Những rào cản ảnh hưởng đến tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người di cư mùa vụ độ tuổi 18 - 50 tại phường Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội năm 2012
Những rào cản ảnh hưởng đến tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người di cư mùa vụ độ tuổi 18 - 50 tại phường Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội năm 2012
Di cư mang lại những cơ hội việc làm, thu nhập và phụ giúp gia đình nhưng người di cư cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn như thu nhập thấp, điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt, sức khỏe, đặc biệt trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế. Nghiên cứu nhằm tìm hiểu những rào cản ảnh hưởng đến tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người di cư mùa vụ. Thiết kế định tính được sử dụng với chọn mẫu có chủ đích 16 cuộc phỏng vấn sâu và 2 cuộc thảo luận nhóm người di cư tuổi từ 18 - 50 có đau/ốm/bệnh trong 6 tháng trước thời điểm nghiên cứu và cán bộ y tế.
Phân tích chủ đề được thực hiện sau khi gỡ băng và mã hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy thu nhập thấp và không ổn định, chi phí khám chữa bệnh cao tại nơi đến chính là rào cản lớn đến tiếp cận và sử dụng dịch vu y tế. Bên cạnh đó, một số yếu tố khác như thời gian làm việc dài, thói quen tự điều trị, Bảo hiểm Y tế cũng góp phần ảnh hưởng đến tình hình sử dụng dịch vụ y tế của người di cư. Khuyến nghị: Các hoạt động nâng cao sức khỏe cộng đồng cần lôi kéo sự tham gia của người di cư và với người di cư nên đi khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần
File đính kèm:
nhung_rao_can_anh_huong_den_tiep_can_va_su_dung_dich_vu_y_te.pdf
Nội dung text: Những rào cản ảnh hưởng đến tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người di cư mùa vụ độ tuổi 18 - 50 tại phường Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội năm 2012
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Những rào cản ảnh hưởng đến tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người di cư mùa vụ độ tuổi 18 - 50 tại phường Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội năm 2012 Bùi Đắc Thành Nam (*), Vũ Thị Hoàng Lan (**), Lê Thị Kim Ánh (**) Di cư mang lại những cơ hội việc làm, thu nhập và phụ giúp gia đình nhưng người di cư cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn như thu nhập thấp, điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt, sức khỏe, đặc biệt trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế. Nghiên cứu nhằm tìm hiểu những rào cản ảnh hưởng đến tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người di cư mùa vụ. Thiết kế định tính được sử dụng với chọn mẫu có chủ đích 16 cuộc phỏng vấn sâu và 2 cuộc thảo luận nhóm người di cư tuổi từ 18 - 50 có đau/ốm/bệnh trong 6 tháng trước thời điểm nghiên cứu và cán bộ y tế. Phân tích chủ đề được thực hiện sau khi gỡ băng và mã hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy thu nhập thấp và không ổn định, chi phí khám chữa bệnh cao tại nơi đến chính là rào cản lớn đến tiếp cận và sử dụng dịch vu y tế. Bên cạnh đó, một số yếu tố khác như thời gian làm việc dài, thói quen tự điều trị, Bảo hiểm Y tế cũng góp phần ảnh hưởng đến tình hình sử dụng dịch vụ y tế của người di cư. Khuyến nghị: các hoạt động nâng cao sức khỏe cộng đồng cần lôi kéo sự tham gia của người di cư và với người di cư nên đi khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần. Từ khóa: người di cư, đau/ốm/bệnh, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh. Barriers affecting access to and use of health services among seasonal migrants aged from 18 to 59 in Phuc Xa commune, Ba Dinh, Ha Noi, 2012 Bui Dac Thanh Nam (*), Vu Thi Hoang Lan (**), Le Thi Kim Anh (**) Migration provides many opportunities for migrants such as employment, income to support their family. However, migrants have to face many challenges like low income, poor living conditions and quality of life, especially limited access to appropriate health services. The purpose of the study is to understand barriers affecting access to and use of health services among seasonal migrants. Qualitative research design (with 16 in-depth interviews and 2 focus group discussions) was used Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 23
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | with purposive sampling of migrants who were between 18 - 50 years of age and suffered from any diseases during the 6 months prior to the study. The findings show that two major barriers affecting access to and use of health services were low/unstable income and high cost of medical care at health facilities. In addition, other factors such as long working time, self-treatment behavior of seasonal migrants and health insurance also affected the access to health services among seasonal migrants. Key words: migrants, disease, health services, primary health care, medical care Tác giả: (*): Ths. Bùi Đắc Thành Nam. Trường Đại học Y tế Công cộng. Email: buidacthanhnam85@gmail.com (**): - TS.Bs. Vũ Thị Hoàng Lan - Bộ môn Dịch tễ-Thống kê, Đại học Y tế Công cộng. Email: vhl@hsph.edu.vn - Ths.Bs. Lê Thị Kim Ánh - Bộ môn Dịch tễ-Thống kê, Đại học Y tế Công cộng. Email: ltka@hsph.edu.vn 1. Đặt vấn đề Hiện tại, tỷ lệ người di cư mùa vụ đến sinh sống Tại Việt Nam, kinh tế chuyển từ bao cấp sang và làm việc tại Hà Nội khá cao, tuy nhiên những cơ chế thị trường đã tạo điều kiện thu hút đầu tư và chương trình can thiệp hay cung cấp các dịch vụ phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, sự phân bố đầu tư chăm sóc sức khỏe (CSSK) lại ít đề cập đến họ. Để và phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng cung cấp thông tin xây dựng các chương trình can miền đã dẫn đến làn sóng di cư từ nông thôn ra thiệp có hiệu quả, nghiên cứu này tiến hành trên thành thị [2], [7], [10] và di cư tạm thời/mùa vụ nhóm người di cư mùa vụ đang sinh sống và làm chiếm tỷ lệ khá cao (76%) [8]. việc tại Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội với mục tiêu "tìm hiểu những rào cản ảnh hưởng đến tiếp cận và sử Mặc dù di cư đem đến cơ hội việc làm, tăng thu dụng dịch vụ y tế của người di cư mùa vụ". nhập và phụ giúp cho gia đình, tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, người di cư còn phải đối mặt với 2. Phương pháp nghiên cứu những khó khăn trong cuộc sống như thu nhập thấp, điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt hay bảo trợ xã Thiết kế định tính với phương pháp phỏng vấn hội [4], [9]. Những yếu tố này đã là yếu tố nguy cơ, sâu (PVS) và thảo luận nhóm (TLN) được sử dụng làm cho sức khỏe của người di cư kém hơn so với tại địa bàn nghiên cứu. Đối tượng phỏng vấn bao người không di cư [13]. Thêm vào đó, người di cư gồm y tế quận/phường và người di cư mùa vụ. Chọn còn phải đối mặt với các vấn đề tiếp cận và sử dụng mẫu có chủ đích được thực hiện với các tiêu chí sau: dịch vụ y tế (DVYT) tại nơi đến [8], [7]. Tình trạng (i) với người di cư: tuổi từ 18 - 50, có hộ khẩu thường sức khỏe kém hơn nhưng cơ hội tiếp cận và sử dụng trú ngoài Hà Nội (cũ), có đau/ốm/bệnh trong 6 DVYT không tốt như người không di cư. Một số tháng trước thời điểm tiến hành nghiên cứu, di cư nghiên cứu đã chỉ ra rằng người di cư ít đến cơ sở y đến địa bàn nghiên cứu trong thời gian từ 6 tháng - tế (CSYT) hơn người không di cư [4], [7], ngay cả 5 năm ; (ii) với y tế: đại diện lãnh đạo và các trưởng khi họ có khả năng chi trả các DVYT [3]. Tỷ lệ khoa/phòng chức năng của Trung tâm Y tế quận, người di cư tự điều trị khi đau ốm là khá cao ở cả trưởng Phòng Y tế quận, trưởng Trạm y tế và cộng nam và nữ (76% ở nữ và 70% ở nam) [3]. Những rào tác viên (CTV) y tế phường. cản trong việc tiếp cận và sử dụng DVYT là một Trong thời gian từ tháng 03 - 06/2012, 16 cuộc trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến sức khỏe PVS và 2 cuộc TLN được thực hiện. Các băng ghi của người di cư [2]. âm được gỡ bằng bản word, các biên bản ghi chép 24 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | được tổng hợp theo từng bản gỡ băng. Dựa trên mã người di cư) hóa thông tin, kết quả được tổng hợp thành các Thêm vào đó, áp lực kiếm tiền để trang trải cho nhóm chủ đề chính. cuộc sống cũng như gửi tiền về chăm lo cho gia đình Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu: lớn hơn khiến họ phải hạn chế các sinh hoạt ở mức - Người di cư: là những người di chuyển từ nơi tối thiểu nhất. Đồng thời tham gia vào hành vi này đến nơi khác trong vòng 5 năm trước thời điểm CSSK không được khuyến khích. tiến hành điều tra [1]. "... khám bệnh phải mất tiền mà mình chẳng có - Đau/ốm/bệnh: là người có đau/ốm phải nghỉ tiền nên không khám, có bệnh thì chỉ mua thuốc am ngơi ít nhất 1 ngày công lao động theo quy định của bi để uống ... mình làm cho 3 - 4 người ăn rồi lo con Nhà nước (8 tiếng/ngày). cái học hành .... ngày nào mệt thì ăn khoảng 10 nghìn đồ ăn chứ bình thường chỉ có ăn 5 nghìn đồ ăn - Khái niệm "CSYT" và "sử dụng dịch vụ khám một ngày... " (chị H_PVS) chữa bệnh (KCB) tại CSYT" được định nghĩa cụ thể theo Luật khám chữa bệnh số 40/2009/QH12 ngày Chi phí khám chữa bệnh cao: Với thu nhập thấp 23/11/2009 [6]. và không ổn định, trong khi chi phí CSSK tại các thành phố lớn không hề rẻ, nhất là tại các CSYT đầu - Tiếp cận và sử dụng dịch vụ KCB tại CSYT: ngành. Người di cư thường coi việc phải sử dụng được hiểu là khi đối tượng đến CSYT để sử dụng bất DVYT là điều bất đắc dĩ bởi các khoản chi phí cho cứ hình thức cung cấp dịch vụ như tư vấn, khám, CSSK vốn quá cao so với họ, họ chỉ chấp nhận sử điều trị, mua thuốc do CSYT cung cấp. dụng các DVYT với chi phí thấp. 3. Kết quả nghiên cứu ".... cái đồng tiền khéo chúng tôi không chuẩn bị được nhiều, chẳng hạn như vào các viện lớn sẽ tốn Dựa vào kết quả thu thập được từ các cuộc PVS rất nhiều tiền nhưng về quê thì chồng con hay người và TLN, nghiên cứu đưa ra một số rào cản ảnh thân đưa vào viện làm thủ tục ở viện nhà thì cũng có hưởng đến tiếp cận và sử dụng DVYT của người di phần giảm bớt nhiều..." (TLN_ người di cư) cư mùa vụ theo sơ đồ dưới đây. Bên cạnh đó, chi phí gián tiếp cho việc chăm sóc sức khỏe tại các CSYT ở đây như đi lại, ăn uống, thăm nuôi cũng không hề rẻ chút nào. "... đến đấy thì chi phí cái gì cũng đắt lắm ... thế rồi cái tiền của mình đi lại ăn uống và chi phí trong bệnh viện cũng hết hơi nhiều tiền..." (chị H_PVS) Những người làm công tác y tế cũng nhận định thu nhập thấp và chi phí KCB cao chính là rào cản lớn ảnh hưởng đến việc tiếp cận và sử dụng DVYT của người di cư. "... cái chính là thu nhập người ta thấp. Khi có Thu nhập thấp: Thu nhập đóng một vai trò quan bệnh họ cũng lo, nhẹ thì tự điều trị, trừ khi bệnh trọng quyết định đến việc tiếp cận và sử dụng nặng quá họ mới phải chịu thôi .... họ mới về quê thu DVYT bởi đa phần người di cư lên Hà Nội làm ăn xếp tiền nong để đi đến bệnh viện..." (CBYT_PYT) sinh sống đều xuất thân từ những vùng quê nghèo. "Họ đã phải ra đây làm kinh tế nên cũng khó Với thu nhập thấp và không ổn định, họ còn nhiều khăn. Mà giá dịch vụ tại các cơ sở y tế trên địa bàn thứ phải lo hơn việc bỏ tiền CSSK. Họ chỉ chấp quận Ba Đình cũng không phải là thấp.." nhận dành một khoản tiền khá tiết kiệm cho việc (CBYT_TTYT) CSSK. Thời gian làm việc dài: Với công việc lao động "... Bình quân mỗi tháng được 2 - 2,5 triệu còn vất vả về đêm khiến họ không quan tâm tới sức chi phí này nọ, bảo đi khám thì chưa có điều kiện mà khỏe của mình, họ chỉ mua thuốc uống qua loa cho nếu đi mua thuốc thì chỉ có uống thuốc vo mất qua cơn bệnh để làm tiếp. Ngay cả khi địa phương khoảng độ 15 - 20 nghìn hay 30 nghìn thôi...." (TLN_ nơi đến tổ chức đợt khám tư vấn và CSSK miễn phí Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 25
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | được các CTV y tế thông báo rộng rãi nhưng họ ".... ở quê có anh em nội ngoại rồi gia đình mà, cũng không tham gia. Thậm chí một số người di cư bệnh đi nằm độ 5 hay 10 ngày thì có người chăm sóc còn chưa tiếp cận tới các CSYT tại nơi đến bao giờ. cho như thế đỡ hơn nhiều...." (TLN_người di cư) "... làm từ 1 - 2 giờ sáng đi đến 8 - 9 giờ thậm chí Thái độ của chính quyền nơi đến: Chính sách có lúc làm tới 11 - 12 giờ trưa mới về nên chẳng có của địa phương nơi đến và các chương trình CSSK thời gian để chăm sóc sức khỏe. Bây giờ có tiền thì chủ yếu dành cho người có hộ khẩu, thường bỏ qua chăm sóc chứ chẳng có tiền thì mua thuốc uống thôi" người di cư do vị thế không chính thức của họ về (chị H_PVS) mặt pháp lý bởi người di cư lên đây kiếm việc làm "....có lúc người ta (CTV y tế) gọi đi khám đấy, chỉ ở một thời gian và bản thân cũng ít khai báo khi nhưng cô mải làm chả có điều kiện đi khám. Giờ đến đây. Một số chương trình tại địa phương được phải lo làm nuôi mấy đứa con ... Cô chưa KCB từ khi thực hiện vẫn bao gồm người di cư nhưng triển khai đến đây..." (cô H_PVS) gặp nhiều khó khăn do tính di động trong công việc của họ. Cán bộ y tế địa phương chia sẻ người di cư "Hàng năm, Quận/phường vẫn có đợt khám sức thường ít tiếp cận tới các CSYT địa phương để được khỏe miễn phí cho người lao động nhập cư ... Nhưng tư vấn và CSSK bởi thời gian làm việc dài, công chính sách thì chủ yếu dành cho người có hộ khẩu việc lao động vất vả mặc dù chính quyền địa tại đây. Còn người di cư kiếm ăn thì họ ở thời gian phương cũng tạo điều kiện hỗ trợ. rất ngắn mà bản thân họ cũng không khai báo...." "... khi có chiến dịch mà phường (Phúc Xá) tổ (CBYT_PYT) chức khám sức khỏe cho mọi người dân chứ không "... có những chương trình vẫn hỗ trợ cho người phân biệt ngoại tỉnh hay không nhưng số người lao di cư nhưng cũng gặp nhiều khó khăn bởi họ di động ngoại tỉnh khám rất ít ... đối với lao động ngoại chuyển liên tục. Việc tiếp xúc với họ cũng khó do tỉnh thì thời gian không có, họ rất tận dụng, quá quắt điều kiện làm việc của họ khác, đêm làm ngày nghỉ. lắm họ mới đi khám...."(CBYT_CTV) Hoặc có thể ngày họ ở Hoàn Kiếm, đêm họ lại sang "... họ đi làm suốt ngày, thực ra chính quyền Ba Đình, cho nên cũng khó khăn" (CBYT_TTYT) cũng tạo điều kiện thôi, cái chính là bản thân họ, họ Thiếu hiểu biết về hệ thống y tế tại nơi đến: bận công việc, làm lụng cả ngày, họ từ nơi khác đến Những người làm công tác CSSK cho rằng với các nhiều khi nghĩ mình sống bất hợp pháp nên chính họ mô hình cung cấp DVYT sẵn có trên địa bàn, việc cũng không chủ động việc này...." (CBYT_PYT) đáp ứng nhu cầu CSSK cho người di cư là hoàn toàn Thói quen tự điều trị: Ý thức CSSK của người di có thể được, họ có thể chủ động tới các CSYT công cư vẫn còn hạn chế, hành vi tự điều trị vẫn là cách hay tư để được tư vấn và chăm sóc điều trị khi có xử lý bệnh phổ biến nhất. Với tâm lý coi nhẹ các nhu cầu về sức khỏe. bệnh thông thường, người di cư thường tìm đến các "...trên địa bàn phường Phúc Xá có trạm y tế và hiệu thuốc tư nhân gần nơi cư trú để tự điều trị theo rất nhiều cơ sở y dược tư nhân nên khi họ có bệnh hướng dẫn của người bán mà không cần phải tìm tới hay có nhu cầu, họ chủ động đến các phòng khám tư, các CSYT. các hiệu thuốc tư để được hướng dẫn mua thuốc và "Tôi thường xuyên bị ho thôi, lúc đó chỉ cần ra điều trị ...." (CBYT_PYT) hiệu thuốc lấy mấy liều thuốc ho về uống thế là xong, Tuy nhiên, với các mối quan hệ xã hội hạn chế nó khỏi thì thôi còn không khỏi thì đi mua thuốc cũng như thiếu kiến thức trong việc CSSK khiến khác" (TLN_ người di cư) người di cư không tìm được sự giúp đỡ tại địa Họ lo sợ một khi tìm đến các CSYT để CSSK phương nơi đến cũng như không biết tìm đến các mà phát hiện ra những bệnh nguy hiểm sẽ ảnh CSYT phù hợp với nhu cầu CSSK của mình. hưởng tới tâm lý và công việc chính họ. Và khi bệnh ".... kiến thức thì mình không biết để liên hệ với trở nặng, người di cư thường tìm đến sự giúp đỡ tại ai ở đây, chỉ biết đi làm kiếm tiền cho đến khi mệt là quê nhà để thuận tiện cho việc chăm sóc và điều trị. cứ lăn ra ngủ chả cần biết gì hết..." (TLN_ người di ".... đi khám thì cứ sợ biết đâu có bệnh lại lo hơn cư) vì không biết có tiền để chữa hay không thế nên cũng "Bây giờ mà đi khám sức khỏe thì chả biết tới nơi không dám đi" (TLN_ người di cư) nào là tốt nhất. Đôi khi muốn đi nhưng sợ vào những 26 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | chỗ không hợp lý thì tốn tiền mà không tìm ra bệnh" hiểu những rào cản ảnh hưởng tới tiếp cận và sử (TLN_ người di cư) dụng DVYT về mức độ tiếp cận dịch vụ: loại hình Thiếu thông tin về các chương trình sức khỏe tại cung cấp, thời gian đến CSYT, khoảng cách từ nhà địa phương: Các thông tin thường được phát trên loa đến CSYT, thăm khám và chẩn đoán, chi phí sử đài tại địa phương trong những giờ hành chính dụng dịch vụ, BHYT, chính sách; và mức độ phù nhưng với thời gian làm việc chủ yếu vào ban đêm hợp: cảm nhận về CSYT, trình độ kỹ năng và thái nên người di cư thường dành thời gian ban ngày để độ của nhân viên y tế, thời gian chờ đợi, thời gian nghỉ ngơi. Ngoài ra một số đối tượng ban ngày mở cửa của CSYT. Tuy nhiên, khi tiến hành điều tra thường đi làm tại địa phương khác nên không nắm do sự hiểu biết của người di cư còn thấp, thêm vào được các thông tin về CSSK tại địa bàn tạm trú. đó những đối tượng có đau/ốm khi được phỏng vấn hầu hết cho biết họ sử dụng DVYT miễn phí tại "...tôi chưa tham gia do không biết về cái thông trạm y tế và không tìm được đối tượng nam giới di tin ấy (khám sức khỏe miễn phí) cho nên mình cũng cư vào trong nghiên cứu dẫn đến một số rào cản đề không tham gia, cũng do mải lo kiếm tiền thôi ..." ra ở trên vẫn chưa tìm được trong nghiên cứu này. (chị L_PVS) Thay vào đó, nghiên cứu đã tìm ra được một số rào "...trạm y tế cũng có chương trình chăm sóc sức cản khác của người di cư như thu nhập thấp, thời khỏe nhưng do chúng tôi mải làm nên không nhớ ... gian làm việc, thói quen tự điều trị, thiếu hiểu biết cũng đi làm suốt nên chẳng biết các chương trình gì về hệ thống y tế và thiếu thông tin về chương trình nên cũng chẳng tham gia..." (TLN_người di cư) sức khỏe tại địa phương nơi đến. Bảo hiểm Y tế: Với mức sống thấp và chi phí Không riêng người di cư mà cả người dân địa DVYT đắt đỏ, bảo hiểm y tế (BHYT) - được cho là phương, thu nhập đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng cơ hội để người di cư tiếp cận và sử dụng DVYT. đến thói quen tiếp cận và sử dụng DVYT. Các mức BHYT còn có ý nghĩa đặc biệt đối với người di cư thu nhập khác nhau sẽ dẫn đến hành vi tìm kiếm các khi phải đối mặt với những thiệt thòi trong việc tiếp DVYT khác nhau. Các nghiên cứu đã chỉ ra thu cận dịch vụ CSSK do bị hạn chế bởi các mối quan nhập là yếu tố quyết định đến tình trạng sức khỏe hệ xã hội tại nơi đến. Mặc dù biết được những lợi và tìm kiếm DVYT [13], [14]. Bên cạnh thu nhập, ích của BHYT nhưng với mức sống thấp, áp lực kiếm tiền nên họ thường không mua BHYT. một số nghiên cứu khác cũng chi phí DVYT cao cũng được ghi nhận là một trong những nguyên "... tôi thấy nếu mua BHYT thì rất phù hợp vì nhân chính khiến người di cư khó tiếp cận và sử đau/ốm cần đi viện sẽ đỡ rất nhiều. Nhưng do điều dụng DVYT tại nơi đến [7]. Và tại khu vực làm việc kiện chưa có, cuộc sống cũng đang gặp khó khăn nên - chính thức hay không chính thức, người di cư vẫn chưa mua..." (cô V_PVS) phải lao động vất vả với thời gian làm việc dài. Một số ý kiến khác nói BHYT còn nhiều bất Chính vì thế, khi có thời gian rảnh, họ thường nghỉ cập, thủ tục hành chính trong việc khám BHYT ngơi để lấy sức làm việc [11]. Họ chỉ chấp nhận sử phức tạp, việc chăm sóc y tế tại nơi đăng ký bảo dụng khi bệnh trở nên trầm trọng. hiểm không đáp ứng được nhu cầu CSSK của họ. Người di cư thường được nghĩ đến như nhóm trẻ Bên cạnh đó, nhiều người còn nghi ngờ vào chất và có sức khỏe tốt. Và điều này dẫn đến hành vi lượng khám chữa bệnh khi sử dụng thẻ BHYT. CSSK thụ động của người di cư, các nhà thuốc tây "... nói đến bảo hiểm thì rất nhiều người nói thường là điểm đến của những người bệnh nhẹ. Và rằng đến bệnh viện nhiều thủ tục rườm rà....." chỉ khi bệnh trở nặng, họ tìm đến các DVYT [5]. (TLN_ người di cư) Ngoài ra, các chương trình, chính sách của địa "... khám theo bảo hiểm toàn thuốc không được phương nơi đến chủ yếu giành cho người sở tại mà đặc trị cho lắm ... có khi đau đầu nếu mua thuốc bỏ qua người di cư do vị thế không chính thức về ngoài chỉ 1 - 2 ngày là khỏi còn thuốc bảo hiểm thì mặt pháp lý. Bản thân người di cư với các mối quan lấy thật nhưng có khi về không uống..." (TLN_người hệ xã hội hạn chế cũng như mặc cảm với tâm lý là di cư) người ngoại tỉnh nên họ thường ít gắn kết với địa phương nơi đến. Một bộ phận người bản địa cũng có 4. Bàn luận thái độ phân biệt và không muốn giao lưu với người Như thiết kế ban đầu, nghiên cứu tiến hành tìm nhập cư nghèo [12]. Do đó, cải thiện vốn xã hội Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 27
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | được coi là cách làm hiệu quả sẽ đem đến cho người khuyến nghị: (i) với y tế và các ban ngành liên quan di cư những cơ hội và lợi ích để cải thiện việc tiếp tại địa phương nơi đến: các chương chình CSSK tại cận và sử dụng DVYT. địa phương cần chú ý lôi kéo sự tham gia của người Chúng tôi khuyến nghị hiện nay, di cư là một di cư, tăng cường truyền thông các thông tin về vấn đề cần được các nhà hoạch định chính sách CSSK dưới nhiều hình thức và khám hỗ trợ giá cho quan tâm. Mặc dù xu hướng di cư ngày càng tăng người di cư; (ii) với người di cư: thời gian rảnh cần nhưng Việt Nam vẫn chưa có các chính sách phù tìm hiểu các thông tin liên quan đến sức khỏe, khám hợp, nhất là trong vấn đề CSSK. Để tăng cường khả định kỳ sức khỏe 6 tháng/lần tại các CSYT và gắn năng tiếp cận DVYT của người di cư, chúng tôi kết với cộng đồng dân cư tại nơi tạm trú. Tài liệu tham khảo Điều tra di cư Việt Nam năm 2004: Chất lượng cuộc sống của người di cư Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. Tiếng Việt 9. UNFPA (2007), Hiện trạng di cư trong nước ở Việt Nam, 1. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung Ương Hà Nội. (2009), Điều tra về Dân số và nhà ở năm 2009 lúc 00.00 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009: Quá trình Thực hiện và kết quả 10. Yuki Shibuya (2010), "Tình hình lao động tại các khu sơ bộ. công nghiệp ở tỉnh Đồng Nai trong thời kỳ hội nhập", Kỷ yếu tọa đàm: Di dân ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, 2. Đặng Nguyên Anh (2005), Di dân trong nước: Vận hội và hiện đại hóa, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 176- thách thức với công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt Nam, 196. Nhà xuất bản Thế Giới, Hà Nội, tr. 9 - 28. 3. Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng (2008), Di dân và bảo Tiếng Anh trợ xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, tr. 98 - 124. 11. Dang Nguyen Anh and et al. (2008), Mobility and HIV Vulnerability in Viet Nam: a review of published and 4. Lê Bạch Dương và Nguyễn Thanh Liêm (2011), Từ nông unpublished data and implications for HIV prevention thôn ra thành phố: tác động kinh tế - xã hội của người di cư programmes, Canada South East Asia Regional HIV/AIDS ở Việt Nam, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội. Programme (CSEARHAP). 5. Nguyễn Văn Huy và Trần Thị Phúc Nguyệt (2012), "Sức 12. Le Bach Duong, Tran Giang Linh and Nguyen Thi khỏe và hành vi tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe của Phuong Thao (2011), Social protection for rural - urban nam lao dộng tự do tại TP Hà Nội: kết quả từ một nghiên cứu migrants in Vietnam: current situation, challenges and định tính", Tạp chí nghiên cứu y học. 2 (79), tr. 143 - 150. opprtunities, Institutie of Development Studies, Ha Noi. 6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 13. Nguyen T. Liem and Michael J. White (2007), "Health (2009), Luật khám, chữa bệnh, số: 40/2009/QH12, ngày 23 Status of T emporary Migrants in Urban Areas in Vietnam", tháng 11 năm 2009, Hà Nội. International Migration. 64 (4), tr. 102 - 134. 7. Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc (2006), 14. Jin Mou and et al. (2009), "Health care utilisation Điều tra di cư Việt Nam năm 2004: Di dân và sức khỏe. amongst Shenzhen migrant workers: does being insured 8. Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc (2006), make a difference?" BMC Health Services Research. 28 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27)