8.2004, Số 1 (1) 37
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | thiết lập và tăng cường. cứu về yếu tố nguy cơ từ điều tra cắt ngang, Quảng Ninh đã tiến hành các biện pháp can nghiên cứu này của chúng tôi cũng đã cung cấp thiệp như tuyên truyền giáo dục sức khoẻ qua các những thông tin có giá trị về sự bùng phát nhanh phương tiện thông tin đại chúng, nhưng chưa tập dịch HIV ở Quảng Ninh. Người NCMT ở Quảng trung vào các nhóm nguồn có hành vi nguy cơ cao. Ninh rất trẻ, có tỷ lệ nhiễm HIV và hành vi nguy Các hoạt động giáo dục đồng đẳng trên phạm vi cơ rất cao. Số liệu từ nghiên cứu này cung cấp các nhỏ đã được tiến hành cả ở thành phố Hạ Long và thông tin đại diện hơn so với số liệu từ giám sát thị xã Cẩm Phả. Nhìn chung, mọi người vẫn có trọng điểm. Khi mà tỷ lệ nhiễm HIV cao ở những quan niệm là các can thiệp phòng chống người NCMT rất trẻ, ngay cả khi tỷ lệ dùng chung HIV/AIDS là trách nhiệm của ngành y tế, và cộng bơm kim tiêm không cao, nguy cơ nhiễm HIV đối đồng vẫn chưa có thái độ đúng với người nghiện với những người NCMT mới cũng sẽ tương đối ma tuý. Các hoạt động phòng chống HIV/AIDS ở cao. Tiến triển của dịch HIV trong tương lai ở Việt Nam nói chung và ở Quảng Ninh nói riêng, Quảng Ninh sẽ phụ thuộc vào số người NCMT thường được gắn chặt chẽ với chương trình phòng mới. Dự phòng số ma tuý mới và NCMT mới có ý chống tệ nạn xã hội. Các hoạt động can thiệp giảm nghĩa và hiệu quả hơn nhiều trong tương lai. Tuy tác hại thí điểm phòng nhiễm HIV như giáo dục nhiên, việc tăng tính tiếp cận với bơm kim tiêm đồng đẳng, phân phối bơm kim tiêm sạch còn có sạch hiện nay vẫn rất cần thiết đối với những nhiều hạn chế vì có vẻ như là nó đối lập với các người hiện đang tiêm chích ma tuý. Nhiều nghiên mục tiêu của chương trình phòng chống tệ nạn xã cứu đã chứng minh tầm quan trọng của ba thành hội. Do đó người NCMT luôn bị áp lực là phải tiêm phần quan trọng của một chương trình dự phòng, chích thật nhanh, và thường không có thời gian để đó là: hành động sớm, cung cấp bơm kim tiêm làm sạch bơm kim tiêm. Hơn nữa, việc tiếp cận sạch và can thiệp qua tiếp cận tại cộng đồng19. người NCMT cũng rất khó khăn để tiến hành các Hiện cũng có bằng chứng rõ ràng rằng sự tăng tính hoạt động can thiệp phòng chống HIV/AIDS, đặc sẵn có của bơm kim tiêm trong chương trình trao biệt cho những thanh niên mới nghiện chích ma đổi bơm kim tiêm và qua các hiệu thuốc có thể tuý. Ngoài ra việc tăng cường luật pháp với ma tuý làm giảm tỷ lệ dùng chung bơm kim tiêm và giảm cũng có thể góp phần làm cho người nghiện ma tuý nguy cơ nhiễm HIV, nhưng đặc biệt là không làm chuyển nhanh từ hút sang chích. tăng số người sử dụng ma túy20. Các nghiên cứu Tương tự như nhiều nghiên cứu ở người gần đây cho thấy có sự giảm có ý nghĩa chiều NCMT, nghiên cứu này của chúng tôi có nhiều hạn hướng tỷ lệ nhiễm HIV, giảm số lần tiêm chích và chế. Thông tin thu thập được từ nghiên cứu này là dùng chung bơm kim tiêm như là kết quả của các dựa trên tự báo cáo của người NCMT, do đó có thể cố gắng dự phòng HIV ở người NCMT21-22. Để có xu hướng đối tượng nghiên cứu hoặc là trả lời để nâng cao hơn nữa hiệu quả của các hoạt động can làm vừa lòng cán bộ điều tra, hoặc từ chối trả lời thiệp phòng ma tuý HIV và ở Quảng Ninh, cần về các hành vi mới đây. Đối tượng điều tra có thể phải đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia tích cực, chủ trả lời theo như họ nhận thức rằng họ không được động, và sự hợp tác chặt chẽ giữa các ban, ngành, dùng chung bơm kim tiêm và không được tình dục các tổ chức cộng đồng và gia đình nhằm tạo ra môi không an toàn. Hơn nữa, trong thiết kế nghiên cứu trường xã hội thuận lợi cho các hoạt động can điều tra cắt ngang như thế này, rất khó xác định rõ thiệp. được mối quan hệ về thời gian giữa các yếu tố nguy cơ và nhiễm HIV. Người NCMT có thể đã bị Lời cám ơn nhiễm HIV từ trước, và sau đó họ thay đổi hành vi, Các tác giả xin chân thành cám ơn các cán bộ y tế ở Trung thực hiện các hành vi an toàn hơn. Do đó, khi nhận tâm y tế Dự phòng tỉnh Quảng Ninh đã tham gia vào việc thu định các kết quả nghiên cứu, cũng nên cân nhắc thập số liệu. Chúng tôi cũng chân thành cám ơn quỹ Nhật Bản những hạn chế trên. đã cung cấp kinh phí cho nghiên cứu này. Mặc dù khó phiên giải các kết quả nghiên 38 Tạp chí Y tế công cộng, 8.2004, Số 1 (1)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tác giả: TS. Nguyễn Trần Hiển Phó Trưởng Khoa Y tế Collaborative Group. 1994;WHO/SPA/94.4. Công cộng, Trưởng Bộ môn Dịch tễ học, Giám đốc Trung 11Lai S, Chen J, Celentano D, et al. Adoption of injection tâm nghiên cứu và Đào tạo về HIV/AIDS - Trường Đại practices in heroin users in Guangxi Province, China. J học Y Hà Nội - 1 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội. Psychoactive Drugs 2000;32(3):285-92 Điện thoại: (04) 8 523 798 - Fax: (04) 5 741 596 12. Kral AH, Bluthenthal RN, Lorvick J, et al. Sexual trans- E-mail: aidsyhn@hn.vvn.vn. mission of HIV-1 among injection drug users in San Francisco, USA: risk-factor analysis. Lancet BS. Vũ Văn Tâm hiện đang công tác tại Bệnh viện Uông Bí 2001;357(9266):1397-401 Việt Nam - Thuỵ Điển, tỉnh Quảng Ninh. BS. Nguyễn Văn Thích hiện đang công tác tại Trung tâm Y tế 13. Diaz T, Vlahov D, Greenberg B, et al. Sexual Orientation Dự phòng tỉnh Quảng Ninh. and HIV Infection Prevalence among Young Latino Injection Cố PGS, Viện sĩ Tôn Thất Bách, nguyên Hiệu trưởng Trường Drug Users in Harlem. J Womens Health Gend Based Med Đại học Y Hà Nội. 2001;10(4):371-80. 14. Doherty MC, Garfein RS, Monterroso E, et al. Correlates of HIV infection among young adult short-term injection drug 1.UNAIDS. Drug use and HIV infection. UNAIDS statement users. AIDS 2000; 14(6): 717-26. presented at the United Nations General Assembly Special 15. Choopanya K, Vanichseni S, Des Jarlais DC, et al. Risk Session on Drugs: UNAIDS, 1999. factors and HIV seropositivity among injecting drug users in 2.Des Jarlais DC, Friedman SR, Choopanya K, et al. Bangkok. AIDS 1991;5:1509-13. International epidemiology of HIV and AIDS among injecting 16. Magura S, Shapiro J, Siddiqui Q, et al. Variables influ- drug users. AIDS 1992;6:1053-64 encing condom use among intravenous drug users. American 3.Dehne KL, Khodakevich L, Hamers FF, et al. The Journal of Public Health 1990;80: 82-4 HIV/AIDS epidemic in eastern Europe: recent patterns and 17. Panda S, Chatterjee A, Bhattacharya SK, et al. trends and their implications for policy-making. AIDS Transmission of HIV from injecting drug users to their wives 1999;13(7):471-9. in India. Int J STD AIDS 2000;11(7):468-73 4.Croft N, Reid G, Deany P in collaboration with the Asian 18. Schlumberger MG, Desenclos JC, Papaevangelou G, et al. Harm Reduction Network: Injecting drug use and HIV infec- Knowledge of HIV serostatus and preventive behaviour tion in Asia. AIDS 1998;12 (suppl B): 69-79 among European injecting drug users: second study. 5.Hien NT, Long HT, Chi PK, et al. HIV monitoring in European Community Study Group on HIV in Injecting Drug Vietnam: System, Methodology, and results of sentinel sur- Users. Eur-J-Epidemiol. 1999;15(3): 207-15 veillance. J Acquir Immune Defic Syndr 1999;21(4):338-46. 19. Des Jarlais DC, Hagan H, Friedman SR, Friedman P, et al. 6.Quan VM, A C, Long HT, et al. HIV in Vietnam: The evolv- Preventing epidemic of HIV-1 among injecting drug users. In ing epidemic and the prevention response, 1996 through Drug Injecting and HIV infection. Edited by Stimson G, Des 1999. J Acquir Immune Defic Syndr 2001;25(4):360-9. Jarlais DC, and Ball A, WHO, UCL Press, 1998;183-200 7.UNAIDS Vietnam. Facts about HIV/AIDS in Vietnam, 20. Vlahov D, Junge B. The role of needle exchange pro- Hanoi, June 2001:10-11 grams in HIV prevention. Public-Health-Rep. 1998; 113 (Suppl)1: 75-80 8.Nguyen TA, Hoang LT, Pham VQ, et al. Risk factors for HIV-1 seropositivity in drug users under 30 years old in Hai 21. Schechter MT, Strathdee SA, Cornelisse PG, et al.Do nee- phong, Vietnam. Addiction 2001;96(3):405-13, dle exchange programmes increase the spread of HIV among injection drug users?: an investigation of the Vancouver out- 9.Hien NT, Giang LT, Binh PN, et al. The social context of break. AIDS 1999;13(6):45-51 HIV risk behavior by drug injectors in Ho Chi Minh City, Vietnam. AIDS Care 2000;12(4):483-495. 22. Monterroso ER, Hamburger ME, Vlahov D, et al. Prevention of HIV infection in street-recruited injection drug 10.World Health Organization/Program on substance abuse: users. The Collaborative Injection Drug User Study (CIDUS). Multi-City Study on Drug Injecting and Risk of HIV Infection. J Acquir Immune Defic Syndr 2000;25(1):63-70 A report prepared on behalf of the WHO International Tạp chí Y tế công cộng, 8.2004, Số 1 (1) 39