Nhu cầu kiến thức, thái độ về HIV và xét nghiệm HIV chưa được đáp ứng của phụ nữ mại dâm tại Đồ Sơn, Cát Bà Hải Phòng năm 2014
Nhu cầu kiến thức, thái độ về HIV và xét nghiệm HIV chưa được đáp ứng của phụ nữ mại dâm tại Đồ Sơn, Cát Bà Hải Phòng năm 2014
Đây là nghiên cứu cắt ngang có phân tích được triển khai tại các cơ sở dịch vụ giải trí của Đồ Sơn, Cát Bà-Hải Phòng năm 2014 với mục tiêu (i) Mô tả nhu cầu kiến thức, thái độ về HIV và xét nghiệm HIV chưa được đáp ứng của phụ nữ mại dâm (PNMD) làm trong các cơ sở dịch vụ giải trí tại Đồ Sơn, Cát Bà, Hải Phòng và (ii) Xác định một số yếu tố liên quan đến các nhu cầu chưa được đáp ứng trên. Với phương pháp chọn mẫu vẽ bản đồ và hòn tuyết lăn, đã có 492 phụ nữ mại dâm tham gia nghiên cứu. NCV đã phỏng vấn trực tiếp PNMD sử dụng phiếu phỏng vấn có cấu trúc về kiến thức, thái độ về HIV/AIDS và xét nghiệm HIV. Số liệu được nhập bằng Epidata và phân tích bằng STATA 12.0, các kỹ thuật thống kê mô tả và hồi qui logistics đơn và đa biến được sử dụng. Kết quả: Tỷ lệ PNMD có kiến thức toàn diện về HIV chưa được đáp ứng là 57,9%; tỷ lệ có thái độ về HIV chưa được đáp ứng là 24,5%; nhu cầu chưa được đáp ứng về xét nghiệm HIV là 62,7%.
Có mối liên quan giữa số khách trung bình/ ngày, thu nhập trung bình/ tháng của PNMD với nhu cầu kiến thức toàn diện về HIV chưa được đáp ứng. Có mối liên quan giữa trình độ học vấn, thu nhập trung bình/ tháng của PNMD với kiến thức lây truyền mẹ-con chưa được đáp ứng. Địa bàn nghiên cứu, thu nhập trung bình/ tháng của PNMD, thời gian làm mại dâm có liên quan đến nhu cầu thái độ về HIV chưa được đáp ứng. Khuyến nghị: Xây dựng tờ rơi/sách mỏng về HIV/AIDS kèm thông tin địa chỉ xét nghiệm và phát đến các cơ sở dịch vụ giải trí trong địa bàn. Tư vấn nhóm nhỏ với PNMD về HIV/AIDS và xét nghiệm HIV, tập trung vào nhóm PNMD dân tộc thiểu số, mới đến địa bàn, học vấn thấp. Tổ chức các buổi tập huấn kiến thức về HIV cho chủ các cơ sở giải trí để họ có thể trao đổi với PNMD
File đính kèm:
nhu_cau_kien_thuc_thai_do_ve_hiv_va_xet_nghiem_hiv_chua_duoc.pdf
Nội dung text: Nhu cầu kiến thức, thái độ về HIV và xét nghiệm HIV chưa được đáp ứng của phụ nữ mại dâm tại Đồ Sơn, Cát Bà Hải Phòng năm 2014
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Nhu cầu kiến thức, thái độ về HIV và xét nghiệm HIV chưa được đáp ứng của phụ nữ mại dâm tại Đồ Sơn, Cát Bà Hải Phòng năm 2014 Bùi Thị Tú Quyên1, Vũ Thị Hoàng Lan1, Lê Bích Ngọc1, Nguyễn Thị Kim Ngân1, Dương Văn Đạt2, Ngô Đức Anh2 Đây là nghiên cứu cắt ngang có phân tích được triển khai tại các cơ sở dịch vụ giải trí của Đồ Sơn, Cát Bà-Hải Phòng năm 2014 với mục tiêu (i) Mô tả nhu cầu kiến thức, thái độ về HIV và xét nghiệm HIV chưa được đáp ứng của phụ nữ mại dâm (PNMD) làm trong các cơ sở dịch vụ giải trí tại Đồ Sơn, Cát Bà, Hải Phòng và (ii) Xác định một số yếu tố liên quan đến các nhu cầu chưa được đáp ứng trên. Với phương pháp chọn mẫu vẽ bản đồ và hòn tuyết lăn, đã có 492 phụ nữ mại dâm tham gia nghiên cứu. NCV đã phỏng vấn trực tiếp PNMD sử dụng phiếu phỏng vấn có cấu trúc về kiến thức, thái độ về HIV/AIDS và xét nghiệm HIV. Số liệu được nhập bằng Epidata và phân tích bằng STATA 12.0, các kỹ thuật thống kê mô tả và hồi qui logistics đơn và đa biến được sử dụng. Kết quả: Tỷ lệ PNMD có kiến thức toàn diện về HIV chưa được đáp ứng là 57,9%; tỷ lệ có thái độ về HIV chưa được đáp ứng là 24,5%; nhu cầu chưa được đáp ứng về xét nghiệm HIV là 62,7%. Có mối liên quan giữa số khách trung bình/ ngày, thu nhập trung bình/ tháng của PNMD với nhu cầu kiến thức toàn diện về HIV chưa được đáp ứng. Có mối liên quan giữa trình độ học vấn, thu nhập trung bình/ tháng của PNMD với kiến thức lây truyền mẹ-con chưa được đáp ứng. Địa bàn nghiên cứu, thu nhập trung bình/ tháng của PNMD, thời gian làm mại dâm có liên quan đến nhu cầu thái độ về HIV chưa được đáp ứng. Khuyến nghị: Xây dựng tờ rơi/sách mỏng về HIV/AIDS kèm thông tin địa chỉ xét nghiệm và phát đến các cơ sở dịch vụ giải trí trong địa bàn. Tư vấn nhóm nhỏ với PNMD về HIV/AIDS và xét nghiệm HIV, tập trung vào nhóm PNMD dân tộc thiểu số, mới đến địa bàn, học vấn thấp. Tổ chức các buổi tập huấn kiến thức về HIV cho chủ các cơ sở giải trí để họ có thể trao đổi với PNMD. Từ khoá: Phụ nữ mại dâm, Hải Phòng, HIV, nhu cầu chưa được đáp ứng, kiến thức, thái độ, xét nghiệm HIV. Unmet need for knowledge, attitudes about HIV and HIV testing among female sex workers in Do Son, Cat Ba, Hai Phong 2014 Bui Thi Tu Quyen1, Vu Thi Hoang Lan1, Le Bich Ngoc1, Nguyen Thi Kim Ngan1, Duong Van Dat2, Ngo Duc Anh2 Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2015, Số 36 13
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | A cross-sectional study was conducted in Do Son and Cat Ba districts - Hai Phong City, in 2014 with the following objectives: (i) to describe unmet need for knowledge, attitudes about HIV and HIV testing among female sex workers (FSW) in Entertainment Establishments in Hai Phong City, and (ii) to determine the relationship between above-mentioned unmet needs and some factors. Researchers applied a sampling strategy with 2 stages: mapping and snowball, with a total of 492 FSWs participating in the study. FSWs have been given face-to-fate interviews with a structured questionnaire about knowledge, attitudes on HIV/AIDS and HIV testing. Data was processed and analyzed with Epidata and STATA 12.0 while descriptive statistics and univariate/multivariate logistic regression have been applied. Findings: The proportion of FSWs having unmet need for comprehensive knowledge of HIV/AIDS was 57.9%; about 24.5% of FSWs had unmet need for 'accepting' attitudes of HIV/AIDS; and 62.7% of FSWs had unmet need for HIV testing. There was an association between unmet need for comprehensive knowledge of HIV/AIDS and number of clients per day and monthly income among FSWs. Education, monthly income of FSWs were related with unmet need for knowledge of mother to child HIV transmission. In addition, unmet need for 'accepting' attitudes of HIV/AIDS was also related with FSWs' monthly income, study site, and length of time to work as FSWs. Recommendations: Developing brochures/leaflets on HIV/AIDS including information about health facilities where FSWs can get HIV testing, and distributing them to Entertainment Establishments. Counseling is given with small groups of FSWs about HIV/AIDS as well as HIV testing, focusing on those FSWs who belong to such groups of low education, ethnic minorities, newly engaged in sex work. Training sessions about HIV/AIDS for the Owners of Entertainment Establishments should be organized so that they can communicate with FSWs. Key words: Female Sex Workers, Hai Phong, HIV, unmet need, knowledge, attitude, testing. Tác giả: 1. Trường Đại học Y tế công cộng; 2. UNFPA 1. Đặt vấn đề Bà). Bài viết này là một phần kết quả của nghiên Quĩ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) là một tổ cứu ban đầu với mục tiêu: (i) Mô tả nhu cầu kiến chức phát triển quốc tế hợp tác và hỗ trợ nhiều quốc thức, thái độ về HIV và xét nghiệm HIV chưa được gia trong các chương trình nâng cao sức khoẻ sinh đáp ứng của PNMD tại Hải Phòng và (ii) Xác định sản và sức khoẻ tình dục cho phụ nữ, nam giới và một số yếu tố liên quan đến các nhu cầu chưa được trẻ em. Năm 2014, UNFPA hỗ trợ Bộ Lao động- đáp ứng. Thương binh-Xã hội (LĐ-TB-XH) triển khai một chương trình can thiệp thí điểm tại Đồ Sơn, Hải 2. Phương pháp nghiên cứu Phòng nhằm tăng cường khả năng tiếp cận các dịch Đây là một nghiên cứu cắt ngang với đối tượng vụ về phòng chống HIV/AIDS trong nhóm phụ nữ nghiên cứu là các PNMD ở Đồ Sơn và Cát Bà- Hải làm trong các cơ sở dịch vụ giải trí (PNMD). Nhằm Phòng. Số liệu được thu thập qua phỏng vấn trực cung cấp các thông tin cần thiết và chỉ số đầu vào tiếp PNMD tại cơ sở dịch vụ giải trí với phiếu phỏng cho chương trình can thiệp cũng như đánh giá chi vấn có cấu trúc trong tháng 4, 5/2014. Tổng số có phi hiệu quả của chương trình này, chúng tôi triển 492 PNMD đáp ứng các tiêu chí chọn (từ 18 tuổi trở khai một nghiên cứu ban đầu tại địa bàn can thiệp lên, có quan hệ tình dục để kiếm tiền ít nhất 1 lần (thị xã Đồ Sơn) và địa bàn chứng (huyện đảo Cát trong vòng 1 tháng trước thời điểm điều tra, đồng ý 14 Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2015, Số 36
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | tham gia nghiên cứu) đã được phỏng vấn, các Bảng 1. Thông tin chung về phụ nữ mại dâm tại PNMD được chọn dựa trên kỹ thuật vẽ bản đồ và Đồ Sơn, Cát Bà hòn tuyết lăn. Các PNMD được hỏi các nội dung về kiến thức, thái độ với HIV/AIDS và việc xét nghiệm HIV trong thời gian qua. Số liệu được nhập bằng Epidata và phân tích với STATA 12.0, các kỹ thuật phân tích mô tả và phân tích hồi qui logistics đơn biến, đa biến đã được sử dụng. Một số khái niệm dùng trong nghiên cứu: - Nhu cầu chưa được đáp ứng trong kiến thức toàn diện về HIV/AIDS: Là những PNMD không biết HIV/AIDS là gì hoặc không biết ít nhất 2 cách phòng lây truyền HIV qua đường tình dục và không bác bỏ 3 quan niệm sai lầm về HIV/AIDS. - Nhu cầu về kiến thức dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con chưa được đáp ứng: Là những PNMD không trả lời được cả 3 cách lây truyền HIV từ mẹ sang con. - Nhu cầu thái độ chấp nhận về HIV/AIDS chưa được đáp ứng: Là những PNMD trả lời rằng không sẵn lòng chăm sóc thành viên trong gia đình có HIV hoặc không mua rau từ người bán hàng có HIV hoặc nghĩ rằng một giáo viên có HIV không nên được phép tiếp tục giảng dạy ở trường mặc dù không bị ốm. - Nhu cầu về xét nghiệm HIV chưa được đáp ứng: Là PNMD chưa bao giờ làm xét nghiệm HIV. 3. Kết quả nghiên cứu 3.2. Nhu cầu kiến thức, thái độ, xét nghiệm 3.1. Thông tin chung về đối tượng HIV chưa được đáp ứng của PNMD nghiên cứu Bảng 2 cho thấy, trong số 482 PNMD đã từng Trong 492 đối tượng tham gia nghiên cứu có nghe nói về HIV/AIDS vẫn còn 15,4% PNMD cho 397 PNMD ở Đồ Sơn (80,7%) và 95 PNMD ở Cát rằng QHTD chung thủy với một bạn tình cũng Bà (19,3%). Đa số PNMD trong nghiên cứu từ 20- không làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV (tỷ lệ này 25 tuổi (68,7%); tuổi trung bình của các PNMD ở ở Đồ Sơn là 13,1% và ở Cát Bà là 25%). Tỷ lệ Đồ Sơn là 22,3 ± 3,6; và ở Cát Bà là 24,4 ± 4,3 tuổi. PNMD cho rằng sử dụng bao cao su (BCS) khi Gần 2/3 đối tượng là dân tộc Kinh còn lại là thuộc QHTD có thể giảm nguy cơ lây nhiễm HIV là các dân tộc thiểu số. Có tới 25% PNMD mới sống 91,1%. Có 7,7% (37 người) cho rằng dùng BCS khi và làm việc ở địa bàn nghiên cứu dưới 1 tháng (tỷ QHTD không làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV. Có lệ này ở Đồ Sơn là 22,4% thấp hơn so với Cát Bà là 9% PNMD cho rằng nhiễm HIV có thể do một phép 35,8%, p<0,05). Gần 20% PNMD có trình độ học thuật hay thế lực siêu nhiên nào đó. Có tới 1/3 vấn dưới trung học cơ sở, thu nhập bình quân/ tháng PNMD cho rằng HIV có thể lây qua muỗi đốt trung bình của PNMD ở Đồ Sơn là 8,85 triệu, của (33,9% ở Đồ Sơn và 32,6% ở Cát Bà). Tỷ lệ PNMD PNMD ở Cát Bà là 8,57 triệu. Trung bình một ngày nghĩ ăn chung thức ăn với người nhiễm HIV có thể PNMD ở Đồ Sơn tiếp 6,8 khách cao hơn PNMD ở bị lây nhiễm HIV là 14%; đặc biệt ở Cát Bà tỷ lệ Cát Bà tiếp 4,2 khách (p<0,001). Có 28,9% PNMD này là 25% cao hơn hẳn Đồ Sơn (p<0,001). Tỷ lệ tiếp 5-6 khách/ ngày và có tới 27% PNMD ở Đồ Sơn PNMD cho rằng một người nhìn khỏe mạnh có thể tiếp từ 10 khách trở lên trong 1 ngày. nhiễm HIV là 51,9%; không có sự khác biệt giữa hai Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2015, Số 36 15
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Bảng 2. Kiến thức, thái độ về HIV/AIDS và thực giáo viên bị HIV nhưng không ốm thì vẫn có thể hành xét nghiệm HIV của PNMD tiếp tục giảng dạy bình thường, tỷ lệ này ở Đồ Sơn là 90,3% cao hơn so với Cát Bà là 75% (p<0,001). Khi biết một người bán rau bị HIV thì có tới 85,5% vẫn mua rau của người bán hàng. Khi một thành viên trong gia đình bị HIV/AIDS thì có 95,6% PNMD sẽ chăm sóc thành viên bị bệnh, tỷ lệ PNMD vẫn sẽ chăm sóc người trong gia đình bị HIV ở Đồ Sơn là 96,4% cao hơn so với Cát Bà (p<0,05). Với Thái độ về HIV chưa được đáp ứng, tỷ lệ trong PNMD ở Cát Bà là 35,9% cao hơn Đồ Sơn: 21,8% (p<0,01). Có tới 30,3% PNMD chưa bao giờ làm xét nghiệm HIV (Đồ Sơn: 31% và Cát Bà: 27,2%; p>0,05). Chỉ có 31,3% PNMD đã xét nghiệm HIV trong khoảng thời gian 12 tháng trước thời điểm phỏng vấn (30,8% ở Đồ Sơn và 33,7% ở Cát Bà). Tỷ lệ nhu cầu làm xét nghiệm HIV chưa được đáp ứng của PNMD ở Đồ Sơn là 63,1%, Cát Bà là 60,9% (p>0,05). 3.3. Một số yếu tố liên quan đến nhu cầu kiến thức, thái độ, xét nghiệm HIV chưa được đáp ứng của PNMD Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức toàn diện về HIV/AIDS của PNMD chưa được đáp ứng địa bàn nghiên cứu (p>0,05). Nhu cầu kiến thức toàn diện về HIV chưa được đáp ứng của PNMD là 57,9%, tỷ lệ này ở Đồ Sơn là 54,6% thấp hơn Cát Bà: 71,7% (p<0,01). Tỷ lệ PNMD cho rằng HIV có thể lây truyền từ mẹ sang con trong quá trình mang thai là 81,7%, tỷ lệ này ở Đồ Sơn là 83,9% cao hơn Cát Bà là 72,8% (p<0,05). Tỷ lệ PNMD cho rằng HIV có thể lây từ mẹ sang con trong quá trình sinh đẻ là 50,2%. Khoảng 53% PNMD cho rằng HIV có thể lây từ mẹ sang con trong quá trình cho con bú. Tỷ lệ PNMD biết cả 3 đường lây nhiễm HIV trong lây truyền mẹ con là 36,4%, không có sự khác biệt giữa hai địa bàn nghiên cứu (p>0,05). Tỷ lệ PNMD có nhu cầu kiến thức dự phòng lây nhiễm từ mẹ sang con chưa được đáp ứng là 64,1% (Đồ Sơn: 61,5%; Cát Bà: 75%; p<0,05). Thái độ của PNMD với người nhiễm HIV tương đối tích cực. Có 87,3% PNMD cho rằng nếu một 16 Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2015, Số 36
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Bảng 3 cho thấy có mối liên quan giữa thu nhập Bảng 5. Một số yếu tố liên quan đến thái độ về của PNMD và kiến thức toàn diện về HIV/AIDS HIV/AIDS của PNMD chưa được đáp ứng chưa được đáp ứng (p<0,05). PNMD có thu nhập từ 6 triệu/ tháng trở xuống có nhu cầu kiến thức toàn diện về HIV chưa được đáp ứng chỉ bằng 40% so với nhóm có thu nhập trên 6 triệu. Những PNMD có từ 5 khách /ngày trở lên cũng có nhu cầu chưa được đáp ứng về kiến thức toàn diện HIV/AIDS thấp hơn nhóm có dưới 5 khách (p<0,05). Chưa thấy có mối liên quan giữa nhu cầu kiến thức toàn diện về HIV chưa được đáp ứng ở PNMD với các yếu tố như trình độ học vấn, nhóm tuổi, dân tộc, thời gian làm nghề (p>0,05). Bảng 4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức về lây truyền HIV từ mẹ sang con của PNMD chưa được đáp ứng HIV/AIDS chưa được đáp ứng (p<0,05). PNMD ở Cát Bà có nhu cầu thái độ về HIV chưa được đáp ứng cao gấp 2,5 lần PNMD ở Đồ Sơn (p<0,05). PNMD có thu nhập TB từ 6 triệu VNĐ/tháng trở xuống có nhu cầu thái độ về HIV chưa được đáp ứng thấp hơn PNMD có thu nhập >6 triệu (p<0,05). PNMD có thời gian làm nghề trên 3 tháng cũng có nhu cầu thái độ về HIV chưa được đáp ứng thấp hơn PNMD có thời gian làm nghề # 3 tháng (p<0,01). Chưa thấy có mối liên quan giữa các yếu tố với nhu cầu xét nghiệm HIV chưa được đáp ứng ở PNMD của Đồ Sơn và Cát Bà. 4. Bàn luận Các PNMD có TĐHV từ THCS trở xuống có PNMD trong nghiên cứu tương đối trẻ, trẻ hơn nguy cơ kiến thức về lây truyền HIV từ mẹ sang con nhiều so với nhóm PNMD trong nghiên cứu ở Lê chưa được đáp ứng cao gấp 1,8 lần PNMD có TĐHV Chân- Hải Phòng [1], các PNMD trong nghiên cứu trên THCS (p<0,05). PNMD có thu nhập TB từ 6 của chúng tôi cũng trẻ hơn nhóm PHMD trong nhiều triệu VNĐ/tháng trở xuống có nhu cầu về kiến thức nghiên cứu khác [4,6,7,9,10,11], phần lớn thuộc lây truyền mẹ con chưa được đáp ứng thấp hơn nhóm tuổi từ 20-25; nhóm PNMD ở Cát Bà phần PNMD có thu nhập >6 triệu (p<0,05). nào đó có tuổi lớn hơn so với nhóm PNMD ở Đồ Kết quả ở bảng 5 cho thấy có mối liên quan Sơn. Trên thực tế có nhiều PNMD sau một thời gian giữa địa bàn nghiên cứu, thu nhập trung bình/ tháng, làm ở Đồ Sơn giai đoạn đầu hành nghề thì chuyển thời gian làm nghề của PNMD với thái độ về đi các địa bàn khác trong đó có Cát Bà. PNMD ở cả Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2015, Số 36 17
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Cát Bà Và Đồ Sơn đều là những người tương đối nghiên cứu của chúng tôi tương tự như nghiên cứu mới, có tới 25% mới đến địa bàn làm việc dưới 1 ở Lào [13] nhưng lại khác với kết quả trong giám tháng. Tỷ lệ sống ở địa bàn trên 6 tháng chỉ là 28%, sát hành vi ở Lê Chân - Hải Phòng năm 2006 [1] hay đây cũng là một đặc điểm của PNMD ở địa bàn, họ ở một số tỉnh của Việt Nam năm 2012 [2], nhóm thường chỉ làm việc khoảng 8-9 tháng, bắt đầu vào PNMD hành nghề trong nhà hàng ở Lê Chân có tầm tháng 3 và kết thúc vào trước tết âm lịch trong thời gian hành nghề trung bình khoảng 4 năm. Tuổi năm và sau đó chuyển đi nơi khác và sẽ có những trẻ, TĐHV thấp và thời gian vào nghề ít là những PNMD mới đến địa bàn. Số lượng PNMD ở Đồ Sơn đặc điểm có thể dẫn đến những hạn chế trong hiểu sẽ đông vào khoảng thời gian mùa hè, mùa nghỉ biết về chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng như phòng mát, đối tượng phục vụ của PNMD phần lớn là chống HIV ở PNMD. khách du lịch. Tương tự như một số nghiên cứu khác Số khách PNMD tiếp trung bình trong ngày [9,11,13], TĐHV của PNMD thấp, phần lớn PNMD tương đối cao, khoảng 72% tiếp từ 5 khách/ ngày trở có TĐHV cũng là những nữ dân tộc thiểu số ở các lên và có tới 22% tiếp từ 10 khách trở lên/ ngày, kết tỉnh miền núi phía Bắc chuyển về làm việc ở địa quả này cao hơn hẳn so với một số nghiên cứu trước bàn theo giới thiệu của bạn bè, người quen cũng làm đó [1, 5, 7, 9, 10]. Nguyên nhân do Đồ Sơn cũng trong các cơ sở dịch vụ giải trí trước đó. như Cát Bà đều là những địa bàn du lịch nổi tiếng Hầu hết các PNMD sống trong cơ sở dịch vụ với một lượng khách qua lại hàng ngày rất lớn. Số giải trí, trừ Cát Bà có một số PNMD thuê nhà trọ khách PNMD tại Đồ Sơn và Cát Bà tiếp nhiều như sống bên ngoài và hành nghề tự do hoặc đi khách vậy phần nào cũng đảm bảo thu nhập của PNMD khi có một cơ sở nào đó yêu cầu. Thu nhập của tương đối cao tuy nhiên việc tiếp nhiều khách/ ngày PNMD dựa nhiều vào lượng khách PNMD có hàng cũng dẫn đến nhiều hệ lụy như ảnh hưởng đến sức ngày cũng như khoản tiền "boa" của khách. Giữa khỏe của PNMD cũng như tăng nguy cơ mắc các chủ với PNMD sẽ có sự thoả thuận về mức chia thu STIs như HIV, giang mai, lậu nếu PNMD không nhập sau khi đã trừ các chi phí như ăn uống, sinh có hiểu biết cũng như các biện pháp phòng tránh hoạt hàng ngày của PNMD mà chủ các cơ sở phải phù hợp. lo. Như vậy có thể thấy thu nhập bình quân tháng của PNMD sẽ rất khác nhau và khó có thể ước lượng Nhu cầu kiến thức, thái độ về HIV và xét chính xác. So với nhiều ngành nghề khác thì thu nghiệm HIV chưa được đáp ứng của PNMD nhập của PNMD tương đối cao, đặc biệt với nhóm Hầu hết PNMD đã từng nghe nói về HIV/AIDS đối tượng có TĐHV thấp như vậy [5]. Trung bình cho dù họ mới chỉ đến địa bàn nghiên cứu cũng như một tháng sau khi trừ các chi phí ăn, ở mỗi PNMD TĐHV thấp. Đây là một trong những kết quả của thu nhập khoảng gần 9 triệu đồng, mức thu nhập các chương trình truyền thông, các chương trình can này cao hơn so với PNMD trong một số nghiên cứu thiêp phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai khác [2, 13] với thu nhập trung bình từ 3-6 triệu sâu rộng trên toàn quốc trong thời gian vừa qua và đồng/ tháng. Thu nhập cao như vậy cũng là một cũng đã được chứng minh qua một số nghiên cứu trong những lý do chính khiến nhiều PNMD chọn [6]. Tuy nhiên những kiến thức cơ bản về HIV của nghề này cũng như không muốn chuyển/ đổi nghề các PNMD cũng chưa đầy đủ, vẫn còn nhiều PNMD khác. Tuy nhiên có thể thấy thu nhập của PNMD có những hiểu biết sai lầm như cho rằng nhiễm HIV không ổn định và sẽ giảm dần khi tuổi tăng lên và là do thế lực siêu nhiên nào đó hay nhiễm HIV có lượng khách ít dần. Trên thực tế PNMD không có thể do muỗi đốt. Những suy nghĩ sai lầm này có thể quyền quyết định số khách cũng như lựa chọn khách dẫn đến việc các PNMD chủ quan trong việc phòng hàng, họ cũng không có quyền kiểm soát cơ thể ngừa lây nhiễm HIV. Một điểm đáng mừng là có tới mình và tiếp cận với các dịch vụ y tế, những hoạt 91% đối tượng nghiên cứu cho rằng dùng BCS có động này đều có sự kiểm soát của chủ các cơ sở dịch thể giúp phòng tránh lây nhiễm HIV, kết quả này vụ giải trí [5]. cũng tương tự nghiên cứu của Trần Xuân Bách [11] Thời gian làm nghề của PNMD ở Đồ Sơn và Cát và thấp hơn so với nghiên cứu của Đào Việt Tuấn Bà cũng tương đối ngắn, có tới 60% PNMD làm [4], nguyên nhân có thể do nghiên cứu của Đào Viêt nghề dưới 6 tháng, đa số PNMD làm nghề này lần Tuấn trên nhóm đối tượng PNMD đến khám, tư vấn đầu tiên cũng là ở địa bàn nghiên cứu. Kết quả tại câu lạc bộ Hoa Phượng- Lê Chân, kiến thức của 18 Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2015, Số 36
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | họ cao hơn do họ có thể đã từng được tư vấn trước nguy cơ cao trong lây nhiễm HIV vì thế tỷ lệ PNMD đó. Nhu cầu kiến thức toàn diện về HIV chưa được đã từng đi xét nghiệm cao tới 90% là điều dễ hiểu. đáp ứng của PNMD trong nghiên cứu tại Hải Phòng Tỷ lệ PNMD đi xét nghiệm HIV trong nghiên cứu cũng tương đương với số liệu từ nghiên cứu MICS của chúng tôi cũng thấp hơn nghiên cứu của 2011 [8]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy Matthew [12] ở Châu Phi và Ấn Độ, có sự khác biệt cần có thêm các hoạt động truyền thông trên nhóm đó là do cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu, đối tượng PNMD nhằm tăng cường và củng cố kiến Matthew phân tích những PNMD trong các chương thức phòng tránh HIV cho nhóm này. Cũng cần lưu trình can thiệp phòng STIs. Hầu hết những người ý đây là nhóm di cư nhiều, không cư ngụ ổn định ở không biết địa điểm xét nghiệm HIV trong nghiên đâu lâu dài nên các hoạt động truyền thông cũng cứu của chúng tôi cũng là những người chưa bao giờ cần linh hoạt. Với đặc tính phần lớn PNMD sống xét nghiệm HIV, như vậy tỷ lệ chưa bao giờ xét trong các cơ sở giải trí và chịu sự quản lý rất chặt nghiệm HIV còn cao hơn nhiều, tỷ lệ này lên tới của chủ cơ sở nên mọi tiếp cận về hoạt động truyền 60,4% trong tổng số 492 PNMD được phỏng vấn. thông và can thiệp nên thông qua chủ các cơ sở dịch Kết quả này cũng tương tự như kết quả một số vụ giải trí. nghiên cứu khác [1, 11]. Đây thực sự là một con số Gần như 100% các PNMD đều đang ở độ tuổi đáng báo động trong nhóm có nguy cơ cao, với việc sinh đẻ và thiên chức của phụ nữ là làm mẹ trong không đi xét nghiệm thì số lượng PNMD có HIV tương lai. Tuy nhiên kiến thức về lây truyền HIV từ không được phát hiện sẽ cao dẫn đến nguy cơ tiềm mẹ sang con của các đối tượng đều còn thấp, điều tàng trong lây nhiễm HIV cho các khách hàng. Báo này cho thấy nội dung của các chương trình can cáo giám sát hành vi nguy cơ năm 2006 [1] trong thiêp phòng HIV/AIDS cũng cần tập trung vào nội nhóm PNMD cũng cho thấy tỷ lệ PNMD nhiễm HIV dung phòng lây truyền mẹ-con. Nhu cầu chưa được (qua kết quả XN của chương trình giám sát) biết đáp ứng về kiến thức dự phòng lây truyền HIV từ mình nhiễm HIV chỉ là khoảng 50%, còn lại 50% mẹ sang con của PNMD ở Đồ Sơn và Cát Bà đều hoàn toàn không biết mình nhiễm. Một chương trình cao hơn so với nghiên cứu MICS 2011 [8], có thể can thiệp trong phòng chống HIV tại địa bàn cần thấy với nhóm phụ nữ độ tuổi sinh đẻ nói chung có phải tăng cường các thông tin về xét nghiệm HIV sự quan tâm nhiều đến vấn đề lây truyền mẹ con tự nguyện, tuyên truyền cho các chủ cơ sở giải trí hơn nhóm PNMD, nguyên nhân có thể do nhóm cũng như đối tượng đích là PNMD đi xét nghiệm PNMD còn trong độ tuổi quá trẻ và chưa nghĩ nhiều HIV. Cần cung cấp các thông tin về lợi ích của việc đến việc mang thai và sinh nở nên cũng chưa quan xét nghiệm phát hiện sớm cũng như các cơ sở xét tâm đến các kiến thức dự phòng lây truyền mẹ con. nghiệm HIV miễn phí và thuận lợi cho đối tượng. Cho dù ở nhiều khía cạnh kiến thức về HIV của Tỷ lệ PNMD có nhu cầu làm xét nghiệm HIV PNMD còn chưa tốt, chưa đầy đủ nhưng nhìn chung chưa được đáp ứng trong nghiên cứu ở Đồ Sơn và họ có thái độ tích cực với người nhiễm HIV. Đa số Cát Bà cũng thấp hơn so với nghiên cứu MICS [8], vẫn chấp nhận những người có HIV như một thành nguyên nhân có thể do PNMD tự nhận thức được viên bình thường của cộng đồng, chỉ một số ít là có mình là nhóm có nguy cơ lây nhiễm HIV nên cũng thái độ không tích cực hoặc kỳ thị. Nhu cầu thái độ có xu hướng đi xét nghiệm HIV nhiều hơn so với về HIV chưa được đáp ứng của PNMD trong nghiên cộng đồng phụ nữ tuổi sinh đẻ nói chung. Ngoài ra cứu ở Hải Phòng thấp hơn so với số liệu của MICS cũng có thể do nghiên cứu MICS đã thực hiện từ 2011 [8]. Khi kiến thức về HIV của PNMD tốt hơn năm 2011 còn nghiên cứu tại Hải Phòng chúng tôi thì có lẽ họ cũng sẽ không còn các thái độ mang tính thực hiện năm 2014, với một khoảng thời gian như chất tiêu cực hoặc kỳ thị với người nhiễm HIV nữa. vậy các chương trình can thiệp phòng chống HIV cho cộng đồng nói chung và cho nhóm PNMD nói Chỉ có gần 1/3 PNMD đã làm xét nghiệm HIV riêng cũng phần nào tác động đến tỷ lệ PNMD đi trong 12 tháng qua và có tới 30% chưa bao giờ làm xét nghiệm HIV theo chiều hướng tích cực. xét nghiệm HIV, kết quả này cũng tương đương một số nghiên cứu tại Cà Mau [7]; Hải Phòng [9] nhưng Một số yếu tố có liên quan được chỉ ra trong thấp hơn nghiên cứu tại Thanh Hoá [6], tuy nhiên nghiên cứu cũng cho thấy hoạt động can thiệp nên nghiên cứu tại Thanh Hoá là đánh giá các chỉ số sau lưu ý đến nhóm PNMD có học vấn thấp, mới làm can thiệp thay đổi hành vi của nhóm đối tượng có mại dâm và có thu nhập cao. Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2015, Số 36 19
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Cần xây dựng tờ rơi/sách mỏng về HIV/AIDS huấn kiến thức về HIV cho chủ các cơ sở giải trí để kèm thông tin địa chỉ xét nghiệm và phát đến các họ có thể trao đổi với PNMD về phòng tránh HIV. cơ sở dịch vụ giải trí trong địa bàn. Tư vấn nhóm nhỏ với PNMD về HIV/AIDS và xét nghiệm HIV, tập trung vào nhóm PNMD mới đến địa bàn/ mới làm mại dâm và học vấn thấp. Tổ chức các buổi tập Tài liệu tham khảo 8. Quỹ dân số Liên hiệp quốc (2013), Nhu cầu chưa được đáp ứng trong dịch vụ sức khỏe sinh sản và HIV/AIDS: Bằng Tài liệu tiếng Việt chứng từ phân tích số liệu MICS 2011, trong Các ấn phẩm 1. Bộ Y Tế (2006), Kết quả chương trình giám sát kết hợp về sức khỏe và sinh sản tình dục do Quỹ dân số Liên hiệp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam quốc xuất bản. Hà Nội. 2005-2006. 9. Trần Thị Tuyết Mai, Lê Cự Linh và Nguyễn Thanh Long 2. Bộ Y Tế, Viện Vệ sinh dịch tễ TW và Quỹ Toàn cầu (2008), Hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV và các yếu tố liên (2013), Điều tra tỷ lệ hiện nhiễm HIV, hành vi nguy cơ và quan ở gái mại dâm tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh các hoạt động can thiệp giảm hại phòng lây nhiễm HIV Hoà. Tạp chí Y tế công cộng, 2008. 10(10): p. 8. trong các nhóm nguy cơ cao tại 10 tỉnh ở Việt Nam năm 10. Viện Vệ sinh dịch tễ TW (2011), Kết quả giám sát kết 2012. hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt 3. Bùi Thị Mậu (2010), Bệnh lây truyền qua đường tình dục Nam vòng II-2009. Hà Nội. ở gái mại dâm tại Trung tâm Chữa bệnh- Giáo dục- Lao Tài liệu tiếng Anh động Xã hội tỉnh Hoà Bình năm 2009. Tạp chí Y tế công cộng, 2010. 16(16): p. 6. 11. Bach Xuan Tran, et al., HIV voluntary testing and perceived risk among female sex workers in the Mekong 4. Đào Việt Tuấn (2011), Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HIV và Delta region of Vietnam. Global Health Action 2013. kiến thức, thái độ, thực hành về dự phòng lây nhiễm của các 6(20960). nữ thành viên câu lạc bộ Hoa Phượng, Hải Phòng năm 2009- 2010. Tạp chí Y học thực hành, 2011. 12. Matthew Cherisich, Fast forwarding health access for female sex workers: Finding from 1 Indian and 3 African 5. Lê Minh Thi (2007), Du lịch, mại dâm, buôn bán phụ nữ sites. Health Policy and Systems Research, 2014. Policy liên quan đến HIV/AIDS tại biên giới miền Bắc Thái Lan, brief. khu vực tam giác vàng. Tạp chí Y tế công cộng, 2007. 7(7): p. 7. 13. Phrasisombath, K., et al., Care seeking behaviour and barriers to accessing services for sexually transmitted 6. Nguyễn Minh Hoàng và cs (2012), Thực trạng hoạt động infections among female sex workers in Laos: a cross- can thiệp giảm tác hại dành cho nhóm nghiện chích ma tuý sectional study. BMC Health Serv Res, 2012. 12: p. 37. và nữ mại dâm tại tỉnh Thanh Hoá năm 2009. Tạp chí Y tế công cộng, 2012. 23(23): p. 7. 14. Xiuxia Ye, et al., Social, psychological and environmental structural factors determine consistent 7. Nguyễn Thanh Long, Nguyễn Trung Thu và Nguyễn Văn condom use among rural to urban migrant female sex Hùng (2013), Nghiên cứu hành vi nguy cơ và tỷ lệ nhiễm workers in Shanghai China. BMC Public Health, 2012. HIV trong nhóm phụ nữ bán dâm tại tỉnh Cà Mau năm 2012. 12(599) Tạp chí Y tế công cộng 2013. 28(28): p. 4. 20 Tạp chí Y tế Công cộng, 6.2015, Số 36