Phân tích tình hình phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS trong lĩnh vực y tế ở Hà Nội, Việt Nam
Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích tình hình Phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS trong lĩnh vực y tế ở Hà Nội, Việt Nam. Nghiên cứu được tiến hành theo Đề cương nhận biết sự phân biệt đối xử của Chương trình phối hợp phòng chống AIDS của Liên hợp quốc(UNAIDS)(6). Chúng tôi đã phỏng vấn theo bảng hỏi bán cấu trúc với 75 người thông tin chủ chốt và 77 người có HIV. Kết quả cho thấy phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS là khá phổ biến. Đánh giá tính chất phân biệt đối xử là hợp pháp hoặc tuỳ tiện đã được dựa vào các văn bản pháp qui ban hành ở Việt Nam trong khoảng thời gian 1992-2002.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều người sợ hãi bị lây nhiễm HIV/AIDS và gắn liền HIV/AIDS với các tệ nạn xã hội ma tuý và mại dâm. Truyền thông thay đổi hành vi nên được tiến hành khẩn trương và tích cực để giảm nhẹ tâm lý cá nhân sợ hãi nhiễm HIV một cách thái quá và tâm lý xã hội coi người nhiễm HIV là người có hành vi thiếu đạo đức, đáng bị phân biệt đối xử.
Phân tích tình hình phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS trong lĩnh vực y tế ở Hà Nội, Việt Nam
File đính kèm:
phan_tich_tinh_hinh_phan_biet_doi_xu_lien_quan_den_hivaids_t.pdf
Nội dung text: Phân tích tình hình phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS trong lĩnh vực y tế ở Hà Nội, Việt Nam
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Phân tích tình hình phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS trong lĩnh vực y tế ở Hà Nội, Việt Nam Đặng Văn Khoát, Chu Quốc Ân, Daniel D Reidpath và cs. Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích tình hình Phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS trong lĩnh vực y tế ở Hà Nội, Việt Nam. Nghiên cứu được tiến hành theo Đề cương nhận biết sự phân biệt đối xử của Chương trình phối hợp phòng chống AIDS của Liên hợp quốc(UNAIDS)(6). Chúng tôi đã phỏng vấn theo bảng hỏi bán cấu trúc với 75 người thông tin chủ chốt và 77 người có HIV. Kết quả cho thấy phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS là khá phổ biến. Đánh giá tính chất phân biệt đối xử là hợp pháp hoặc tuỳ tiện đã được dựa vào các văn bản pháp qui ban hành ở Việt Nam trong khoảng thời gian 1992-2002. Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều người sợ hãi bị lây nhiễm HIV/AIDS và gắn liền HIV/AIDS với các tệ nạn xã hội ma tuý và mại dâm. Truyền thông thay đổi hành vi nên được tiến hành khẩn trương và tích cực để giảm nhẹ tâm lý cá nhân sợ hãi nhiễm HIV một cách thái quá và tâm lý xã hội coi người nhiễm HIV là người có hành vi thiếu đạo đức, đáng bị phân biệt đối xử. The study’s objective is to analyzi HIV/AIDS-related discrimination in health sector in Ha Noi, Viet Nam. It was implemented, based on the Protocol for the Identification of discrimination against People Living with HIV; Geneva: UNAIDS. 2000(6). Using semi-structured questionnaires with 75 key informants and 77 people living with HIV/AIDS, investigators found that the discrimination was rather common. Whether the found discrimination is legitimate or arbitrary is based on legal writ- ten documents related to HIV/AIDS promulgated during the 1992-2002 period in Viet Nam. Main causes of arbitrary discrimination are that many people were afraid of being infected with HIV/AIDS and considered HIV/AIDS as social evils like prostitution and drug abuse. It is urgent now to carry out active behavior change communication in order to alleviate individual psychology of being exces- sively afraid of HIV transmission and social psychology to recognize that people living with HIV are impious and deserve discrimination. 1. Đặt vấn đề Phân biệt đối xử với những người có HIV là Báo cáo "Cập nhật dịch AIDS, 12.2004" của một hiện tượng xã hội. HIV/AIDS thường được xem Chương trình phối hợp phòng chống HIV/AIDS của như một căn bệnh chết người và kèm theo đó là Liên hợp quốc (UNAIDS) và Tổ chức Y tế thế giới việc phân biệt đối xử và vi phạm nhân quyền. Theo (WHO)(1) cho biết có khoảng 39,4 triệu người đang báo cáo "Chung sống với HIV/AIDS ở Ấn Độ: Kỳ sống với HIV vào cuối năm 2004. Riêng năm 2004, thị và phân biệt đối xử trong xã hội", Joy Elamon(3) toàn cầu có thêm 4,9 triệu người mới nhiễm và 3,1 nhận xét "đã có những trường hợp bắt buộc về hưu, triệu người chết vì AIDS. Còn ở nước ta, tính đến hạn chế quyền lợi hoặc từ chối việc làm với người 31.7.2005 đã có 98.124 người được phát hiện là có HIV. Sự phân biệt đối xử thái quá còn xảy ra nhiễm HIV, 15.984 bệnh nhân AIDS và 9.136 trong cơ sở y tế, các nhân viên y tế đã từ chối điều người đã chết(2). Tính đến cuối năm 2005, ước tính trị những người có HIV, trách mắng họ và lơ là có khoảng 263.470 người có HIV/AIDS ở Việt Nam trong chăm sóc". Những việc tương tự như vậy cũng và dịch HIV/AIDS vẫn tiếp tục lan rộng. xảy ra ở Thái Lan. Theo báo cáo về "Kỳ thị và Tạp chí Y tế Công cộng,11.2005, Số 4 (4) 33
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | phân biệt đối xử với người nhiễm HIV" ở Thái Lan, hội phụ nữ, lãnh đạo uỷ ban nhân dân phường, xã Access Foundation(4) qua các nghiên cứu trường hợp trong đó chọn ưu tiên những người đã có điều kiện cho thấy "Kỳ thị và phân biệt đối xử với những tiếp xúc với NCH như tư vấn, xét nghiệm, chăm người có HIV ở Thái Lan đã xảy ra như không cho sóc, điều trị. Những NCH đã được phỏng vấn có cả học sinh đến trường hay đuổi học, xét nghiệm HIV nam và nữ. Bảng câu hỏi bán cấu trúc đã được sử bắt buộc, từ chối điều trị, không tuyển dụng hay dụng để khai thác các tình huống phân biệt đối xử đuổi việc chỉ vì có HIV". nếu có. Bảy tình huống liên quan đến lĩnh vực y tế được đề cập trong nghiên cứu là: từ chối điều trị chỉ Trong báo cáo "Những nỗ lực loại trừ kỳ thị và vì lý do có HIV; thái độ điều trị khác đi khi bệnh phân biệt đối xử ở Việt Nam" ở Hội nghị vệ tinh về nhân là NCH; làm xét nghiệm HIV mà không thông Kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV, báo cho người được xét nghiệm; từ chối việc thông Hội nghị ICAAP lần thứ 6, Chung Á(5) cho rằng "Kỳ báo kết quả xét nghiệm HIV cho người được xét thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV ở Việt nghiệm; cách ly bắt buộc NCH ở các cơ sở y tế; bắt Nam cũng khá phổ biến. Lý do là rất nhiều người buộc thông báo cho bạn tình hoặc họ hàng; và làm cho AIDS là một bệnh dễ lây và khó chữa. Hơn nữa lộ bí mật. kỳ thị với HIV cũng liên quan tới các hành vi gắn Việc nhận định phân biệt đối xử là hợp pháp với sự lây truyền như quan hệ tình dục và tiêm hoặc là tùy tiện trong mỗi tình huống nói trên dựa chích không an toàn, đặc biệt là quan hệ tình dục vào các tiêu chí của UNAIDS và tất cả các văn bản với gái mại dâm hoặc tiêm chích ma túy”. Trong pháp qui liên quan đến HIV/AIDS. Một nhóm cố khoảng thời gian 2002 - 2003, ở Việt Nam cũng có vấn kỹ thuật đảm nhiệm luôn cả phần đảm bảo vấn một số đề tài nghiên cứu cho thấy kỳ thị và phân đề đạo đức trong khi tiến hành nghiên cứu. Thời biệt đối xử với người nhiễm HIV là khá phổ biến ở gian nghiên cứu là từ 9.2002 đến tháng 4.2003 tại các địa bàn nghiên cứu như Hải Phòng, TP Hồ Chí Hà Nội. Minh và Cần Thơ. Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là 3. Kết quả nghiên cứu tìm hiểu tình hình kỳ thị và phân biệt đối xử với Trong số 75 NTTCC, có 39 nam (52%) và 36 người có HIV trên địa bàn Hà Nội kết hợp với nữ (48%); 65 người đã từng tiếp cận với người có nghiên cứu các văn bản pháp qui về phòng chống HIV/AIDS ra đời trong khoảng thời gian 1992 - HIV qua các công việc như tư vấn, xét nghiệm, tập 2002, từ đó đề xuất một số biệân pháp chống kỳ thị huấn, thăm hỏi tại nhà. Có 34 NTTCC biết các và phân biệt đối xử. Đề tài này là một phần trong trường hợp người có HIV phàn nàn vì bị phân biệt đề tài nghiên cứu tình hình kỳ thị và phân biệt đối đối xử (45.3%), trong đó 14 người biết các trường xửû có liên quan với HIV/AIDS ở khu vực châu Á- hợp từ chối khám chữa bệnh của nhân viên y tế. Thái Bình Dương do Trường Đại học Tổng hợp Trong số 77 người có HIV nam là 35 (46.7%) và Deakin, bang Virginia, Australia chủ trì. nữ là 40 (53.3%); số chưa lập gia đình là 44 (58.7%), đã lập gia đình là 25 (33.3%) và ly hôn là 2. Phương pháp nghiên cứu 6 (8.0%). Có 15 NCH là cán bộ nhân viên ở các cơ Chúng tôi đã vận dụng bản "Đề cương nhận sở làm việc nhà nước hoặc tư nhân (20.0%). 43 biết sự phân biệt đối xử với người có HIV/AIDS" người biết mình có HIV được dưới 2 năm (57.3%), của UNAIDS năm 2000(6). Trong báo cáo này, 22 người từ 2 đến 4 năm (29.3%) và 10 người đã chúng tôi chỉ đề cập một trong 10 lĩnh vực chủ yếu trên 4 năm (13.3%). Số người có HIV phàn nàn vì của đời sống xã hội là lĩnh vực y tế, vì nó trực tiếp bị phân biệt đối xử do gia đình là 16 (21.3%), do tác động đến việc chăm sóc và hỗ trợ người có hàng xóm, bè bạn là 21 (28.0%) và do nhân viên y HIV/AIDS. tế là 16 (21.3%). Có 40 người không được thông Nghiên cứu bao gồm các cuộc phỏng vấn 77 báo khi làm xét nghiệm HIV (53.3%) và 39 người người có HIV/AIDS (NCH), còn gọi là nhân chứng không được thông báo trực tiếp về kết quả xét trực tiếp và 75 người thông tin chủ chốt (NTTCC) nghiệm dương tính (52.0%). Tới 46 NCH phàn nàn là những người làm việc trong các ngành, các đơn là bị lộ tình trạng nhiễm HIV của mình (61.3% so vị có quan hệ với NCH. Những NTTCC đến từ các với tổng số NCH); theo họ là do nhân viên y tế và ngành y tế, lao động thương binh xã hội, công an; xét nghiệm (36.9%), do công an (13.0%) và do gia 34 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2005, Số 4 (4)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | đình (6.5%); số còn lại không biết đích xác là ai đã nữa". Nhóm nghiên cứu đã thảo luận tình huống này làm lộ bí mật của mình (43.6%). Các nghiên cứu và nhất trí cho đây là sự phân biệt đối xử tùy tiện; viên đã phỏng vấn sâu về các tình huống được nêu chị Bd2 đã bị từ chối khéo chỉ vì họ biết chị là NCH. ra trên đây và nhiều trường hợp những NTTCC và người có HIV đã trao đổi cởi mở. Tình huống 2. Thái độ đối xử khác đi với bệnh nhân có HIV Tình huống 1. Từ chối điều trị chỉ vì lý do Điều 20, khoản 2 của Pháp lệnh PC AIDS(7) qui có HIV định "Người bị nhiễm HIV/AIDS mắc các bệnh Bất kỳ phân tích nào về kỳ thị và phân biệt đối nhiễm trùng cơ hội thuộc chuyên khoa nào được xử ở Việt Nam của những người nghiên cứu đều cứu chữa tại chuyên khoa đó hoặc tại chuyên khoa dựa vào các văn bản pháp qui đã ban hành. Luật riêng". Một quyết định của Bộ Y tế, Quyết định số (7) Bảo vệ Sức khoẻ nhân dân(7), điều 1 qui định "Công 2557 ngày 26.12.96 (QĐ 2557/BYT) cũng nêu rõ dân có quyền được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải là "bệnh nhân AIDS và người bị nhiễm HIV có trí, rèn luyện thân thể; được đảm bảo vệ sinh trong trạng thái tinh thần sẽ được quản lý, chăm sóc theo lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường chế độ đối với bệnh nhân tâm thần". Thái độ đối sống và được phục vụ về chuyên môn y tế". Điều xử khác đi thường gặp là nhân viên y tế đã khám 4 của Pháp lệnh Phòng chống nhiễm virut gây ra qua loa cho NCH hoặc muốn chuyển NCH lên hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người tuyến trên. Chị Bd7 nói: "Họ rất sợ tôi mặc dù lúc (Pháp lệnh PC AIDS)(7) đã nói "Người nhiễm đó tôi chẳng có triệu chứng gì. Họ dùng một cái HIV/AIDS không bị phân biệt đối xử nhưng phải thước kẻ để gạt tờ giấy giới thiệu của tôi sang một thực hiện các biện pháp phòng chống lây truyền bên chỉ vì tờ giấy ghi rõ tôi là người có HIV". Một bệnh để bảo vệ sức khỏe cộng đồng theo luật pháp bạn có HIV (H12) than phiền "sau khi mổ xong, họ qui định". Điều 20, khoản 3 của Pháp lệnh PC chuyển ngay bệnh nhân có HIV sang bệnh viện có AIDS(7) đã nêu ra là "Nghiêm cấm việc từ chối khoa điều trị AIDS hoặc cho ra viện sớm". Một khám chữa bệnh cho người nhiễm HIV/AIDS". bạn khác (H21) nói "Có phòng xét nghiệm đã để người có HIV tự lấy máu của mình vì nhân viên sợ Từ chối điều trị chỉ vì lý do có HIV là sự phân bị lây nhiễm". biệt đối xử tùy tiện vì nó hạn chế quyền được chăm sóc sức khoẻ nói chung theo Luật Bảo vệ Sức khoẻ Tình huống 3. Lấy máu xét nghiệm HIV nhân dân và quyền được khám chữa bệnh khi có HIV theo điều 20, khoản 1 của Pháp lệnh PC mà không cho người được xét nghiệm biết AIDS(7) là "Thầy thuốc và nhân viên y tế có trách Theo QĐ 2557/BYT(7), phần II (3), "những nhiệm chăm sóc bệnh nhân AIDS và giải thích cho người bị nghi nhiễm HIV/AIDS phải được tư vấn người thân trong gia đình của người bị nhiễm trước và sau khi xét nghiệm máu" Điều này đã HIV/AIDS hiểu về HIV/AIDS để phòng bệnh" được nêu trong Thông tư liên bộ số 14 của Bộ Y tế Trên thực tế, nhân viên y tế có nhiều cách để và Bộ Lao động Thương binh Xã hội ngày 16.6. từ chối điều trị. Theo YT29, một NTTCC ở một 2000(7) (TTLB-14/YTLĐ): "cán bộ phụ trách y tế ở bệnh viện có ghi rõ trên bảng là "bệnh viện không cơ sở chữa bệnh tổ chức tư vấn cho các đối tượng có giường điều trị AIDS" và "bệnh viện không có để họ tự nguyện xét nghiệm phát hiện nhiễm bác sĩ chuyên khoa AIDS". Chị Bd2 than phiền "Em HIV/AIDS và tư vấn sau khi có kết quả xét xin vào khám thai gần đến ngày đẻ song phòng nghiệm". Trên thực tế, nhiều trường hợp tư vấn bị khám của bệnh viện X. nói rằng ở đây không có bỏ qua. Một nhân viên y tế, anh YT4 nói rằng thuốc điều trị AIDS và giới thiệu em sang bệnh "Chúng tôi thường không giải thích về xét nghiệm viện Y. Bệnh viện Y nói rằng Khoa Sản đang sửa HIV cho người đến xét nghiệm, mà giải thích cho chữa nhà cửa nên đã hết giường nằm. Quay trở lại người nhà của họ vì sợ họ bi quan. Trước đó chúng bệnh viện X, em vẫn bị từ chối. Sau đó, em đã sinh tôi bảo họ rằng lấy máu để làm xét nghiệm tìm cháu ở một Trung tâm y tế quận. May sao cháu hiện virut viêm gan B." YT23 cho biết "Ở một bệnh nay được 27 tháng tuổi nhưng không có HIV. Từ đó viện mắt, người ta làm xét nghiệm HIV cho mọi em không bao giờ bước chân đến hai bệnh viện kia bệnh nhân nhưng không thông báo và vì nhiều việc Tạp chí Y tế Công cộng,11.2005, Số 4 (4) 35
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | nên không tư vấn được trước xét nghiệm và sau xét nêu lên trong tình huống 1 và 2 trên đây. nghiệm cho mọi người". Theo các văn bản pháp qui, người có hành vi nguy cơ cao được khuyến Tình huống 6. Bắt buộc thông báo tình khích làm xét nghiệâm HIV (tự nguyện), song vẫn trạng có HIV của mình cho vợ hoặc chồng phải làm xét nghiệm nếu không tự nguyện. Xét Theo điều 23 của Pháp lệnh PC AIDS(7) " Vợ nghiệm bắt buộc cũng xuất phát từ ý định tư vấn và hoặc chồng nếu biết mình bị nhiễm HIV/AIDS thì chăm sóc người được xét nghiệm có HIV dương phải thông báo cho nhau, nếu không thông báo thì tính và giúp họ dự phòng lây nhiễm sang những cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo". Các cán bộ người khác trong gia đình và cộng đồng. Do đó nếu tư vấn thường động viên người chồng hoặc người không thực hiện tư vấn thì xét nghiệm HIV trong vợ có HIV thông báo thay vì để cán bộ y tế thông các trường hợp này là tùy tiện và nên tránh. báo. Trong cuộc Hội thảo tháng 3.2003, nhiều thành viên đã nhấn mạnh việc thông báo giữa hai Tình huống 4. Từ chối thông báo kết quả vợ chồng khi một người có nhiễm HIV là phù hợp xét nghiệm HIV cho người làm xét nghiệm với truyền thống chung thủy và trách nhiệm với TTLB-14/YTLĐ(7) đã nêu ra: "Kết quả xét nhau. Tuy nhiên một số người có HIV khi được nghiệm phải được thông báo trực tiếp cho đối tượng phỏng vấn vẫn ngại rằng sự thông báo có thể dẫn ở nơi kín đáo. Không thông báo bằng thư, điện đến tình trạng ly hôn và tan vỡ gia đình. Theo họ, thoại hoặc các phương tiện khác Người thông báo "miễn là mình sử dụng bao cao su đúng cách cho an kết quả xét nghiệm phải tư vấn về mặt tâm lý, xã toàn là được". hội. Nếu kết quả xét nghiệm là dương tính phải giữ Tình huống 7. Giữ bí mật về tình trạng có HIV bí mật với tất cả mọi người trừ vợ hoặc chồng và Pháp lệnh PC AIDS(7), điều 19, khoản 3 nêu rõ người có trách nhiệm theo đúng qui định của pháp "Nghiêm cấm việc đưa tin công khai về tên, tuổi, luật về phòng chống lây nhiễm HIV". Tuy nhiên, địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV/AIDS, trừ một số NTTCC cho biết có trường hợp "cán bộ trả trường hợp được sự đồng ý của người đó". Nghị kết quả xét nghiệm thường thông báo cho gia đình định số 34/CP ngày 1.6.1996(7) của Chính phủ người có HIV như trường hợp thông báo cho bà của (NĐ34/CP) hướng dẫn thi hành Pháp lệnh PC một vị thành niên có HIV với lý do tránh gây sốc AIDS, điều 5 khoản 2 cũng nói "Các cơ quan, tổ cho cháu". Trong các trung tâm cai nghiện, giáo chức, cá nhân nhận được thông báo kết quả xét dục lao động xã hội hoặc trại giam, một số cán bộ nghiệm của người bị nhiễm HIV/AIDS có trách ngại rằng "việc thông báo xét nghiệm trực tiếp có nhiệm giữ bí mật về thông tin đó". Thực tế nhiều thể làm cho trại viên quậy phá nếu không được tư người có HIV được phỏng vấn phàn nàn vì bị lộ bí vấn có hiệu quả" (YT1, YT16 và YT28) mật do một số cán bộ y tế hoặc do cán bộ ngoài ngành y như công an. Bd17 kể lại, có anh công an Tình huống 5. Cách ly người có HIV ở các nói với một bạn nghiện chích ma tuý rằng "...liệu cơ sở y tế đấy, không khéo lại dính HIV như Bd17" Mặt khác, Theo QĐ 2557/BYT(7), phần II.1b, "Theo chỉ một vài người được phỏng vấn là cán bộ phụ nữ lại định của bác sĩ chuyên khoa, bệnh nhân có thể phàn nàn "chúng tôi rất muốn thăm hỏi, động viên được điều trị tại nhà hoặc tại trạm y tế xã, phường" và hỗ trợ người có HIV nhưng có biết là ai đâu để Điều này hàm ý không phải cách ly NCH ở một mà giúp". khoa đặc biệt. TTLB-14/YTLĐ(7), khoản II.2 cũng xác định "Người nghiện ma túy, mại dâm nhiễm 4. Bàn luận HIV/AIDS được bố trí ăn ở, sinh hoạt, học tập, lao Văn phòng Thường trực phòng chống AIDS động, sản xuất cùng với các đối tượng khác trong quốc gia trong cuốn "Hệ thống văn bản pháp qui về cơ sở chữa bệnh, khi mắc bệnh nhiễm trùng cơ hội công tác phòng chống HIV/AIDS" đã tập hợp được sẽ được điều trị tại khu hoặc phòng dành riêng cho tới 60 văn bản ra đời trong khoảng thời gian 1992- những người bị các bệnh truyền nhiễm khác". Trên 2002. Các văn bản pháp qui ở Việt Nam là cơ sở để thực tế, một số cơ sở y tế vẫn ngại điều trị cho từ đó xem xét tính chất hợp lý, hợp pháp hoặc là người có HIV và muốn chuyển họ lên các bệnh tùy tiện, độc đoán của một hành động phân biệt đối viện hoặc các khoa chuyên về HIV/AIDS như đã xử nào đó. Luật Bảo vệ Sức khoẻ nhân dân, Pháp 36 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2005, Số 4 (4)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | lệnh PC AIDS và Nghị định 34/CP đã đề cập quan trong đề tài Tìm hiểu Kỳ thị và Phân biệt Đối xử hệ giữa cá nhân (và nhu cầu của cá nhân được liên quan đến HIV/AIDS ở Việt Nam năm 2003(12) chăm sóc, điều trị và hỗ trợ) với cộng đồng (và nhu cũng đưa ra nhiều dẫn chứng về phân biệt đối xử. cầu của cộng đồng được bảo vệ tránh nguy cơ mà Hội thảo quốc gia bổ sung và thông qua báo cáo một cá nhân có thể gây ra); từ đó luật pháp đảm nghiên cứu này vào tháng 3.2003 tại Hà Nội do bảo quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của Trung tâm Huy động cộng đồng Việt Nam phòng người có HIV. chống HIV/AIDS phối hợp với Đại học Deakin, Trong thông điệp của mình nhân ngày Thế giới Australia tổ chức đã nêu lên một số nguyên nhân Phòng chống AIDS 1.12.2003, Tổng thư ký Liên chủ yếu về phân biệt đối xử với người nhiễm hợp quốc(8) đã nói "Với tiến độ như hiện nay, chúng HIV/AIDS; trong đó có các nguyên nhân như tâm ta sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu nào vào năm lý cá nhân sợ hãi quá mức và tâm lý xã hội ghét 2005. Chúng ta không đạt được tiến độ hoàn thành bỏ những người có HIV, và cả những bất cập trong các mục tiêu này vì rụt rè, vì không dám đối mặt truyền thông thay đổi hành vi. Họ sợ bị lây nhiễm với các sự kiện rắc rối, hoặc thành kiến với đồng HIV phần nào do họ bị ám ảnh bởi những thông loại, thậm chí còn chậm trễ hơn nữa, vì kỳ thị và điệp thiếu chính xác do báo nói, báo hình, báo viết phân biệt đối xử với những người sống với HIV. hoặc người truyền thông trực tiếp phổ biến trong Hãy đừng để một ai đó ảo tưởng rằng chúng ta có thập kỷ 90. Gần đây, năm 2003, tại một trung tâm thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên 05-06 của một tỉnh miền núi, chúng tôi đã thấy một những bức rào ngăn cách giữa "chúng ta" và "họ". bức tranh lớn vẽ trên tường, xa xa là dãy núi một Trong thế giới có AIDS khốc liệt này, không có mầu đen kịt trong khi bên ngoài trung tâm, đồi núi khái niệm "chúng ta" và "họ". đang phủ một màu xanh tươi mát. Trong bức tranh Những người có HIV, những người chăm sóc họ có một người cao lớn gấp hai người bình thường, như nhân viên y tế, hội viên phụ nữ từ Hà Nội, Hải cầm một cái chổi to đang quét ba con người đang Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Đà Nẵng và TP Hồ chạy trốn, nhỏ bé như những đứa trẻ lên ba. Sau Chí Minh tại "Hội thảo quốc gia về tư vấn và chăm lưng từng đứa, có những tấm bảng ghi "ma tuý", sóc HIV/AIDS" do Trung tâm Huy động cộng đồng "mại dâm" và "HIV/AIDS". Mới đây thôi (tháng Việt Nam phòng chống AIDS (VICOMC) tổ chức 6.2005), trên truyền hình , chúng tôi đã tình cờ thấy năm 1999(9) cũng đã nêu ra nhiều dẫn chứng về kỳ một tiểu phẩm với diễn viên đóng vai "thần chết" thị và phân biệt đối xử cũng như nguyện vọng được mặc áo choàng màu đen có đầu lâu xương chéo và đối xử bình đẳng của những người chung sống với chữ AIDS! Trên đường phố ở nhiều tỉnh thành hiện HIV. Tại "Hội thảo tập huấn về kỳ thị và phân biệt nay, vẫn còn những pa nô với những bộ xương lủng đối xử liên quan đến HIV/AIDS" do Viện Nghiên lẳng tạo cho người xem cảm giác ghê sợ những cứu Phát triển Xã hội tổ chức năm 2002(10) gồm người nghiện chích ma túy và HIV/AIDS. những người sống với HIV đến từ Hà Nội, Hải Phòng và Cần Thơ, các nhân chứng trực tiếp đã 5. Kết luận và khuyến nghị trình bày những hình thái phân biệt đối xử mà họ Trên thực tế, cuộc điều tra phỏng vấn của đã trải qua ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau như y tế, chúng tôi đã đưa ra một hiện tượng khá phổ biến là việc làm, luật pháp và hành chính. người có HIV/AIDS ở Hà Nội đang gặp phải sự kỳ Tài liệu "Phòng, chống kỳ thị và phân biệt đối thị và phân biệt đối xử trong ngành y tế như từ chối xử với người nhiễm HIV/AIDS" của UNAIDS và không nhận điều trị. Lảng tránh có lẽ là hành vi Hội Nghị sĩ về Dân số và Phát triển Việt Nam thường gặp với các lý do không có chuyên khoa, (VAPPD) xuất bản tháng 6.2003(11) cũng đưa ra các không có thuốc để chuyển bệnh nhân đến một cơ dẫn chứng về kỳ thị và phân biệt đối xử như không sở điều trị khác và đùn đẩy giữa các cơ sở như nhận cháu vào nhà trẻ, từ chối khám bệnh. "Em trường hợp của Bd2., bắt chờ đợi lâu cũng là một thấy cay đắng và uất hận ngay cả khi em đem con cách ứng xử không hợp đạo lý. Tuy nhiên, vài năm đi nhà trẻ. Cô ấy khuyên em là khi nào cháu lớn gần đây, truyền thông đã bắt đầu phổ biến một hãy cho đi học và trường sẽ không bao giờ nhận cách nhìn mới về HIV/AIDS; một hình ảnh mới về cháu nếu cháu bị nhiễm HIV. Em bị sốc kinh những người có HIV đang tích cực hoà nhập cộng khủng"- NCH ở Hà Nội. Khuất Thu Hồng và CS đồng và tham gia phòng chống đại dịch của thế kỷ. Tạp chí Y tế Công cộng,11.2005, Số 4 (4) 37
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Chúng tôi đề nghị: chặn sự phát triển của đại dịch. Bộ Y tế đã trình - Truyền thông về HIV/AIDS cần nhấn mạnh Uỷ ban Thường vụ Quốc hội văn bản Pháp lệnh đến tinh thần nhân văn và trách nhiệm của nhân mới dự kiến thay thế cho Pháp lệnh PC AIDS năm viên y tế, phổ biến những văn bản pháp qui đã ban 2005. Trong văn bản mới này đã có định nghĩa thế hành song song với việc nâng cao trình độ chuyên nào là kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm môn về HIV/AIDS và đảm bảo an toàn lao động HIV/AIDS; quyền và nghĩa vụ của người nhiễm cho nhân viên y tế. HIV/AIDS; những hành vi bị nghiêm cấm trong đó có kỳ thị và phân biệt đối xử. - Ngành y tế của chúng ta cần đi đầu trong công tác chống kỳ thị và phân biệt đối xử với người có - Truyền thông thay đổi hành vi nên được tiến HIV/AIDS; tích cực phổ biến rộng rãi và thực hiện hành khẩn trương và tích cực để xoá đi tâm lý cá nghiêm túc các văn bản pháp qui đã ban hành, đảm nhân sợ hãi nhiễm HIV một cách thái quá và tâm bảo tư vấn trước và sau xét nghiệm và giữ bí mật lý xã hội coi người nhiễm HIV là người có hành vi kết quả xét nghiệm HIV cho mọi người đến làm xét thiếu đạo đức, đáng bị phân biệt đối xử và Luật nghiệm. HIV/AIDS sắp được ban hành về lâu dài sẽ có tác - Tạo lập một môi trường xã hội đồng cảm và động hướng dẫn và thay đổi cả quan điểm đạo đức một khung pháp lý trong đó người có HIV/AIDS của cả xã hội đối với những người có HIV theo được chăm sóc, điều trị và hỗ trợ, tránh bị kỳ thị và chiều hướng tôn trọng quyền con người và thuận lợi phân biệt đối xử là chiến lược quan trọng để ngăn cho công cuộc ngăn chặn đại dịch. Tác giả: 6. UNAIDS. Protocol for the Identification of Discrimination Against People Living with HIV. Geneva: 1. BS. Đặng Văn Khoát và cộng sự, Trung tâm huy động UNAIDS. 2000 cộng đồng Việt Nam phòng chống HIV/AIDS. Địa chỉ: Số 16 ngõ 4, Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội. Điện thoại: 04 7. Văn phòng thường trực Phòng chống AIDS Bộ Y tế. Hệ 5741251. E.mail: vicomc@hn.vnn.vn thống văn bản pháp qui về công tác phòng chống HIV/AIDS. 2002. 2. ThS Chu Quốc Ân, Phó Tổng biên tập Tạp chí AIDS và Công đồng, Bộ Y tế. 8. Kofi Annan, Tổng thư ký Liên hiệp quốc. Thông điệp nhân ngày Thế giới Phòng chống AIDS 1.12.2003. Bản phát 3. TS Daniel D Reipath, Điều phối viên Dự án Lượng giá tay của UNAIDS. 2003 tình hình kỳ thị và phân biệt đối xử ở Châu Á Thái Bình Dương. Đại học Tổng hợp Deakin, Virginia, Australia. 9. Trung tâm Huy động cộng đồng Việt Nam phòng chống AIDS (VICOMC). Hội thảo quốc gia về tư vấn và chăm sóc HIV/AIDS". Hà Nội. 1999. Tài liệu tham khảo chủ yếu 10. Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội. Hội thảo tập huấn 1. Chương trình phối hợp Phòng chống HIV/AIDS của Liên về kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS". hợp quốc (UNAIDS) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Cập Hà Nội. 2002 nhật dịch AIDS, 12.2004. UNAIDS/WHO. 2004 (1) 11. UNAIDS và Hội Nghị sĩ về Dân số và Phát triển Việt 2. Bộ Y tế và Uỷ ban Quốc gia Phòng chống AIDS và Nam (VAPPD). Phòng, chống kỳ thị và phân biệt đối xử với phòng chống tệ nạn Ma tuý, Mại dâm. Thống kê 8.2005. người nhiễm HIV/AIDS. Hà Nội 6. 2003 (1) 3. Joy Elamon. Chung sống với HIV/AIDS ở Ấn Độ: Kỳ thị 12. Khuất Thu Hồng và CS. Tìm hiểu Kỳ thị và Phân biệt và phân biệt đối xử trong xã hội. Hội nghị ICAAP lần thứ Đối xử liên quan đến HIV/AIDS ở Việt Nam. Bản tóm tắt 6, Melbourn, Úc. 2000. tại Hội thảo giới thiệu các nghiên cứu về kỳ thị và phân biệt 4. Access Foundation. Báo cáo về Kỳ thị và phân biệt đối đối xử do Trung tâm Huy động Cộng đồng Việt Nam tổ xử với người nhiễm HIV ở Thái Lan. Hội nghị ICAAP lần chức. 28.4.2004. thứ 6, Melbourn, Úc. 2000. 13. Dang Van Khoat, Le Dien Hong, Chu Quoc An, Doan Ngu 5. Chung Á và CS. Những nỗ lực loại trừ kỳ thị và phân biệt and Daniel D Reidpath. A Situational Analysis of HIV/AIDS- đối xử ở Việt Nam - Hội nghị vệ tinh về Kỳ thị và phân biệt related Discrimination in Hanoi, Vietnam. Access for all. đối xử với người nhiễm HIV, Hội nghị ICAAP lần thứ 6. Abstract Book, Vol.2. Bangkok-Thailand. 2004:269. 38 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2005, Số 4 (4)