Ô nhiễm đơn bào gây bệnh đường ruột và Coliform chịu nhiệt trong rau thủy sinh ở vùng nước thải từ ruộng đến chợ tại Hà Nội

Nghiên cứu được tiến hành vào hai mùa mưa và khô năm 2005 ở khu vực trồng rau sử dụng nước thải và không dùng nước thải ở Thành phố Hà Nội nhằm đánh giá mức độ ô nhiễm coliform chịu nhiệt (ThC) và các đơn bào đường ruột (Giardia spp., Cryptosporidium spp., và Cyclospora spp.) trong rau trồng từ ruộng đến chợ. Chúng tôi thu thập 314 mẫu rau muống, rau ăn sống, 36 mẫu nước tưới rau và 46 mẫu nước vẩy rau, đồng thời quan sát và phỏng vấn nông dân, người vận chuyển, bán lẻ và bán buôn tại các chợ ở Hà nội. Mức độ ô nhiễm ThC ở rau trồng bằng nước thải cao hơn rau không trồng bằng nước thải.

Các đơn bào đường ruột có mặt ở cả rau trồng bằng nước thải và không nước thải. Số lượng trung bình của Giardia spp. và Cryptosporidium spp. trong các mẫu rau ở vùng nước thải cao hơn vùng không nước thải. Rau bị nhiễm Cyclospora spp. ít hơn so với Giardia spp. và Cryptosporidium spp. với tỉ lệ 4- 5% ở vùng nước thải và không nước thải ở cả hai mùa. Mức độ ô nhiễm ThC trong rau muống tăng dần theo chuỗi từ ruộng đến chợ. Nước (vòi hoặc bể dự trữ) dùng để vẩy rau tại chợ có mức độ ô nhiễm ThC ~ 102 - 103/100ml. ThC cũng có mặt ở tất cả các loại rau thu thập được tại chợ với mức độ 102-103CFU/g. Tỷ lệ nhiễm các đơn bào đường ruột trong các mẫu rau tại chợ từ 7-33% với số lượng trung bình dưới 2 bào nang/g.

Ô nhiễm đơn bào gây bệnh đường ruột và Coliform chịu nhiệt trong rau thủy sinh ở vùng nước thải từ ruộng đến chợ tại Hà Nội

pdf 8 trang Bích Huyền 01/04/2025 240
Bạn đang xem tài liệu "Ô nhiễm đơn bào gây bệnh đường ruột và Coliform chịu nhiệt trong rau thủy sinh ở vùng nước thải từ ruộng đến chợ tại Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfo_nhiem_don_bao_gay_benh_duong_ruot_va_coliform_chiu_nhiet_t.pdf

Nội dung text: Ô nhiễm đơn bào gây bệnh đường ruột và Coliform chịu nhiệt trong rau thủy sinh ở vùng nước thải từ ruộng đến chợ tại Hà Nội

  1. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Ô nhiễm đơn bào gây bệnh đường ruột và Coliform chịu nhiệt trong rau thủy sinh ở vùng nước thải từ ruộng đến chợ tại Hà Nội Nguyễn Thùy Trâm (*), Vương Tuấn Anh (**), Lise T∅nner Klank (***), Phùng Đắc Cam (****), Anders Dalsgaard (*****) Nghiên cứu được tiến hành vào hai mùa mưa và khô năm 2005 ở khu vực trồng rau sử dụng nước thải và không dùng nước thải ở thành phố Hà Nội nhằm đánh giá mức độ ô nhiễm coliform chịu nhiệt (ThC) và các đơn bào đường ruột (Giardia spp., Cryptosporidium spp., và Cyclospora spp.) trong rau trồng từ ruộng đến chợ. Chúng tôi thu thập 314 mẫu rau muống, rau ăn sống, 36 mẫu nước tưới rau và 46 mẫu nước vẩy rau, đồng thời quan sát và phỏng vấn nông dân, người vận chuyển, bán lẻ và bán buôn tại các chợ ở Hà nội. Mức độ ô nhiễm ThC ở rau trồng bằng nước thải cao hơn rau không trồng bằng nước thải. Các đơn bào đường ruột có mặt ở cả rau trồng bằng nước thải và không nước thải. Số lượng trung bình của Giardia spp. và Cryptosporidium spp. trong các mẫu rau ở vùng nước thải cao hơn vùng không nước thải. Rau bị nhiễm Cyclospora spp. ít hơn so với Giardia spp. và Cryptosporidium spp. với tỉ lệ 4- 5% ở vùng nước thải và không nước thải ở cả hai mùa. Mức độ ô nhiễm ThC trong rau muống tăng dần theo chuỗi từ ruộng đến chợ. Nước (vòi hoặc bể dự trữ) dùng để vẩy rau tại chợ có mức độ ô nhiễm ThC ~ 102 - 103/100ml. ThC cũng có mặt ở tất cả các loại rau thu thập được tại chợ với mức độ 102-103CFU/g. Tỷ lệ nhiễm các đơn bào đường ruột trong các mẫu rau tại chợ từ 7-33% với số lượng trung bình dưới 2 bào nang/g. Nghiên cứu cho thấy sự ô nhiễm của ThC và các đơn bào đường ruột vì chúng có mặt trong rau và nước thu thập từ ruộng, trong quá trình vận chuyển từ ruộng đến chợ và tại chợ. Từ khóa: ThC, đơn bào đường ruột, nước thải, rau, Hà Nội. Contamination of protozoan parasites and Thermotolerant Coliforms in wastewater-fed aquatic plants from "field to market" in Hanoi Nguyen Thuy Tram (*), Vuong Tuan Anh (**), Lise T∅nner Klank (***), Phung Dac Cam (****), Anders Dalsgaard (*****) The study was conducted in 2 seasons of 2005 in a peri-urban area using wastewater and another using non-wastewater in Hanoi to assess contamination level of thermotolerant coliforms (ThC) and Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 29
  2. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | protozoan parasites (Giardia spp., Cryptosporidium spp., và Cyclospora spp.) in vegetables from field to market. Vegetable samples including morning glory and other raw eaten vegetables, splashing water were collected, together with interviews were conducted with farmers, transportation men and traders in selected Hanoi markets. Contamination level of ThC in vegetables cultivated in wastewater was higher than those cultivated in non-wastewater. Protozoan parasites were found in vegetables from both wastewater and non- wastewater area. Average numbers of Giardia spp. and Cryptosporidium spp. in vegetable samples from wastewater area were higher than those from non-wastewater. Percentage of vegetable samples contaminated with Cyclospora spp. was lower than that contaminated with Giardia spp. và Cryptosporidium spp. and was about 4-5% in wastewater and non-wastewater area in the 2 seasons. Contamination level of ThC in morning glory samples increased gradually from field to market. Splashing water from tap or storage containers at markets was contaminted with ThC (~ 102 - 103 CFU/100ml). ThC was also present in all kinds of vegetable samples collected at the selected Hanoi markets (102-103 CFU/g). Percentage of vegetable samples at markets contamined with protozoan parasites was from 7-33% and average number of the parasites was found to be less than 2 cysts per gram. In conclusion, the study shows that ThC and protozoan parasites were found in vegetables and splashing water from field, during transportation to market and at market. Keywords: thermotolerant coliforms, protozoan parasites, wastewater, vegetables, Hanoi Tác giả: (*) ThS. Nguyễn Thùy Trâm, Phòng Nghiên cứu các nhiễm khuẩn đường ruột, Khoa Vi khuẩn, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, 1 Yersin, Hà nội. Tel: +84 38219074, email: huongtram07@yahoo.com. (**) TS. BS. Vương Tuấn Anh, Phòng Nghiên cứu các Nhiễm khuẩn Đường ruột, Khoa Vi khuẩn, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, 1 Yersin, Hà nội. Tel: +84 943901375, email: vtanihe@yahoo.co.uk. (***) GS. TS. Phùng Đắc Cam, Phòng Nghiên cứu các nhiễm khuẩn đường ruột, Khoa Vi Khuẩn, Viện VSDT Trung Ương, Hà nội. Tel: +84 38219074, email: cam@fpt.vn. (*****) TS. Lise T∅nner Klank, Khoa Miễn Dịch và Ký Sinh Trùng, Viện Thú Y Quốc Gia, Trường Đại học Kỹ Thuật Đan Mạch. Email: ltj@vet.dtu.dk. (******) GS. TS. Anders Dalsgaard, Khoa Khoa Học Cuộc Sống, ĐH Copenhagen, Đan Mạch. Email: ad@life.ku.dk. 1. Đặt vấn đề ruột (ThC). Ở Cam-pu-chia, mức độ ô nhiễm ThC Sử dụng nước thải trong nông nghiệp và nuôi trong nước hồ từ 104 - 107/100ml [8]. Tại khu vực trồng thủy sản được áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi ven đô thuộc thành phố Hà nội, ThC tìm thấy trong trên thế giới [1,2] vì đem lại giá trị dinh dưỡng cao các ao nuôi cá sử dụng nước thải thành phố với mức cho cây trồng và vật nuôi. Tại các nước đang phát độ ô nhiễm cao tới 106CFU/100ml [4]. Đã có nhiều triển như Cam-pu-chia, Việt nam, Pakistan và bằng chứng cho thấy sử dụng nước thải có thể mang Mexico, nước thải chưa xử lý thường được sử dụng lại nguy cơ về mặt sức khỏe cho người lao động do phổ biến để nuôi trồng thủy sản khu vực ven đô phơi nhiễm với các tác nhân gây bệnh từ nước thải [3,4,5,6]. Tuy nhiên, nước thải cũng chứa nhiều [9, 10] hoặc cho người tiêu dùng khi ăn các loại rau mầm bệnh [7], đặc biệt là coliform gây bệnh đường thủy sinh không nấu chín [11]. 30 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)
  3. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Các đơn bào gây bệnh đường ruột Bảng 1. Quy trình thu thập mẫu rau từ ruộng đến (Cryptosporidium spp., Cyclospora spp., and chợ và tại chợ Giardia spp.) là các mầm bệnh có nguồn gốc từ phân. Các loại đơn bào này phần lớn là nguyên nhân gây các dịch bệnh đường ruột lây truyền qua thực phẩm và nước trên thế giới [12,13,14]. Những loại đơn bào này có thể phát hiện ở trong nước tưới [15,16], do đó việc tái sử dụng nước thải sẽ mang đến những nguy cơ sức khỏe tiềm ẩn [10,17]. Ở các nước phát triển, những dịch bệnh đường ruột do vi khuẩn và đơn bào gây bệnh đều liên quan đến việc tiêu thụ các loại rau được nhập khẩu từ các nước đang phát triển [18,19]. Một số dịch bùng phát đều có liên quan đến mức độ ô nhiễm coliform gây bệnh rất cao từ 0.00-6.81 log10 CFU ml-1 [20] hoặc có nhiễm đơn bào trong rau [16]. Hiện nay, ở Việt nam có rất ít thông tin về chất Lưu ý: lượng rau và các nguy cơ tiềm ẩn đối với các sản Các mẫu được lấy từ 6 hộ gia đình ở cả hai mùa mưa và mùa khô phẩm từ nơi nuôi trồng bằng nước thải đến nơi bán (chợ bán lẻ, chợ đầu mối). Chúng tôi tiến hành xảy ra sau khi rau đã thu hoạch. Cùng thời gian này, nghiên cứu này với mục tiêu nhằm xác định và đánh chúng tôi tiến hành một nghiên cứu độc lập tại chợ giá mức độ ô nhiễm ở rau thủy sinh nuôi trồng bằng Hoàng Liệt gần với khu vực nuôi trồng rau bằng nước thải tại khu vực ven đô, trong khi vận chuyển nước thải và do đó phần lớn rau từ khu vực đó được phân phối đến chợ và trong khi bày bán tại chợ. bày bán ở đây và chợ Hàng Bè ở trung tâm Hà nội. Tại chợ Hàng Bè, rau bày bán có từ nhiều khu vực 2. Phương pháp nghiên cứu sản xuất khác nhau. Các loại rau chính được lấy 2.1.Địa điểm nghiên cứu và phương pháp mẫu là rau húng-Ocimum basilicum, rau mùi- điều tra Coriandrum sativum, kinh giới-Origanum maiorana, rau muống và rau rút-Oenanthe Nghiên cứu được tiến hành tại khu vực ven đô fluviatilis) từ hai người bán rau tại chợ và bán rong thành phố Hà nội tại hai điểm trong mùa mưa từ được lựa chọn ngẫu nhiên. Mẫu nước vẩy rau được tháng 4-6, mùa khô từ tháng 11-12 năm 2005. Hoàng chúng tôi lấy từ vòi nước và từ các đồ chứa mà người Liệt là địa điểm lấy nước thải từ hai con sông chứa bán hàng thường sử dụng. Thông tin về thói quen nước thải lớn nhất của thành phố (Tô Lịch và Kim bảo quản của người bán hàng cũng được thu thập Ngưu) thông qua trạm bơm và hệ thống kênh dẫn. thông qua phỏng vấn và quan sát. Điểm nghiên cứu thứ hai là Long Biên, ở đó nguồn nước tưới chủ yếu là ao chứa nước mưa và nước sông 2.2.Phương pháp lấy mẫu rau và nước Hồng hoặc nước giếng hộ gia đình. Tại mỗi điểm Mỗi mẫu rau lấy 10 gram rau gồm cả lá và thân. nghiên cứu, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 6 hộ gia đình Đựng mẫu trong túi ni lon sạch và bảo quản lạnh tham gia trồng rau. Loại rau nghiên cứu là rau trong khi vận chuyển về phòng thí nghiệm tại Viện muống (tên khoa học: Ipomoea aquatica), loại rau Vệ sinh Dịch tễ Trung ương. Thời gian vận chuyển chính được trồng tại hai điểm nghiên cứu trên. Mỗi từ lúc lấy mẫu đến khi tới phòng thí nghiệm là hộ gia đình lấy 6 mẫu. Trong mùa khô năm 2005, khoảng 1h. Tổng cộng có 96 mẫu rau được lấy tại chúng tôi tiến hành lấy mẫu nước từ 6 ruộng rau tại Hoàng Liệt và 118 mẫu từ Long Biên. Trong nghiên Hoàng Liệt và ao chứa nước mưa tại Long Biên. Qui cứu độc lập tại hai chợ, chúng tôi tiến hành lấy được trình lấy mẫu được mô tả trong Bảng 1. 100 mẫu rau. Đối với mỗi mẫu nước, chúng tôi lấy Phần phỏng vấn sử dụng bảng hỏi thiết kế sẵn một lít mẫu tổng hợp (lấy vào thời điểm 8, 10, 12h) và quan sát. Chúng tôi theo dõi từ "ruộng đến chợ" tại ruộng ở Hoàng Liệt và ao tại Long Biên với tần để thu thập thêm thông tin về nguồn ô nhiễm có thể suất 2 tuần/lần tại Hoàng Liệt và 1 tháng/lần tại Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 31
  4. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Long Biên. Tổng số có 33 mẫu nước được thu thập mẫu tại từng địa điểm nghiên cứu; iii) Fisher's exact từ 6 ruộng rau tại Hoàng Liệt từ tháng 10-12/2005 test để tìm mối liên quan giữa mùa với tỉ lệ mẫu rau trong khi đó chúng tôi chỉ lấy 3 mẫu nước ao tại có tìm thấy đơn bào đường ruột. Mức ý nghĩa thống Long Biên từ tháng 11-12/2005. Tại chợ, chúng tôi kê được chọn là p<0,05. thu thập tổng cộng 46 mẫu nước vẩy rau. Trong khi vận chuyển tới phòng thí nghiệm, mẫu nước luôn 3. Kết quả nghiên cứu được bảo quản lạnh ở nhiệt độ 4-80C. 3.1.Chất lượng nước tưới rau và rau từ 2.3.Phương pháp phân tích mẫu tìm ThC và ruộng đến chợ ở Hà Nội đơn bào Giữa vùng nước thải và vùng không sử dụng Áp dụng phương pháp MPN [20] để tìm ThC nước thải, hàm lượng coliform trong nước có sự (gọi tắt là coliform) trong mẫu nước và mẫu rau. chênh lệch đáng kể. Hàm lượng coliform trong nước Việc xử lý mẫu rau theo qui trình sau đây: 10 gram thải dùng để tưới rau ở Hoàng Liệt ~104CFU/ rau được cho vào một cái túi đặc biệt; thêm vào đó 100ml. Ở Long Biên, vùng không sử dụng nước thải, 100 ml NaCl 0.9% vô trùng; thêm nước cất cho đến cũng có hàm lượng coliform trung bình khoảng 102- khi ngập hết mẫu và cho túi mẫu vào máy lắc 103CFU/100ml. Hàm lượng coliform trong rau ở Pulsifier; sau khi lắc 30 giây, lấy 1 ml dung dịch mỗi thời điểm lấy mẫu tại hai vùng được thể hiện ở chuyển sang ống nghiệm vô trùng chứa 9ml dung Bảng 2. Trong khi hàm lượng coliform ở rau của dịch Ringer 1/4; pha loãng 10 lần và đưa ống vùng nước thải là (10-103 CFU/gram), ở vùng không nghiệm vào tủ ấm 440C (±0.250C) trong 24h. Đọc nước thải là 10-102 CFU/gram. Số lượng coliform kết quả dựa trên số ống dương tính (có sinh hơi) ở trung bình trong các mẫu vào mùa mưa cao hơn mùa mỗi nồng độ pha loãng và đối chiếu với bảng MPN. khô (p=0.002). Ở cả hai khu vực, hàm lượng Phương pháp tìm ThC trong mẫu nước cũng được coliform có xu hướng ngày càng cao ở những thời tiến hành tương tự [20]. điểm lấy mẫu sau cùng. Tuy nhiên, hàm lượng Phương pháp tìm đơn bào (Giardia spp., coliform trung bình có sự khác biệt đáng kể giữa hai Cryptosporidium spp., và Cyclospora spp) chỉ áp vùng (p<0.05) khi rau được thu thập ở ruộng do dụng trên mẫu rau và được tiến hành như sau: 10 nghiên cứu viên, người nông dân trước và sau khi gram rau được rửa bằng máy lắc Pulsifier và nước rửa rau. Hơn nữa sự khác biệt về hàm lượng rửa được quay ly tâm; 200μl khối lượng cuối cùng coliform giữa các thời điểm lấy mẫu là có ý nghĩa được ủ ấm 370C trong 2-3h trên lam kính Teflon và thống kê (p<0.001). sau đó được nhuộm kháng thể đơn dòng bắt màu huỳnh quang đối với Giardia spp. và Bảng 2. Số lượng Coliform ở rau muống được thu Cryptosporidium spp; những bào nang của các loại thập từ ruộng đến chợ ở Hà Nội, Việt Nam đơn bào này được soi và đếm dưới kính hiển vi sử dụng ánh sáng huỳnh quang, phóng đại 400 lần; ước tính số lượng trên mỗi gram rau. Cyclospora spp. được tìm trong 22μl (0.11g) thể tích cuối cùng dựa trên nguyên tắc tự bắt màu huỳnh quang dưới kính hiển vi huỳnh quang[8]. 2.4.Phân tích số liệu Số liệu được tiến hành phân tích trên phần mềm Lưu ý: Các chữ cái chỉ ra các loại mẫu khác nhau: A) rau được phân tích thống kê SPSS. Số lượng coliform được lấy ở ruộng do nghiên cứu viên; B) rau được lấy ở ruộng do chuyển sang dạng logarithm để bảo đảm phân bố người nông dân trước khi rửa; C) rau được lấy ở ruộng do người chuẩn. Sử dụng các phép kiểm định thống kê sau nông dân sau khi rửa; CD) rau được lấy ở ruộng do người nông dân và được bảo quản qua đêm tại hộ gia đình và D) rau được đây cho nghiên cứu này: i) Student' T-test để so lấy do nghiên cứu viên khi rau đến chợ ở Hà nội. sánh trung bình của ThC giữa các vị trí lấy mẫu; ii) ANOVA test để so sánh trung bình của coliform và Đơn bào gây bệnh có mặt trong rau muống theo tỉ lệ mẫu rau tìm đơn bào giữa các thời điểm lấy chuỗi từ "ruộng đến chợ". Nhìn chung, tỉ lệ dương 32 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)
  5. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | tính với Giardia spp. (37/96, 38.5%) và Các đơn bào (Cryptosporidium spp., Giardia Cryptosporidium spp. (28/96, 29,2%) ở vùng nước spp., Cyclospora spp.) cũng được tìm thấy trong các thải cao hơn so với vùng không sử dụng nước thải mẫu rau thu thập tại chợ. Giữa mùa khô và mùa (Giardia spp: 20/118; 16,9% và Cryptosporidium mưa, tỷ lệ dương tính với Giardia trên mẫu rau có spp.: 16/118, 13,6%). Tỷ lệ dương tính với sự khác biệt khá lớn. Giardia spp. vẫn là bào nang Cyclospora spp. thấp hơn Giardia spp. và được tìm thấy nhiều nhất ở cả hai chợ vào mùa mưa Cryptosporidium spp. nhưng vẫn có mặt trong các trong khi Cryptosporidium spp. and Cyclospora spp. mẫu rau với tỷ lệ ở vùng nước thải và vùng không lại phát hiện được nhiều hơn vào mùa khô nước thải là 4.2% (1/24) - 12.5% (3/24), xem bảng (p<0.001). Bảng 4 thể hiện kết quả thu thập mẫu rau 3. Số lượng bào nang Giardia nhiều nhất trong rau ăn sống (rau húng, kinh giới, rau mùi) và rau thủy muống trồng ở vùng nước thải với hàm lượng trung sinh (rau muống, rau rút) ở hai chợ Hoàng Liệt và bình 1.6 bào nang/gam (95% CI 0.9-2.4), tiếp theo Hàng Bè. Giardia đều có mặt ở các mẫu rau sống là Cryptosporidium với hàm lượng 1.2 bào tại hai chợ với hàm lượng trung bình 0.5 bào nang/gam (95% CI 0.7-1.7) và ở vùng không dùng nang/gam (95% CI 0.2-0.7) và trong mẫu rau thủy nước thải hàm lượng trung bình của Giardia là 0.6 sinh là 1.1 bào nang/gam (95% CI 0.5-1.8). Đặc bào nang/gam (95% CI 0.2-1), Cryptosporidium là biệt, tỷ lệ dương tính với Giardia trong rau kinh giới 0.3 bào nang/gam (95% CI 0.1-0.4). Giữa vùng và rau muống tại chợ Hoàng Liệt có sự khác biệt nước thải và vùng không dùng nước thải có sự khác đáng kể (p=0.005). Hàm lượng trung bình của biệt đáng kể về tỷ lệ có mặt của Giardia spp. đặc Cryptosporidium spp. trong rau an sống là 0.1 bào biệt tại thời điểm rau được nông dân thu hoạch ở nang/gam (95% CI 0-0.2) và trong rau thủy sinh là ruộng sau khi đã rửa (p=0.046) và rau được chúng 1.1 bào nang/gam (95% CI 0.2-2.0). Bào nang tôi thu thập trước khi đến chợ (p=0.003). Tuy nhiên, Cyclospora spp. được phát hiện với số lượng ít nhất tỷ lệ dương tính với Giardia spp., Cryptosporidium ở cả hai loại rau ăn sống và rau thủy sinh. spp. và Cyclospora spp. ở cả hai vùng không có sự Số lượng coliform ở 46 mẫu nước thu thập được khác biệt giữa các thời điểm lấy mẫu. Hơn nữa, vào tại chợ Hoàng Liệt là (101-104 CFU/100ml), không mùa khô 2005, tỷ lệ dương tính với Giardia spp. và cao hơn nhiều so với chợ Hàng Bè (10-103 Cryptosporidium spp. ở vùng nước thải cao hơn CFU/100ml) vào cả hai mùa. Bảng 5 cho thấy hàm nhiều so với vùng không dùng nước thải (p<0.001). lượng coliform khá cao trong mẫu nước đựng ở xô so với mẫu nước thu thập trực tiếp từ vòi ở cả hai chợ (p<0.001). Hàm lượng coliform trong mẫu rau Bảng 3. Hiện diện của các đơn bào ở rau muống thu được ở cả hai chợ dao động từ 102-103 CFU/gam thu thập từ ruộng ở Hoàng Liệt (N=96) và và không có sự khác biệt đáng kể (p=0.09). Bên Long Biên (N=118) đến chợ cạnh đó, hàm lượng coliform giữa hai mùa ở cả hai chợ cũng không có sự khác biệt (p=0.68). Bảng 4. Hiện diện của các đơn bào ở rau thu thập tại chợ Hoàng Liệt (N=52) và Hàng Bè (N=48) ở Hà Nội, Việt Nam Lưu ý: Các chữ cái chỉ ra các loại mẫu khác nhau: A) rau được lấy ở ruộng do nghiên cứu viên; B) rau được lấy ở ruộng do người nông dân trước khi rửa; C) rau được lấy ở ruộng do người nông dân sau khi rửa; CD) rau được lấy ở ruộng do người nông dân và được bảo quản qua đêm tại hộ gia đình và D) rau được lấy do nghiên cứu viên khi rau đến chợ ở Hà nội. Nhiễm bẩn coliform và ký sinh trùng đơn bào trong rau và nước vẩy rau tại chợ Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 33
  6. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Bảng 5. Số lượng (coliform)/100ml từ các nguồn CS thực hiện [21] với hàm lượng E.coli có mặt trong nước dùng làm tươi rau tại chợ (Hoàng nước thải dùng trong sản xuất nông nghiệp khá thấp Liệt và Hàng Bè) ở Hà Nội, Việt Nam thông qua hệ thống kênh mương và phương pháp này có khả năng làm giảm sự tiếp xúc giữa nước tưới tiêu và rau. Nghiên cứu này cũng cho thấy nhiễm bẩn Coliform, Giardia spp., Cryptosporidium spp cũng như sự có mặt của Cyclospora spp. ở rau muống sau thu hoạch và đưa ra chợ. Từ các kết quả nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng có thể do các vi sinh vật này tiếp xúc và bám vào bề mặt rau trong lúc thu hoạch, vận 4. Bàn luận chuyển, chế biến, đóng gói hoặc bảo quản do các vi Nghiên cứu cho thấy hàm lượng coliform trong sinh vật này lan truyền từ nước bể chứa vẩy rau [22] nước tưới rau ở ruộng nước thải (104/100ml) của hoặc nước vẩy rau [16]. Điều này phù hợp với quan vùng ven đô Hà nội cao hơn ở ruộng không dùng sát của chúng tôi vì từ 50-83.3% nông dân được nước thải (102 - 103/100ml) và không khác biệt phỏng vấn khi tiếp xúc với rau thường không đi nhiều với nước vẩy rau được thu thập ở chợ (10 - găng. Mặc dù 66.7-91.7% nông dân hoặc người vận 104/100ml). Hàm lượng coliform trung bình trong chuyển không dùng nước để vẩy lên rau trong quá các mẫu rau muống thu thập theo chuỗi từ ruộng trình vận chuyển hoặc trước khi giao hàng tại chợ đến chợ ngày càng cao ở những giai đoạn lấy mẫu nhưng hầu hết người nông dân lại sử dụng nước từ sau cùng. Các bào nang Giardia tìm thấy nhiều nhất ao, hồ để vảy lên rau trong quá trình bảo quản tại trong mẫu rau thu thập từ ruộng đến chợ và tại chợ nhà hoặc để rau trên mặt đất qua đêm khiến cho rau với hàm lượng trung bình 0.6-1.6 bào nang/gam ở dễ bị nhiễm bẩn với các vi sinh vật này. ruộng và 0.5-1.1 bào nang/gam ở chợ, tiếp theo là Giardia spp và Cryptosporidium spp. có tỷ lệ Cryptosporidium với 0.3-1.2 bào nang/gam (ở dương tính khá cao trong nước thải dùng để tưới cho ruộng) và 0.1-1.1 bào nang/gam (ở chợ). Bào nang rau vào mùa khô. Sự xuất hiện của đơn bào trong Cyclospora có mặt trong một số mẫu rau. rau tại ruộng trái ngược với kết quả được tìm thấy Số lượng coliform trong nước thải (104/100ml) trong nước tưới tiêu, đặc biệt vào mùa mưa [23]. vượt quá giới hạn cho phép của TTYTTG 2006 đối Trong thực tế, người ta thấy rằng vi khuẩn và đơn với nước tưới tiêu (102 - 103/100ml). Mặc dù, các kết bào ít có khả năng sống sót ngoài cơ thể vật chủ quả về chất lượng vi sinh trong nước dùng cho sản [24,25], do vậy chúng chết khá nhanh khi ở trên bề suất nông nghiệp ở vùng ven đô Hà nội thấp hơn các mặt rau vì bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như tiếp xúc báo cáo trước đây [4], nguồn nước được dùng trong với ánh nắng mặt trời vào mùa hè hoặc giữa những nghiên cứu này thường không được bảo vệ khỏi sự lần tưới và thu hoạch rau. Người ta cũng thấy rằng ô nhiễm từ bề mặt. vào mùa khô, khi nồng độ ô nhiễm vi sinh vật trong Chúng tôi cũng tìm thấy rau muống trồng ở nước tưới đậm đặc hơn, tần suất tưới khoảng 1 tuần vùng dùng nước thải bị nhiễm bẩn với coliform, 1 lần cũng làm cho việc nhiễm các đơn bào này Giardia spp., và Cryptosporidium spp nhiều hơn ở trong rau ở ruộng sẽ cao hơn. vùng không dùng nước thải và Cyclospora spp. có Mặc dù, rau lấy mẫu ở chợ có số lượng coliform mặt ở cả hai vùng của Hà nội. Các kết quả này phù là 102 - 103 /gram và đơn bào khoảng 0.1-1.1 bào hợp với các nghiên cứu ở Mexico [6], Ghana [7] và nang/gram, thấp hơn so với mẫu rau thu thập theo Cambodia [8] nơi mà rau bị nhiễm bẩn coliform và chuỗi từ "ruộng đến chợ". Tỷ lệ phát hiện Giardia đơn bào do tưới bằng nước thải. Hàm lượng coliform spp., và Cryptosporidium spp. (32% and 18%) trên (101 - 103 /gram), ký sinh trùng đơn bào (0.3-1.6 bào mẫu rau ở chợ cũng thấp hơn ở những mẫu thu thập nang/gam) trong rau của nghiên cứu này thấp hơn theo chuỗi từ "ruộng đến chợ" ngoại trừ Cyclospora các nghiên cứu khác [8]. Điều này cho thấy phương spp. (7%). Các kết quả này khẳng định sự có mặt pháp tưới tiêu đóng vai trò quan trọng trong việc lan của đơn bào trong rau thu thập được từ những người truyền các vi sinh vật gây bệnh. Các kết quả của bán buôn và bán lẻ ở chợ. Bên cạnh đó, các kết quả chúng tôi phù hợp với nghiên cứu được Ensink và của chúng tôi cũng chỉ ra rằng sự xuất hiện của 34 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)
  7. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Giardia spp. trong rau là khá phổ biến vào mùa mưa bán hàng có thể tăng nguy cơ nhiễm coliform và các và ẩm ướt. Các nghiên cứu gần đây ở Pakistan [21], bệnh đường ruột khác. Trong thực tế, việc cung cấp Ghana [7] hay ở Việt Nam [16] rau ở ruộng có sử nước sạch cũng như việc xử lý nước thải là mục tiêu dụng nước thải và rau tại chợ địa phương (coliform, lâu dài nhằm làm giảm sự lan truyền các bệnh lây giun sán và đơn bào) cũng được phân tích về chất truyền qua đường nước và thực phẩm. Tuy nhiên, lượng trên rau ở ruộng có sử dụng nước thải và rau cho đến khi những hạ tầng cần thiết được xây dựng tại chợ địa phương trong các nghiên cứu. Mặc dù, ở những nước phát triển, sự can thiệp vào quá trình chúng tôi không tiến hành tìm đơn bào trong các khử khuẩn, bảo quản kết hợp với giáo dục vệ sinh mẫu nước tưới và nước vẩy rau, hàm lượng coliform cho những người bán hàng có thể giúp cung cấp ở các mẫu nước đựng trong xô cao hơn đáng kể so những phương pháp bền vững trong việc giảm thiểu với hàm lượng vi sinh vật này trong các mẫu nước nguy cơ lây truyền các bệnh đường ruột từ rau bán vòi tại chợ. Nước do người nông dân sử dụng ít nguy ở chợ. cơ bị nhiễm bẩn hơn so với nước do người bán hàng dùng ở chợ. Do vậy, việc vận chuyển rau sau thu 5. Kết luận hoạch có thể tăng khả năng nhiễm bẩn rau. Một Rau trồng ở vùng ven nội đô Hà Nội bị nhiễm nghiên cứu do Beuchat tiến hành cho thấy rau dễ bị coliform và các đơn bào gây bệnh đường ruột theo nhiễm các vi sinh vật gây bệnh ở người hoặc động chuỗi từ "ruộng đến chợ" và tại chợ. Rau ăn sống vật từ nhiều nguồn khác nhau [24]. Điều này cho hoặc rau không qua chế biến có thể là những nguồn thấy những hành vi thực hành không hợp vệ sinh là vi khuẩn và đơn bào gây bệnh. Việc tưới tiêu hoặc nguồn lây nhiễm chủ yếu, đặc biệt vào mùa mưa khi làm tươi rau với nước bị nhiễm bẩn là con đường các bào nang này có thể sống sót khá tốt trong điều chính khiến rau bị nhiễm các vi sinh vật lây truyền kiện ẩm ướt. Những hành vi thực hành này bao gồm: qua thực phẩm. Để giảm thiểu những nguy cơ sức sử dụng nước bị nhiễm bẩn để làm tươi rau tại chợ, khỏe do nhiễm coliform gây bệnh và đơn bào trong môi trường xung quanh mất vệ sinh trong quá trình rau, những nguyên tắc vệ sinh liên quan đến chuỗi đóng gói và bảo quản, thói quen không hợp vệ sinh cung cấp thực phẩm cần được áp dụng từ nơi sản của người bán hàng (không có găng tay), dụng cụ xuất đến lúc tiêu thụ. Trong tương lai, cần những đựng rau và việc nhiễm chéo với các thực phẩm nghiên cứu về sự sống sót của vi sinh vật, định danh khác hoặc đồ dùng đựng đồ ở chợ. Vì việc rửa tay, các loài sẵn có do vậy có thể phân biệt và xác định đặc biệt sau khi đi vệ sinh và trước khi chuẩn bị thức được nguồn lây từ đó đánh giá được những ảnh ăn là nền tảng của vệ sinh thực phẩm. Thói quen hưởng đối với sức khỏe con người qua tiêu thụ thực không rửa tay hoặc thỉnh thoảng rửa tay với xà phẩm bị nhiễm bẩn dựa vào đánh giá nguy cơ theo phòng trong xô nước sau khi đi vệ sinh của người chuỗi từ ruộng đến chợ. Tài liệu tham khảo 4. Lan NTP, Dalsgaards A, Cam PD & Mara D (2007) Microbiological quality of fish grown in wastewater-fed and 1.Shuval H, Adin A, Fattal B &Yekutiel P (1986) non wastewater-fed fish ponds in Hanoi, Vietnam: influence Wastewater irrigation in Developing countries. Health of hygiene practices in local retail markets. Journal of Water Effects and Technical Solutions.Washington DC: The World and Health 5, 209-218. Bank. Technical paper no, 51. 5. Van der Hoek W, Hassan MU, Ensink JHJ et al. (2002) 2.Asano T & Levine DA (1995) Wastewater reclamation, Urban wastewater: a valuable resource for agriculture - a recycling and reuse: past, present and future. Water Science case study from Haroonabad, Pakistan. Research Report 63. and Technology 33, 1-14. International Water Management Institute, Colombo, 3. Kuong K, Daream S & Borin C (2005) Peri urban aquatic Srilanka. food production systems in Phnom Penh. Urban Aquaculture 6. Rosas I, Báez A & Coutino M (1984) Bacteriological Magazine 14, 13-15. quality of crops irrigated with wastewater in the Xochimilco Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 35
  8. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | plots, Mexico City, Mexico. Applied and Environmental Issac-Renton J & Ong C (2008) Cyclospora spp. in herbs and Microbiology 47, 1074-1079. water collected from markets and farms in Hanoi, Vietnam. Tropical Medicine and International Health 13(11), 1415- 7. Amoah P, Drechsel P & Abaidoo RC (2005). Irrigation 1420. urban vegetable production in Ghana: sources of pathogen contamination and health risk elimination. Irrigation and 17. Anh VT, van der Hoek W, Ersboll A, Thuong NV, Tuan Drainage 54 (Suppl.), 49-61. ND, Cam PD & Dalsgaard A (2007a) Dermatitis among farmers enagaged in peri-urban aquatic food production in 8. Anh VT, Tram NT, Klank LT, Cam PD & Dalsgaard A Hanoi, Vietnam. Tropical Medicine and International (2007b) Faecal and protozoan parasite contamination of Health 12 (Suppl.2), 59-65. water spinach (Ipomoea aquatica) cultivated in urban wastewater in Phnom Penh, Cambodia. Tropical Medicine 18. Hoang LM, Fyfe M, Ong C et al. (2005) Outbreak of and International Health 12 (Suppl.2), 73-81 cyclosporiasis in British Columbia associated with imported Thai basil. Epidemiology and Infection 133, 23-7. 9. Blumenthal UJ, Cifuentes E, Bennette S, Quiqley M & Ruiz-Palacios G (2001) The risk of enteric infections 19. Singh BR, Singh P, Verma A, Agrawal S, Babu N, associated with wastewater reuse: the effect of season and Chandra M & Agrwal RK (2006) A study on prevalence of degree of storage of wastewater. Transaction of the Royal multi-drug resistant (MDR) Salmonella in water sprinkled Society of Tropical Medicine and Hygiene 95, 131-137 on fresh vegetables in Bareilly, Moradabad and Kanpur (northern India cities) Journal of Public Health 14, 125-131 10. Trang DT, Hien BTT, M∅lbak K, Cam PD & Dalsgaard A (2007b) The epidemiology and eatiology of diarrhoeal 20. Ayres RM & Mara DD (1996) Analysis of Wastewater diseases in adults engaged in wastewater-fed agriculture for Use in Agriculture - A Laboratory Manual of and aquaculture in Hanoi, Vietnam. Tropical Medicine and Parasitological and Bacteriological Techniques. World International Health 12 (Suppl.2), 22-32 Health Organization, Geneva, Switzerland 11. Blumenthal UJ, Peasey A, Quiqley M & Ruiz-Palacios 21. Ensink, JHJ, Mahmood, T, Dalsgaard, A (2007) G (2003). Risk of enteric infections through consumption of Wastewater-irrigated vegetables: market handling versus vegetables with contaminated river water. London School irrigation water quality. Tropical Medicine and of Hygiene and Tropical Medicine, London. International Health, 12(Suppl. 2), 2-7. 12. Fayer R, Trout JM & Jenkins MC 1998. Infectivity of 22. Chaidez C, Soto M, Gortares P & Mena K (2005) Cryptosporidium oocysts stored in water at environmental Occurrence of Cryptosporidium and Giardia in irrigation temperature. Journal of Parasitology 84, 1165-9. water and its impact on the fresh produce industry. International Journal of Environmental Health Research 15, 13. Smith H, Caccio SM, Cook N, Nichols RAB & Tait A 339-345. (2007) Cryptosporidum and Giardia as foodborne zoonoses. Veterinary Parasitology 149, 29-40 23. Keiraita B, Konradsen F, Drechsel P & Abaidoo RC (2007). Effect of low-cost irrigation methods on microbial 14. Ortega YR, Sterling CR, Gilman RH, Cama VA & Diaz contamination of lettuce irrigated with untreated F (1993) Cyclospora species--a new protozoan pathogen of wastewater. Tropical Medicine and International Health 12 humans. New England Journal of Medicine 328, 1308-12. (Suppl.2), 15-22 15. Chauret C, Springthorpe S & Sattar S (1999) Fate of 24. Beuchat, LR (1999) Food Safety Issues: Surface Cryptosporidium oocysts, Giardia cysts and microbial decontamination of fruits and vegetables eaten raw: A indicators during waterwater treatment and anaerobic Review of Food Safety Unit, WHO, Geneva sludge digestion. Canadian Journal of Microbiology 45, 257-262 25. Fayer R (2004) Cryptosporidium: a water-borne zoonotic parasite. Veterinary Parasatology 126, 37-56. 16. Tram TN, Hoang LM.N, Cam PD, Chung TP, Fyfe W, 36 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)