Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên quan ở cán bộ bệnh viện tâm thần Đà Nẵng

Rối loạn lo âu (RLLA) là một bệnh tâm thần phổ biến ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, sinh hoạt và công việc. Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ RLLA và một số yếu tố liên quan ở cán bộ y tế (CBYT) Bệnh viện Tâm thần (BVTT) Đà Nẵng năm 2012. Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang, kết hợp phương pháp định lượng và định tính. Nghiên cứu định lượng sử dụng bộ câu hỏi tự điền với toàn bộ cán bộ (tỷ lệ trả lời 89,3%). Dữ liệu định tính thu thập qua 2 cuộc phỏng vấn sâu lãnh đạo bệnh viện (BV) và 2 cuộc thảo luận nhóm với 14 CBYT. Có 14,3% cán bộ có biểu hiện RLLA (thang đo lo âu của Zung). Phân tích hồi qui logistic đa biến xác định 4 yếu tố liên quan với RLLA (p < 0,05): Mắc bệnh mạn tính, đối diện với hành động bất thường của bệnh nhân (BN), thu nhập từ BV thấp, sự phân biệt của xã hội đối với ngành tâm thần. Để cải thiện sức khỏe tâm thần của CBYT, BV cần hoàn thiện hệ thống camera giám sát, tăng cường bảo vệ trong mỗi ca trực, đào tạo cán bộ về tư vấn tâm lý và phát triển dịch vụ mới nhằm tăng thu nhập cho cán bộ.

Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên quan ở cán bộ bệnh viện tâm thần Đà Nẵng

pdf 6 trang Bích Huyền 01/04/2025 300
Bạn đang xem tài liệu "Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên quan ở cán bộ bệnh viện tâm thần Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfroi_loan_lo_au_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_o_can_bo_benh_vien.pdf

Nội dung text: Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên quan ở cán bộ bệnh viện tâm thần Đà Nẵng

  1. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên quan ở cán bộ bệnh viện tâm thần Đà Nẵng Nguyễn Thanh Hương1, Nguyễn Hữu Xuân Trường2, Trần Thị Giáng Hương3 Rối loạn lo âu (RLLA) là một bệnh tâm thần phổ biến ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, sinh hoạt và công việc. Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ RLLA và một số yếu tố liên quan ở cán bộ y tế (CBYT) Bệnh viện Tâm thần (BVTT) Đà Nẵng năm 2012. Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang, kết hợp phương pháp định lượng và định tính. Nghiên cứu định lượng sử dụng bộ câu hỏi tự điền với toàn bộ cán bộ (tỷ lệ trả lời 89,3%). Dữ liệu định tính thu thập qua 2 cuộc phỏng vấn sâu lãnh đạo bệnh viện (BV) và 2 cuộc thảo luận nhóm với 14 CBYT. Có 14,3% cán bộ có biểu hiện RLLA (thang đo lo âu của Zung). Phân tích hồi qui logistic đa biến xác định 4 yếu tố liên quan với RLLA (p < 0,05): mắc bệnh mạn tính, đối diện với hành động bất thường của bệnh nhân (BN), thu nhập từ BV thấp, sự phân biệt của xã hội đối với ngành tâm thần. Để cải thiện sức khỏe tâm thần của CBYT, BV cần hoàn thiện hệ thống camera giám sát, tăng cường bảo vệ trong mỗi ca trực, đào tạo cán bộ về tư vấn tâm lý và phát triển dịch vụ mới nhằm tăng thu nhập cho cán bộ. Từ khóa: Rối loạn lo âu (RLLA), cán bộ y tế, bệnh viện tâm thần, thang đo lo âu của Zung (SAS). Prevalence of anxiety and associated factors among staff working at Da Nang mental health hospital Nguyen Thanh Huong1, Nguyen Huu Xuan Truong2, Tran Thi Giang Huong3 Anxiety is a mental health disorder which has a significant impact on general health, everyday life and work. This study aims to identify anxiety prevalence and related factors among staff working at Da Nang Mental Health Hospital in 2012. This is a cross-sectional study conducted with applied mixed methods. Quatitative study applied self-administered questionnaire to all staff of the Hospital (a response rate of 89.3%). Qualitative data collected from 2 in-depth interviews with Hospital leaders and 2 focus group discussions with 14 staff. The results show that 14.3% of Hospital staff has anxiety (Zung Self-Rating Anxiety Scale). Multivariate logistic regression analysis identified 4 factors associated with anxiety (p < 0.05) including having chronic diseases, confronting dangerous behaviours from patients, low income from the Hospital, and discriminative social view toward mental health discipline. To promote mental health of staff, the hospital needs to improve the Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2013, Số 29 (29) 11 λ Ngày nhận bài: 11.7.2013 λ Ngày phản biện: 15.7.2013 λ Ngày chỉnh sửa: 5.8.2013 λ Ngày được chấp nhận đăng: 15.8.2013
  2. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | monitoring camera system, strengthen safeguard staff in each shift of duty, train staff on psychological counselling, and develop new health services to generate more income for staff. Key words:Anxiety, health staff, Mental health hospital, Zung Self-Rating Anxiety Scale (SAS). Tác giả 1. Trường Đại học Y tế Công cộng 2. Sở Y tế Đà Nẵng 3. Bộ Y tế 1. Đặt vấn đề ngành, CBYT thường xuyên tiếp xúc với những BN Sức khỏe tâm thần (SKTT) là một mặt của sức có các rối loạn tâm thần và hằng ngày đối diện với khỏe nói chung. Hiện nay khoảng ¼ nhân loại có những hành động bất thường, nguy hiểm của BN vấn đề về SKTT [4]. Trong đó RLLA là một nhóm [1]. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với bệnh rất phổ biến, chiếm tới hơn 20% dân số [2], mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ CBYT có biểu hiện nếu không được phát hiện và điều trị có thể ảnh RLLA; (2) Mô tả một số yếu tố liên quan với RLLA, hưởng nghiêm trọng đến công việc, học tập và các trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp tăng cường mối quan hệ cá nhân [9]. Chi phí cho RLLA của xã SKTT cho CBYT. hội cũng rất cao như tăng thất nghiệp, giảm phúc lợi, giảm khả năng thích nghi, tăng sử dụng chất gây 2. Phương pháp nghiên cứu nghiện [5]. Trong lĩnh vực y tế, nghiên cứu mới đây Nghiên cứu áp dụng phương pháp mô tả cắt của Trần Thị Thúy (2011) trên 120 CBYT khối lâm ngang, kết hợp định lượng và định tính. Số liệu định sàng BV Ung thư Hà Nội sử dụng bộ công cụ DASS lượng được thu thập bằng cách phát vấn tất cả cán 21 kết hợp đánh giá cùng lúc 03 trạng thái stress, bộ có mặt tại BV trong thời gian nghiên cứu và đồng RLLA và trầm cảm. Nghiên cứu ghi nhận có đến ý tham gia. Tổng số có 175 người trả lời câu hỏi (tỷ 40,5% CBYT có biểu hiện RLLA, trong đó 9,9% ở lệ tham gia 89,3%). Bộ câu hỏi tự điền đã được thử mức nặng và rất nặng [7]. nghiệm với thang tự đánh giá lo âu của Zung (SAS) được Viện SKTT Quốc gia, BV Bạch Mai khuyến Cho đến nay các nguyên nhân chính xác dẫn nghị sử dụng. Độ tin cậy bên trong (đo bằng hệ số đến RLLA vẫn chưa được biết rõ. Một số yếu tố Cronbach's alpha) của SAS rất tốt là 0,907 [6]. nguy cơ được ghi nhận gồm: Yếu tố sinh học; Những Thang SAS gồm 20 câu chỉ đánh giá riêng biệt về trải nghiệm trong gia đình, nghề nghiệp, xã hội; RLLA, cho điểm theo 4 mức độ (từ 1 - 4) thời gian Tính cách; Kiểu suy nghĩ và hành vi [10]. xuất hiện triệu chứng: Không có hoặc rất ít thời Ở Việt Nam, còn khá ít các nghiên cứu về gian; đôi khi; phần lớn thời gian; và hầu hết hoặc RLLA. Đặc biệt, chúng tôi chưa tìm thấy nghiên tất cả thời gian trong tuần. Tổng điểm thấp nhất là cứu nào đánh giá riêng biệt RLLA ở CBYT. Trong 20 và cao nhất là 80. Với SAS, những người có tổng khi đó, đối tượng này hằng ngày phải đối mặt với điểm từ 41 - 50 được xác định là có RLLA mức độ nhiều yếu tố nguy cơ nghề nghiệp có thể dẫn đến nhẹ; 51 - 60 điểm là mức độ vừa; 61 - 70 điểm là RLLA. nặng và 71 - 80 điểm là rất nặng [8]. Quá trình thu BVTT Đà Nẵng là BV chuyên khoa hạng 2 có thập số liệu được tiến hành đảm bảo không có sự 180 giường và 196 cán bộ. Với đặc thù chuyên trao đổi giữa các CBYT. Các CBYT được mời tập 12 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2013, Số 29 (29)
  3. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | trung tại hội trường của BV (5 đợt liên tục). Trong làm phù hợp với trình độ chuyên môn và khả năng từng đợt điền phiếu khuyết danh, điều tra viên làm việc đều cao (> 90%). Gần 2/5 CBYT đánh giá thông báo mục đích của nghiên cứu, hướng dẫn cách cơ sở vật chất (38,3%) và trang thiết bị phục vụ trả lời và theo dõi để CBYT không trao đổi câu trả công việc (38,9%) chưa đảm bảo. Đa số CBYT cho lời với nhau. rằng việc trang bị dụng cụ bảo hộ lao động là đầy Nghiên cứu định tính được thực hiện sau khi đủ (88%). phân tích sơ bộ kết quả định lượng để tìm hiểu sâu Chỉ có 12% CBYT nhận định mối quan hệ giữa hơn về một số yếu tố nguy cơ của RLLA và một số mọi người trong BV là chưa tốt. Gần một nửa cán giải pháp phòng ngừa thông qua 2 cuộc phỏng vấn bộ đánh giá mức thu nhập từ BV là thấp/rất thấp sâu (PVS) 2 lãnh đạo BV và 2 cuộc thảo luận nhóm (48,0%) và gần 2/3 CBYT cho rằng mức thu nhập (TLN). Mỗi nhóm gồm 7 cán bộ, một nhóm gồm các như vậy là chưa phù hợp với sức lao động (61,8%). cán bộ trực tiếp điều trị và một nhóm là các cán bộ Có hơn một nửa CBYT cho rằng họ có ít hoặc hoàn không trực tiếp điều trị cho bệnh nhân (BN). toàn không có cơ hội học tập. Đặc biệt, có đến Số liệu định lượng được nhập bằng phần mềm 43,4% CBYT cho rằng xã hội còn thiếu tôn trọng Epi Data 3.1 và xử lý bằng SPSS 16.0. Mô hình hồi đối với ngành tâm thần. qui logistic được sử dụng phân tích mối liên quan 3.2 Tỷ lệ rối loạn lo âu với RLLA để kiểm soát các yếu tố nhiễu. Dữ liệu định tính được gỡ băng, mã hóa và phân tích theo chủ đề. 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Trong 175 CBYT tham gia nghiên cứu nhóm từ 40 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ cao (55,4%), nhóm cán Biểu đồ 1. Phân bố mức độ RLLA theo thang đo SAS bộ trẻ (< 30 tuổi) chiếm tỷ lệ thấp nhất (18,9%). Nữ chiếm gần hai phần ba (65,1%). Phần lớn cán bộ Trung bình (±SD) của SAS (20 tiểu mục) khi áp đều đã lập gia đình (81,2%). Tỷ lệ bác sĩ là thấp dụng với CBYT BV là 32,21 (± 6,787) và độ tin cậy nhất (12,6%) và điều dưỡng cao nhất (45,1%). Phần về tính nhất quán bên trong tốt với hệ số Cronbach's lớn CBYT không hút thuốc lá (85,1%) và không sử alpha là 0,813. Tỷ lệ CBYT có biểu hiện RLLA dụng rượu bia nhiều (65,7%). Phần lớn CBYT tự chiếm 14,3%, trong đó chỉ ở mức độ nhẹ và vừa, nhận định có sức khỏe bình thường và khỏe (88%). tương ứng là 12,6% và 1,7% (Biểu đồ 1). Phần lớn cán bộ có từ 1 - 2 con (73,7%). Có 29,1% cán bộ hiện phải chăm sóc con nhỏ < 5 tuổi 3.3. Một số yếu tố liên quan đến rối loạn và 38,9% phải chăm sóc người thân già yếu, bệnh lo âu tật. Hầu hết cán bộ nhận định quan hệ gia đình mình Để tìm hiểu mối liên quan giữa các yếu tố với ở mức bình thường và hạnh phúc/rất hạnh phúc RLLA chúng tôi sử dụng phân tích hồi quy logistic (92,0%). đa biến. Các biến đưa vào mô hình gồm: giới tính, Hơn ba phần tư CBYT làm công tác trực tiếp mắc bệnh mãn tính; khó ngủ; số con; đối diện với điều trị, chăm sóc BN (76%); có 9,7% người nhận những hành động bất thường, nguy hiểm của BN; được sự hợp tác không tốt từ BN. Số cán bộ thường mức thu nhập từ BV; sự tôn trọng của xã hội đối với xuyên đối diện với hành động bất thường, nguy nghề (kết quả trình bày trong Bảng 1). hiểm của BN là 47,4%. Có 36,0% cán bộ thỉnh Sau khi kiểm soát nhiễu, các yếu tố: Mắc bệnh thoảng gặp phải phản ứng không tốt của người nhà mãn tính; Thu nhập từ BV; Đối diện với hành động BN. Hơn một nửa CBYT cho rằng có nguy cơ lây bất thường. Nguy hiểm của BN; Sự tôn trọng của xã nhiễm bệnh cao/rất cao (56,6%). hội đối với nghề tâm thần có mối liên quan có ý Hầu hết CBYT đánh giá sự phân công công nghĩa thống kê với RLLA. việc là rõ ràng (95,4%). Tỷ lệ cán bộ đánh giá việc Khi tìm hiểu sâu về cách thức tác động mà Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2013, Số 29 (29) 13
  4. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Bảng 1. Mô hình hồi quy logistic dự đoán trạng định không có thu nhập gì tăng thêm đáng kể. Do đó thái RLLA của cán bộ phải tìm kiếm một việc gì đó làm thêm bên ngoài bên cạnh công việc chính tại BV. Mà như vậy thì rất lo lắng không làm tốt công việc chăm sóc BN tại BV" (TLN CBYT không trực tiếp điều trị). Tìm hiểu sâu về vấn đề này cán bộ BV cho biết do đặc thù của chuyên ngành tâm thần nên BV rất khó thu và khó triển khai dịch vụ để tăng nguồn thu. Hiện hai nhóm BN tâm thần phân liệt và động kinh đã được Nhà nước bao cấp toàn bộ. Hơn nữa, các dịch vụ của BVTT thường ít và cũng khá rẻ tiền. Một yếu tố khác được cho là mang đậm tính chất đặc thù chuyên ngành làm gia tăng nỗi lo lắng cho CBYT. Đó chính là sự thiếu tôn trọng của xã hội đối với ngành nghề tâm thần. Mặc dù hiện nay xã hội đang dần thay đổi cách nhìn nhận nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều người chưa thực sự hiểu và có cái nhìn thực sự "thiện cảm" đối với CBYT ngành này: "Mọi người còn kỳ thị, chưa yêu mến lắm CBYT ngành tâm thần. Bạn bè ngay cả đồng nghiệp trong ngành khi nghe nói mình làm ở BVTT thường cũng Cỡ mẫu phân tích n=175; (*)=Nhóm so sánh; không có những đánh giá cao" (TLN CBYT trực tiếp - =Không áp dụng; Kiểm định tính phù hợp của mô hình thống điều trị). kê (Hosmer and Lemeshow test) χ2= 4,31; df=8; p=0,828 4. Bàn luận những hành động bất thường, nguy hiểm của BN có 4.1. Tỷ lệ rối loạn lo âu của cán bộ BVTT thể gây ra RLLA cho CBYT, ý kiến được các CBYT Đà Nẵng nêu ra nhiều nhất là do sợ bị BN tấn công bất ngờ: Để đánh giá tình trạng RLLA ở cán bộ BV chúng "Mối đe dọa của BN rất cao ảnh hưởng đến sức khỏe tôi sử dụng Thang tự đánh giá lo âu của Zung (SAS). của nhân viên y tế: BN tấn công lúc nào không biết" Theo ghi nhận từ nhiều nhà nghiên cứu khi độ tin cậy (TLN CBYT trực tiếp điều trị BN). về sự nhất quán bên trong của thang đo với chỉ số Ngoài lý do sợ bị tấn công, những hành động bất Cronbach's alpha từ 0,8 trở lên thì được đánh giá là thường, nguy hiểm của BN còn làm cho các CBYT tốt [3]. Nghiên cứu này cho kết quả tương tự với hệ lo lắng theo một cách khác. Đó là những hành động số Cronbach's alpha là 0,813. Với SAS chúng tôi xác trốn viện, tự sát của BN: "Đối với những BN tâm định được tỷ lệ cán bộ có biểu hiện RLLA là 14,3%. thần thì khả năng trốn viện và nguy cơ tự sát là rất Tỷ lệ này khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của cao" (lãnh đạo BV). Áp lực về trách nhiệm khi sự Erdur và cộng sự (2004) [11]. việc xảy ra chính là nguyên nhân làm gia tăng nỗi So với tỷ lệ 27,3% CBYT có RLLA và trầm cảm lo sợ cho CBYT: "Trường hợp BN trốn viện hay tử trong nghiên cứu của Naheed Nabi và cộng sự vong gia đình BN làm ồn ào, bắt đền gây áp lực rất (2005) [12], tỷ lệ CBYT có RLLA trong nghiên cứu nhiều" (lãnh đạo BV). này lại thấp hơn gần một nửa. Sự chênh lệch này có Qua TLN và PVS, phần lớn CBYT làm việc lâu thể do sự khác biệt trong địa bàn và mức độ đặc hiệu năm đánh giá thu nhập từ BV ở mức tạm đủ sống. của công cụ trong nghiên cứu. Nghiên cứu của Nabi Tuy nhiên, các cán bộ trẻ cả ở nhóm trực tiếp và dùng công cụ xác định đồng thời cả RLLA và trầm không trực tiếp điều trị đều nhận định mức lương cảm. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp như vậy chưa đủ trang trải cho nhu cầu cuộc sống hơn nhiều so với tỷ lệ 40,5% CBYT có RLLA ở tất hiện tại. Tất cả CBYT đều nhận định rằng thu nhập cả các mức độ được tìm thấy trong nghiên cứu của tăng thêm của BV là thấp."Thu nhập tiền lương cố Trần Thị Thúy (năm 2011). Đồng thời nghiên cứu 14 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2013, Số 29 (29)
  5. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | của chúng tôi không ghi nhận được CBYT nào có kiểm soát các yếu tố nhiễu còn lại 03 yếu tố được biểu hiện RLLA mức độ nặng và rất nặng, trong khi ghi nhận là: Đối diện với những hành động bất nghiên cứu của Trần Thị Thúy là 9,9% [7]. Lý giải thường, nguy hiểm của BN; mức thu nhập từ BV và về sự khác biệt này, chúng tôi cho rằng có thể do bộ sự thiếu tôn trọng của xã hội đối với ngành nghề. công cụ đánh giá RLLA sử dụng trong hai nghiên Kết quả định lượng này hoàn toàn phù hợp với cứu là khác nhau: Trần Thị Thúy sử dụng DASS 21, những thông tin chúng tôi ghi nhận được qua nghiên chỉ có 07 tiểu mục đánh giá về RLLA trong khi SAS cứu định tính. Các CBYT không chỉ lo lắng về sự kỳ có đến 20 tiểu mục đánh giá về RLLA. Ngoài ra, thị của xã hội với bản thân mà còn có thể ảnh hưởng khác biệt có thể còn xuất phát từ đặc thù chuyên đến cả con cái của họ. Nghiên cứu cho thấy những ngành của đối tượng nghiên cứu. Trần Thị Thúy CBYT nhận định xã hội còn thiếu hay rất thiếu tôn nghiên cứu trên CBYT BV Ung thư có thể có nhiều trọng đối với nghề nghiệp có nguy cơ biểu hiện yếu tố nguy cơ đặc thù dẫn đến RLLA hơn hoặc khả RLLA cao hơn 5,6 lần so với những CBYT có nhận năng tự điều chỉnh cũng khác nhau giữa 2 nhóm định sự tôn trọng của xã hội đối với ngành nghề là CBYT này. bình thường (p < 0,05). Yếu tố thu nhập cũng có mối liên quan chặt chẽ với RLLA và là một trong những 4.2. Một số yếu tố liên quan đến RLLA yếu tố nguy cơ cao được các CBYT dành nhiều thời Các yếu tố đến từ gia đình, nghề nghiệp và xã hội gian trao đổi trong nghiên cứu định tính. Kết quả thường xuyên thay đổi và không ngừng tác động đến này có điểm giống với kết quả của Erdur và cộng con người, làm cho con người dễ bị tổn thương và mắc sự (2004) khi nghiên cứu trên đối tượng bác sĩ phải RLLA [10]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm chuyên ngành cấp cứu [11]. hiểu về các nhóm yếu tố đến từ gia đình, nghề Tóm lại, đây là một trong những nghiên cứu đầu nghiệp, xã hội cùng với một số đặc điểm thuộc về cá tiên chỉ tập trung vào RLLA ở CBYT của BVTT. nhân có thể là các yếu tố nguy cơ dẫn đến RLLA cho Kết quả cho thấy tỷ lệ 14,3% CBYT có biểu hiện CBYT. Các nhóm yếu tố này có thể tác động một RLLA là đáng quan tâm. Sau khi kiểm soát nhiễu, cách độc lập hay có sự tương tác lẫn nhau. có 4 yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Trong các yếu tố đặc điểm cá nhân chúng tôi với RLLA, đó là: Mắc bệnh mãn tính (OR = 10,3); ghi nhận được 05 yếu tố có mối liên quan với RLLA Đối diện với những hành động bất thường, nguy qua phân tích đơn biến: Tuổi; Hoạt động thể dục thể hiểm của BN (OR = 9,3); Mức thu nhập thấp từ BV thao; Mắc bệnh mãn tính; Khó khăn khi ngủ và tự (OR = 9,4); và Sự chưa tôn trọng của xã hội đối với đánh giá tình trạng sức khỏe bản thân. Kết quả này ngành tâm thần (OR= 5,6). khá giống với kết quả nghiên cứu của Wei Sun và Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đề xuất một cộng sự (2009) [13]. Sau khi kiểm soát các yếu tố số khuyến nghị sau: Hoàn thiện hệ thống camera khác trong mô hình phân tích đa biến, mắc bệnh giám sát tại các khoa, phòng BV; Tăng cường bảo mạn tính là biến duy nhất còn có mối liên quan với vệ trong một ca trực; Mở rộng các dịch vụ y tế tăng RLLA. nguồn thu và nâng cao thu nhập cho CBYT; Đào tạo Trong số các yếu tố nghề nghiệp được tìm hiểu, chuyên sâu các kỹ năng tâm lý học lâm sàng; Đề có 08 yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với xuất với Sở Y tế có cơ chế đãi ngộ riêng đủ mạnh RLLA qua phân tích đơn biến. Tuy nhiên, sau khi thu hút bác sĩ trẻ chính quy về công tác tại BVTT. Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2013, Số 29 (29) 15
  6. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tài liệu tham khảo 8. Viện Sức khỏe Tâm thần quốc gia, Thang tự đánh giá lo âu của Zung (SAS), truy cập ngày 08/02/2012, tại trang web Tiếng Việt: 1. Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng (2011), Báo cáo tổng kết nghim/142-thang-anh-gia-lo-au-zung-sas.html. công tác năm 2011 và phương hướng năm 2012. 2. Bùi Quang Huy (2009), Rối loạn lo âu, Nhà xuất bản Y Tiếng Anh: học. 9. American Psychological Association, Anxiety Disorders. 3. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân Available at tích dự liệu nghiên cứu với SPSS, tập 2, Nhà xuất bản Hồng Disorders.aspx. Accessed December 08, 2012. Đức. 10. Australian Psychological Society, Understanding and 4. Lương Hữu Thông (2005), Sức khỏe tâm thần và các rối managing anxiety. Available at loạn thường gặp, Nhà xuất bản Lao động. ety. Accessed December 15, 2012. 5. Lương Hữu Thông (2006), Hỏi và đáp về bệnh Stress, Nhà xuất bản Lao động. 11. Erdur B. et al (2004), "A study of depression and anxiety among doctors working in emergency units in Denizli, 6. Nguyễn Thị Hằng Phương (2008), Nghiên cứu một số Turkey", Emergency Medicine Journal, 23(10): 759-763. nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu ở học sinh Trung học phổ thông, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân 12. Nabi N., Yousuf A. and Iqbal A. (2005), "Prevalence of văn Hà Nội. Anxiety and Depression among doctors working in a private hospital in Pakistan", ASEAN Journal of Psyhiatry, 13(1). 7. Trần Thị Thúy (2011), Đánh giá trạng thái stress của cán bộ y tế khối lâm sàng bệnh viện Ung Bướu Hà Nội năm 13. Sun W. (2011), "Epidemiological study on risk factors 2011, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Bệnh viện, Trường Đại học for anxiety disorder among Chinese doctors", Journal of Y tế Công cộng. Occupational. 16 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2013, Số 29 (29)