Nghiên cứu tự kháng thể kháng glutamic acid decarboxylase 65 (gad-65) và kháng insulin (IAA) trên bệnh nhân đái tháo đường thể trạng gầy
Các tự kháng thể kháng Glutamic Acid Decarboxylase 65 (GAD-65) và kháng insulin (IAA) là các chất chỉ điểm huyết thanh ở bệnh nhân đái tháo đường thể tự miễn. Sự hiện diện của các tự kháng thể này ở bệnh nhân đái tháo đường lớn tuổi giúp phân biệt được đái tháo đường tự miễn tiềm ẩn ở người lớn (LADA) với đái tháo đường týp 2. Những người có kháng thể tự miễn được xem là nhóm nguy cơ cao và sẽ tiến triển thành thể đái tháo đường phụ thuộc insulin trong vòng 5 – 7 năm. Đề tài nhằm mục tiêu: (1) Xác định tỉ lệ dương tính, nồng độ tự kháng thể kháng GAD-65, IAA trên bệnh nhân đái tháo đường thể trạng gầy. (2)Khảo sát mối liên quan giữa sự hiện diện của tự kháng thể kháng GAD-65, IAA với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở những bệnh nhân trên. Đối tượng và phương pháp: 86 bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ theo tiêu chuẩn ADA 2015, với glucose máu đói≥ 126mg/dL (hoặc ≥ 7,0 mmol/L) và HbA1C> 6,5%.
Kỹ thuật ELISA gián tiếp được thực hiện để định lượng các tự kháng thể kháng GAD-65 và IAA. Sinh phẩm xét nghiệm là AESKULISA GAD-65 của hãng AESKU –Đức và sinh phẩm xét nghiệm IAA ELISA của hãng DRG- Đức. Kết quả: Tỷ lệ dương tính với kháng thể anti GAD-65 là 48,84% và IAA là 30,23%; tỷ lệ dương tính với một trong hai loại kháng thể là 55,81%; dương tính với cả hai loại 23,26%. Nồng độ trung bình của kháng thể kháng GAD- 65 dương tính là 51,08 ± 16,86 IU/mL; của kháng thể IAA dương tính là 1,46 ± 0,27 U/mL. Về mối liên quan giữa nồng độ kháng GAD-65, IAA với đặc điểm cận lâm sàng: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa kháng GAD-65 dương tính với nồng độ insulin. Có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa kháng GAD-65 dương tính với tăng triglycerid máu giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng (p<0,05)
File đính kèm:
nghien_cuu_tu_khang_the_khang_glutamic_acid_decarboxylase_65.pdf
Nội dung text: Nghiên cứu tự kháng thể kháng glutamic acid decarboxylase 65 (gad-65) và kháng insulin (IAA) trên bệnh nhân đái tháo đường thể trạng gầy
- NGHIÊN CỨU TỰ KHÁNG THỂ KHÁNG GLUTAMIC ACID DECARBOXYLASE 65 (GAD-65) VÀ KHÁNG INSULIN (IAA) TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THỂ TRẠNG GẦY Phan Thị Minh Phương Trường Đại học Y Dược Huế Tóm tắt Đặt vấn đề và mục tiêu: Các tự kháng thể kháng Glutamic Acid Decarboxylase 65 (GAD-65) và kháng insulin (IAA) là các chất chỉ điểm huyết thanh ở bệnh nhân đái tháo đường thể tự miễn. Sự hiện diện của các tự kháng thể này ở bệnh nhân đái tháo đường lớn tuổi giúp phân biệt được đái tháo đường tự miễn tiềm ẩn ở người lớn (LADA) với đái tháo đường týp 2. Những người có kháng thể tự miễn được xem là nhóm nguy cơ cao và sẽ tiến triển thành thể đái tháo đường phụ thuộc insulin trong vòng 5 – 7 năm. Đề tài nhằm mục tiêu: (1) Xác định tỉ lệ dương tính, nồng độ tự kháng thể kháng GAD-65, IAA trên bệnh nhân đái tháo đường thể trạng gầy. (2)Khảo sát mối liên quan giữa sự hiện diện của tự kháng thể kháng GAD-65, IAA với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở những bệnh nhân trên. Đối tượng và phương pháp: 86 bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ theo tiêu chuẩn ADA 2015, với glucose máu đói≥ 126mg/dL (hoặc ≥ 7,0 mmol/L) và HbA1C> 6,5%. Kỹ thuật ELISA gián tiếp được thực hiện để định lượng các tự kháng thể kháng GAD-65 và IAA. Sinh phẩm xét nghiệm là AESKULISA GAD-65 của hãng AESKU –Đức và sinh phẩm xét nghiệm IAA ELISA của hãng DRG- Đức. Kết quả: Tỷ lệ dương tính với kháng thể anti GAD-65 là 48,84% và IAA là 30,23%; tỷ lệ dương tính với một trong hai loại kháng thể là 55,81%; dương tính với cả hai loại 23,26%. Nồng độ trung bình của kháng thể kháng GAD- 65 dương tính là 51,08 ± 16,86 IU/mL; của kháng thể IAA dương tính là 1,46 ± 0,27 U/mL. Về mối liên quan giữa nồng độ kháng GAD-65, IAA với đặc điểm cận lâm sàng: có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa kháng GAD-65 dương tính với nồng độ insulin. Có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa kháng GAD-65 dương tính với tăng triglycerid máu giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng (p<0,05). Từ khóa: Tự kháng thể kháng glutamic acid decarboxylase (GAD), tự kháng thể kháng insulin, đái tháo đường Abstract GLUTAMIC ACID DECARBOXYLASE 65 (GAD-65) AUTOANTIBODY AND ANTI-INSULIN AUTOANTIBODY IN LEAN PATIENTS WITH DIABETES MELLITUS Phan Thi Minh Phuong Hue University of Medicine and Pharmacy Introduction and objectives: The Glutamic acid decarboxylase 65 (GAD-65) autoantibody and anti-insulin autoantibody (IAA) are serum markers of autoimmune diabetic patients. The presence of these autoantibodies in aging diabetic patients can differenciate the latent autoimmune diabetes in adults (LADA) from type 2 diabetes. Patients with these auto-antibodies were considered high risk group and will progress into insulin dependent in 5-7 years. This study was carried out with aims:(1) To define the positive rate, the concentration of GAD-65 autoantibody and IAA on lean patients with diabetes. (2) To indentify the correlation between the presence of GAD-65 autoantibody, IAA and several clinical and - Địa chỉ liên hệ: Phan Thị Minh Phương, email: phuong66@gmail.com - Ngày nhận bài: 19/1/2016 *Ngày đồng ý đăng: 25/2/2016 * Ngày xuất bản: 7/3/2016 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 31 137
- laboratory characteristics of these patients. Objects and methods: 86 patients diagnosed of diabetes following the ADA 2015 criteria, fasting glucose ≥ 126 mg/dL (or ≥ 7.0 mmol/L) and HbA1C > 6.5%. Indirect ELISA technique was performed to measure anti GAD-65 autoantibody and IAA. Kits used in the study were AESKULISA GAD-65 from AESKU Company- Germany and IAA ELISA from DRG Company- Germany. Results: the positive rate with anti GAD-65 and IAA was 48.84% and 30.23% respectively. The positive rate with one of the two antibodies was 55.81%; the positive rate with both antibodies was 23.26%. Mean concentration of GAD-65 positive was 51.08 ± 16.86 IU/mL; The average concentration of IAA positive was 1.46 ± 0.27 U/mL. Regarding the correlation between the concentration of GAD-65, IAA and laboratory data: there is a statistically significant difference (p<0.05) between positive GAD-65 antibody and insulin concentration. A statistically significant difference between GAD-65 antibody and hypertriclyceridemia in the studied and control group (p<0.05) is also observed. Key words: glutamic acid decarboxylase (GAD) autoantibody, insulin autoantibody, diabetes mellitus 1. ĐẶT VẤN ĐỀ có xu hướng cạn kiệt insulin. Bệnh nhân dùng Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hóa thuốc hạ glucose máu như metformin hoặc kết carbohydrat khi hormone insulin của tụy bị hợp với sulphonylurea không hiệu quả mà phải thiếu hay giảm tác dụng, biểu hiện bằng mức nhờ đến insulin ngoại sinh để giảm nồng độ glucose trong máu cao. Bệnh không lây nhưng glucose máu. Hơn nữa, trong thực tế có những tốc độ phát triển rất nhanh và có những biến bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo đường týp 2 chứng nguy hiểm. Theo dự báo của WHO thì nhưng ngay từ đầu đã được chỉ định dùng insulin đến năm 2025 trên thế giới có khoảng 300 triệu ngoại sinh. Theo nghiên cứu của các tác giả Lê người bị đái tháo đường týp 2 chiếm 85 -90% Văn Don và Trương Ngọc Dương tỷ lệ các tự tổng số bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường, kháng thể như kháng GAD và IAA dương tính tập trung ở độ tuổi 45 - 64 [1]. Các tự kháng tập trung ở những bệnh nhân đái tháo đường có thể kháng Glutamic Acid Decarboxylase (GAD- chỉ số BMI thấp, những bệnh nhân này cũng có 65) và kháng insulin (IAA) là các chất chỉ điểm biểu hiện cạn kiệt nguồn insulin nội sinh và phải huyết thanh ở bệnh nhân đái tháo đường thể tự điều trị insulin ngoại sinh để cân bằng glucose miễn. Sự hiện diện của chúng ở bệnh nhân đái máu [2], [3]. tháo đường lớn tuổi giúp phân biệt được đái tháo Theo tổng kết của chương trình phòng chống đường tự miễn tiềm ẩn ở người lớn (LADA) với biến chứng và kiểm soát đái tháo đường, những đái tháo đường týp 2 [15]. Tự kháng thể kháng người không thuộc đái tháo đường týp 1 nhưng có GAD-65 và IAA còn là các thông số quan trọng tự kháng thể kháng GAD-65, IAA thì 61% trường để phát hiện đái tháo đường týp 1 hoặc đái tháo hợp có nguy cơ phát triển thành đái tháo đường đường tự miễn tiềm ẩn ở người lớn tuổi. Việc týp 1 sau 5 năm và 50% trường hợp còn lại có phát hiện tự kháng thể kháng GAD-65 ở những nguy cơ sau 10 năm [6]. Vì vậy, nhằm góp thêm bệnh nhân đái tháo đường tiến triển là hết sức cơ sở khoa học giúp cho các nhà lâm sàng phân cần thiết vì nó là yếu tố quan trọng nhất đối với týp đái tháo đường chính xác hơn và chỉ định sớm việc tiên đoán sử dụng liệu pháp insulin trong việc sử dụng insulin cho bệnh nhân, chúng tôi thực vòng 3 năm ở những bệnh nhân đái tháo đường hiện đề tài này với 2 mục tiêu: trưởng thành trẻ tuổi không được xếp vào đái 1. Xác định tỉ lệ dương tính, nồng độ tự kháng tháo đường týp 1 trên lâm sàng. Khi đái tháo thể kháng GAD-65, IAA trên bệnh nhân đái tháo đường có phá hủy tuyến tụy thì đây là chỉ tiêu đường thể trạng gầy chẩn đoán sớm, chính xác đái tháo đường phụ 2. Khảo sát mối liên quan giữa sự hiện diện thuộc insulin [15]. của tự kháng thể kháng GAD-65, IAA với một số Nhiều bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở những bệnh đường týp 2 có nồng độ insulin máu thấp và nhân trên. 138 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 31
- 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP mẫu) dựa theo chỉ số BMI ≥ 18,5. NGHIÊN CỨU 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Các xét nghiệm định lượng HbA1c, glucose, 86 bệnh nhân gồm 47 nam và 39 nữ được chẩn Cholesterol, HDL-Cholesterol, LDL-Cholesterol, đoán ĐTĐ theo tiêu chuẩn ADA 2015 [7]. Trong Triglycerid, được thực hiện theo phương pháp nghiên cứu này chúng tôi chọn glucose máu đói và so màu dùng enzym trên máy Cobas 501. Nhận HbA1C để chẩn đoán gồm: glucose máu ≥ 126mg/dL định kết quả: tăng cholesterol khi ≥5,2mmol/l; ( hoặc ≥ 7,0 mmol/L) và HbA1C> 6,5%. tăng triglycerid khi ≥2,3mmol/l; giảm HDL- Chúng tôi không đưa vào nghiên cứu những Cholesterol khi <0,9mmol/l; tăng LDL- trường hợp sau: phụ nữ đang mang thai, bệnh Cholesterol khi ≥3,5mmol/l. Định lượng insulin nhân suy thận, suy gan; viêm tụy mạn, viêm tụy bằng kỹ thuật miễn dịch hóa phát quang theo cấp. Các bệnh nội tiết khác ảnh hưởng đến chuyển nguyên lý sandwich, trên máy Cobas e601. Kết hóa glucose như hội chứng Cushing, Basedow, to quả nồng độ insulin giảm khi<2,6µIU/ml. đầu chi. Bệnh nhân đang sử dụng các thuốc làm Kháng thể kháng GAD, IAA trong huyết thanh thay đổi chuyển hóa glucose mà không thể ngưng được đo bằng kỹ thuật ELISA gián tiếp. Sinh phẩm điều trị được trong thời gian quy định để tiến hành được cung cấp bởi hãng AESKU, DRG, Đức. nghiên cứu như các steroids kích thích hoặc chẹn Nhận định kết quả: kháng GAD-65 ≤ 30IU/mL: β, thiazid. âm tính, > 30IU/mL: dương tính [5]. IAA< 0,95 Bệnh nhân ĐTĐ được chia thành 2 nhóm: U/mL: âm tính; > 1,05 U/mL: dương tính; từ 0,95 nhóm nghiên cứu gồm 43 bệnh nhân ĐTĐ có thể – 1,05: nghi ngờ, làm lại lần 2 [9]. Kỹ thuật được trạng gầy (tại thời điểm lấy mẫu) dựa theo chỉ số thực hiện tại Bộ môn Miễn dịch-Sinh lý bệnh, BMI <18,5 và nhóm chứng gồm 43 bệnh nhân Trường Đại học Y Dược Huế. Xử lý số liệu trên ĐTĐ có thể trạng không gầy (tại thời điểm lấy phần mềm Medcalc 11.3.1.0 3. KẾT QUẢ Bảng 3.1. Tỉ lệ dương tính của kháng GAD-65, IAA Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng Chỉ số (n=43) (n=43) p Số TH Tỷ lệ % Số TH Tỷ lệ % kháng GAD-65 21 48,84 8 18,60 <0,05 (> 30 IU/mL) IAA 13 30,23 9 20,93 >0,05 (> 1,05 U/mL) kháng GAD-65 và 10 23,26 06 13,95 >0,05 IAA dương tính kháng GAD-65 hoặc 24 55,81 11 25,58 <0,05 IAA dương tính Bảng 3.2. Nồng độ trung bình kháng GAD-65 và IAA Kháng GAD-65 dương tính IAA dương tính (> 30 IU/mL) (> 1,05 U/mL) Nhóm NC Nhóm chứng Nhóm NC Nhóm chứng (n=21) (n=08) (n=13) (n=09) X 51,08 50,62 1,46 1,42 SD 16,68 19,15 0,27 0,43 P >0,05 >0,05 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 31 139
- Bảng 3.3. Liên quan giữa kháng GAD-65 với một số đặc điểm lâm sàng Kháng GAD-65 dương tính Đặc điểm Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p lâm sàng n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % Tiểu nhiều 21 52,50 8 26,67 >0,05 Sụt cân 21 52,50 8 32,00 >0,05 Nhìn mờ 11 57,89 5 29,41 >0,05 Bảng 3.4. Liên quan giữa IAA với một số đặc điểm lâm sàng IAA dương tính Đặc điểm lâm Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p sàng n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % Tiểu nhiều 13 30,23 09 30,00 >0,05 Sụt cân 13 30,23 08 32,00 >0,05 Nhìn mờ 10 52,63 04 23,53 >0,05 Bảng 3.5. Liên quan giữa kháng GAD dương tính với Insulin Kháng GAD dương tính Chỉ số Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % Insulin 11 78,57 03 60,00 >0,05 (<2,6 µIU/mL) Insulin 10 34,48 05 13,16 >0,05 (≥2,6 µIU/mL) p 0,05 Bảng 3.6. Liên quan giữa IAA dương tính với Insulin IAA dương tính Chỉ số Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % Insulin 06 42,86 04 80,00 >0,05 (<2,6 µIU/mL) Insulin 07 24,14 05 13,16 >0,05 (≥2,6 µIU/mL) p >0,05 >0,05 Bảng 3.7. Liên quan giữa kháng GAD-65 với một số đặc điểm cận lâm sàng khác Kháng GAD-65 dương tính Chỉ số Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % HbA1c 21 48,84 08 18,60 <0,05 (≥ 6,5%) Glucose 21 48,84 08 18,60 <0,05 (≥ 7,0 mmol/l) Cholesterol 08 44,44 03 18,75 >0,05 ( ≥ 5,2 mmol/l) Triglycerid 12 60,00 04 19,05 <0,05 (≥ 2,3 mmol/l) HDL-Cholesterol 06 60,00 01 16,67 >0,05 (<0.9 mmol/l) LDL-Cholesterol 07 50,00 03 27,27 >0,05 (≥ 3,5 mmol/l) 140 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 31
- Bảng 3.8. Liên quan giữa IAA với một số đặc điểm cận lâm sàng khác IAA dương tính Chỉ số Nhóm nghiên cứu Nhóm chứng p n Tỷ lệ % n Tỷ lệ % HbA1c 13 30,23 09 20,93 >0,05 (≥ 6,5%) Glucose 13 30,23 09 20,93 >0,05 (≥ 7,0 mmol/l) Cholesterol 06 33,33 03 18,75 >0,05 ( ≥ 5,2 mmol/l) Triglycerid 09 45,00 05 23,81 >0,05 (≥ 2,3 mmol/l) HDL-Cholesterol 03 30,00 01 16,67 >0,05 ( <0.9 mmol/l) LDL-Cholesterol 05 35,71 03 27,27 >0,05 (≥3,5 mmol/l) 4. BÀN LUẬN với những bệnh nhân ĐTĐ thể trạng không gầy. 4.1. Tỉ lệ dương tính, nồng độ trung bình Nghiên cứu của Shilpa Oak và cộng sự (2014) kháng thể kháng GAD-65, IAA ở bệnh nhân trên 384 bệnh nhân ĐTĐ lớn tuổi thì có 171 trường đái tháo đường nghiên cứu hợp có kháng thể kháng GAD chiếm tỷ lệ 44,53%. Trên lâm sàng, bệnh nhân ĐTĐ týp 1 và týp 2 Tác giả Molo khi so sánh những đặc điểm lâm đôi khi rất khó phân biệt. Bệnh ĐTĐ týp 1 là bệnh sàng ở những người bệnh ĐTĐ týp 2 có anti GAD- tự miễn, sự thiếu hụt insulin là do tế bào β bị 65 âm tính và người lớn khởi phát bệnh ĐTĐ týp phá hủy. Bệnh ĐTĐ týp 2 đặc trưng bởi sự thiếu 1 cho các đối tượng thể LADA có anti GAD-65 insulin tương đối, không có sự hiện diện của các dương tính. Kết quả glucose máu ở bệnh nhân yếu tố tự miễn, lúc đầu do sự đề kháng insulin thể LADA còn tồi tệ hơn bệnh nhân ĐTĐ týp 2. và sau đó là do khiếm khuyết tiết insulin. ĐTĐ Cuối cùng bệnh nhân thể LADA nhanh chóng tiến thể LADA khởi phát muộn và có sự hiện diện của triển đến điều trị insulin. Theo tác giả việc xác các tự kháng thể như anti GAD-65 và IAA [13]. định anti GAD-65 có thể hữu ích cho việc phân Kết quả ở nhóm nghiên cứu của chúng tôi có 21 loại lâm sàng của bệnh ĐTĐ trong trường hợp trường hợp kháng GAD-65 dương tính trong tổng không rõ ràng về mặt lâm sàng[12]. số 43 trường hợp chiếm tỷ lệ 48,84% (Bảng 3.1). Về IAA, kết quả bảng 3.1 cho thấy có 13 trường Nồng độ trung bình kháng GAD-65 dương tính hợp dương tính với IAA chiếm tỷ lệ 30,23%; nồng của nhóm nghiên cứu là 51,08 ± 16,86 IU/mL độ trung bình của IAA dương tính là 1,46 ± 0,27 (Bảng 3.2). Ở nhóm chứng, có 8 trường hợp U/mL. Ở nhóm chứng có 9 trường hợp dương tính kháng GAD-65 dương tính chiếm tỷ lệ 18,6%. chiếm tỷ lệ 20,93%; nồng độ trung bình là 1,42 ± Nồng độ trung bình kháng GAD-65 ở nhóm 0,43 U/mL. Như vậy, tỷ lệ dương tính và nồng độ chứng là 50,62 ± 19,15 IU/mL. Từ kết quả trên tự kháng thể IAA ở nhóm nghiên cứu cao hơn so cho thấy tỷ lệ dương tính với kháng GAD-65 với nhóm chứng. Theo tác giả Lê Văn Don nghiên ở nhóm nghiên cứu (bệnh nhân ĐTĐ thể trạng cứu trên 226 bệnh nhân ĐTĐ thì có 17 trường hợp gầy: BMI <18,5) cao hơn rất nhiều so với nhóm dương tính với kháng thể IAA chiếm tỷ lệ 5,75%. chứng (thể trạng không gầy: BMI ≥ 18,5). Sự khác Tuy nhiên nhóm được chẩn đoán là ĐTĐ týp 1 thì biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Điều này tỷ lệ dương tính với IAA là 20% (10/50). Nhóm đồng nghĩa với việc những bệnh nhân ĐTĐ thể còn lại được chẩn đoán là ĐTĐ týp 2, có tỷ lệ IAA trạng gầy có nguy cơ cao với thể tự miễn hơn so dương tính 3,97% [2]. Một kết quả khác của Yu Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 31 141
- Lipping và cộng sự (2013) nghiên cứu trên 47 trẻ điểm lâm sàng trên, kết quả bảng 3.3. cho thấy tỷ em được chẩn đoán là tiền ĐTĐ, kết quả rất bất lệ tiểu nhiều, sụt cân, nhìn mờ ở nhóm nghiên cứu ngờ vì tỷ lệ dương tính với kháng thể IAA là rất cao đều cao hơn nhóm chứng, tuy nhiên sự khác biệt 44 trường hợp chiếm tỷ lệ 93.6% trong khi đó tỷ này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Về mối lệ anti GAD-65 dương tính chỉ chiếm 36,2% [17]. liên quan giữa IAA dương tính với các đặc điểm Từ kết quả đó cho thấy IAA dương tính ở những lâm sàng như tiểu nhiều, sụt cân và nhìn mờ bệnh nhân tiền ĐTĐ là rất cao. Do vậy, IAA xuất (Bảng 3.4) cũng không thấy có sự khác biệt có ý hiện trong máu có thể là dấu hiệu cảnh báo sớm nghĩa thống kê giữa hai nhóm. của bệnh ĐTĐ trong tương lai. Trong nghiên cứu 4.3. Liên quan giữa kháng thể kháng GAD- của chúng tôi, nhóm nghiên cứu là những bệnh 65, IAA với Insulin nhân ĐTĐ có thể trạng gầy có tỷ lệ IAA dương Nồng độ insulin là một chỉ tiêu để phân biệt tính cao hơn so với nhóm chứng. Vì vậy, những ĐTĐ týp 1 và týp 2. Tuy nhiên, nồng độ insulin bị bệnh nhân ĐTĐ thể trạng gầy có IAA dương tính ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như khả năng tiết của sẽ là nhóm có nguy cơ cao tiến triển thành ĐTĐ tế bào β, chuyển hóa glucose, các yếu tố đối kháng thể tự miễn so với nhóm còn lại. insulin Nghiên cứu của Yang Lin theo dõi trong Như vậy, sự xuất hiện của các kháng thể tự vòng sáu năm, kiểm tra mỗi 6 tháng một lần về miễn như kháng GAD-65, IAA rất có giá trị trong chức năng tế bào β ở 2 nhóm bệnh nhân ĐTĐ tự chẩn đoán và phân loại các týp của ĐTĐ cũng như miễn tiềm ẩn ở người lớn, một nhóm có anti GAD- theo dõi sự tiến triển của bệnh. Trong nghiên cứu 65 dương tính và một nhóm có anti GAD-65 âm của chúng tôi, số trường hợp dương tính với ít nhất tính, tương ứng như theo dõi ĐTĐ týp 2. Kết quả một trong hai tự kháng thể kháng GAD-65 và IAA cho thấy những bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ là 24 trường hợp chiếm tỷ lệ 55,81%. Sự có mặt týp 2 có anti GAD-65 dương tính thì tế bào β đảo của các tự kháng thể kháng GAD-65 và IAA đều tụy sẽ sớm bị suy kiệt hơn so với bệnh nhân ĐTĐ có giá trị tiên lượng sự phụ thuộc insulin ở bệnh týp 2 âm tính với tự kháng thể này [16]. Theo tác nhân ĐTĐ, tuy nhiên kháng thể kháng GAD-65 giả Dores Jorge, bệnh ĐTĐ týp 2 ngày càng tăng được xem là dấu ấn miễn dịch chính để chẩn đoán cùng với sự tiến triển của bệnh mà phải kết hợp ĐTĐ tự miễn tiềm ẩn ở người trưởng thành. nhiều loại thuốc khác nhau. Insulin là một thuốc 4.2. Liên quan giữa nồng độ kháng thể anti có hiệu quả nhất để kiểm soát glucose máu ở GAD-65, IAA với một số đặc điểm lâm sàng bệnh nhân ĐTĐ, tuy nhiên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 Đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân ĐTĐ tương thường không được điều trị insulin đủ liệu trình. đối đa dạng, các đặc điểm thường gặp là tiểu nhiều Điều này dẫn đến việc mất kiểm soát glucose máu và sụt cân Sự thiếu hụt insulin hay đề kháng và tụy ngày càng hạn chế việc sản xuất insulin [8]. insulin sẽ làm tăng nồng độ glucose trong máu Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù không gây nên hiện tượng tiểu nhiều do tăng áp lực thẩm thống kê được có bao nhiêu bệnh nhân đã từng thấu (glucose là chất có áp lực thẩm thấu cao). điều trị với insulin hay chưa nhưng tỷ lệ bệnh nhân Chính vì vậy đa phần những bệnh nhân mắc bệnh giảm insulin máu ở nhóm nghiên cứu (nhóm bệnh ĐTĐ đều có triệu chứng lâm sàng này. Hơn nữa, nhân thể trạng gầy) là tương đối cao (32,56%); lượng glucose máu bị đào thải qua đường nước trong khi tỷ lệ này ở nhóm chứng (nhóm bệnh tiểu không được tái hấp thu, vì vậy cơ thể bắt buộc nhân thể trạng không gầy) chỉ là 11,63% (không phải huy động phân giải mô cơ, mô mỡ để cung trình bày trong phần kết quả). Xét về mối liên cấp năng lượng nên người bệnh bị sụt cân [3]. quan giữa sự hiện diện tự kháng thể kháng GAD- Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận được 65, IAA với giảm nồng độ insulin máu, Bảng 3.5, đặc điểm lâm sàng tiểu nhiều và sụt cân có tỷ lệ Bảng 3.6 cho thấy tình trạng giảm insulin máu cao nhất là 93,02%, nhìn mờ chiếm tỷ lệ 44,19% chiếm tỷ lệ rất cao ở cả nhóm nghiên cứu và nhóm (không trình bày trong kết quả). Khi khảo sát về chứng (lần lượt là 78,57% 42,86%; 60% và 80%). mối liên quan giữa anti GAD-65 với những đặc Ở nhóm nghiên cứu có mối liên quan có ý nghĩa 142 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 31
- thống kê về sự hiện diện của kháng GAD-65 với 4.5. Liên quan giữa kháng thể kháng GAD-65, giảm nồng độ insulin trong máu (p<0,05). Điều IAA với Lipid máu này cho thấy sự hiện diện của các tự kháng thể Đái tháo đường thường đi kèm với rối loạn trong bệnh ĐTĐ như kháng GAD-65, IAA làm nồng độ lipid và lipoprotein máu cũng như rối suy kiệt insulin máu bất kể thể trạng bệnh nhân loạn về chất lượng các lipoprotein, đây cũng là gầy hay không gầy. Vì vậy, những bệnh nhân ĐTĐ yếu tố chính gây xơ vữa động mạch. Đặc điểm nổi có anti GAD-65 dương tính, IAA dương tính nên bật là tăng cholesterol toàn phần, tăng hàm lượng được điều trị insulin sớm và đủ liệu trình để tránh triglycerid, tăng LDL-Cholesterol và giảm HDL- tình trạng suy kiệt tế bào β đảo tụy. Chlesterol. Mức độ cao của cholesterol chủ yếu 4.4. Liên quan giữa kháng thể kháng GAD-65, là LDL-Cholesterol cao đã được chứng minh có IAA với Glucose và HbA1c liên quan với sự phát triển xơ vữa động mạch và Trước đây, xét nghiệm glucose máu luôn là bệnh tim[1], [10], [14]. Nồng độ HDL-Cholesterol ưu tiên hàng đầu ở những bệnh nhân ĐTĐ nhưng hạ thấp trong máu là yếu tố nguy cơ quan trọng kỹ thuật này không có tính đặc hiệu cao (glucose của biến chứng mạch máu lớn. Rối loạn chuyển máu thường thay đổi theo chế độ ăn và tùy từng hóa lipid có thể cải thiện rõ rệt khi đường huyết thời điểm xét nghiệm trong ngày). HbA1c là liên ổn định, bệnh nhân ăn uống và tập luyện đúng hợp giữa glucose và hemoglobin trong hồng cầu. cách[4]. HbA1c ổn định với thời gian lưu hành của hồng Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận trên cầu trong máu ngoại vi là 110- 120 ngày và không 43 trường hợp ĐTĐ có 18 bệnh nhân (41,86%) bị ảnh hưởng bởi các yếu tố dinh dưỡng[11]. Vì tăng cholesterol với nồng độ trung bình là 6,06 ± vậy hiện nay xét nghiệm HbA1c thường được 0,54 mmol/l, trong số này có 8 bệnh nhân kháng chỉ định để chẩn đoán và theo dõi khả năng đáp GAD-65 dương tính chiếm tỷ lệ 44,44% (Bảng ứng điều trị của bệnh ĐTĐ. Theo ADA 2015, một 3.7). Có 6 trường hợp IAA dương tính trong số trong bốn tiêu chuẩn để chẩn đoán ĐTĐ là chỉ số 18 bệnh nhân tăng cholesterol máu chiếm tỷ lệ HbA1c ≥ 6,5% [7]. Mặc dù chỉ số HbA1c có lợi 33,33%. thế so với tiêu chuẩn glucose truyền thống nhưng 20 bệnh nhân (46,51%) tăng triglycerid với nó cũng có một số nhược điểm như các bệnh về nồng độ trung bình là 3,87 ± 1,11 mmol/l, trong hemoglobin, thiếu máu, hồng cầu nhỏ, tuổi tế bào, đó 12 bệnh nhân dương tính với kháng GAD-65 nhiễm độc niệu, tăng bilirunin máu và thiếu sắt có chiếm tỷ lệ 60% và 9 bệnh nhân dương tính với thể làm thay đổi kết quả HbA1c [11]. IAA chiếm tỷ lệ 45%. 14 bệnh nhân (32,56%) tăng Theo tiêu chuẩn chọn mẫu nghiên cứu của LDL-Cholesterol với nồng độ trung bình là 4,19 chúng tôi, mẫu được chọn có chỉ số glucose máu ± 0,48 mmol/l. trong đó có 7 bệnh nhân kháng đói ≥ 7,0 mmol/l và HbA1c ≥ 6,5%. Kết quả GAD-65 dương tính chiếm tỷ lệ 50% và 5 bệnh nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận được glucose nhân IAA dương tính chiếm tỷ lệ 35,71%. 10 có nồng độ trung bình là 10,56 ± 3,43 mmol/l và bệnh nhân (23,26%) giảm HDL-Cholesterol với HbA1c trung bình là 9,06 ± 1,52%. (không trình nồng độ trung bình là 0,78 ± 0,09 mmol/l, trong bày trong phần kết quả). Xét liên quan giữa kháng đó 6 bệnh nhân dương tính với kháng GAD-65 GAD-65, IAA với HbA1C và glucose máu Bảng chiếm 60% và 3 bệnh nhân dương tính với IAA 3.7 và 3.8 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa chiếm 30%. thống kê giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng. Như vậy, chúng tôi tìm thấy tỷ lệ rối loạn lipid Khi kháng GAD-65 và IAA xuất hiện trong máu, máu ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ thể trạng gầy (nhóm kháng GAD-65 sẽ phá hủy protein màng tế bào nghiên cứu) cao hơn nhóm không gầy (nhóm tiểu đảo β, bên cạnh đó IAA làm giảm tác dụng chứng) ở cả trường hợp kháng GAD dương tính, của insulin dẫn đến insulin ngày càng cạn kiệt, IAA dương tính. Đặc biệt là tăng triglycerid máu glucose trong máu tăng cao và mất kiểm soát từ khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm với đó HbA1c cũng sẽ tăng theo. kháng GAD-65 dương tính (p<0,05). Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 31 143
- 5. KẾT LUẬN có ý nghĩa thống kê giữa kháng GAD-65, IAA Qua kết quả nghiên cứu trên 86 bệnh nhân với một số đặc điểm lâm sàng như tiểu nhiều, ĐTĐ thì tỷ lệ dương tính với tự kháng thể kháng sụt cân, nhìn mờ. Chúng tôi tìm thấy sự khác GAD-65 ở bệnh nhân đái tháo đường thể trạng biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa kháng gầy là 48,84%; IAA là 30,23%. Tỷ lệ dương tính GAD-65 dương tính với giảm nồng độ insulin. với ít nhất một trong hai loại là 55,81%. Tỷ lệ Trong những trường hợp kháng GAD-65 dương dương tính với tự kháng thể kháng GAD-65 ở nhóm tính thì nhóm ĐTĐ thể trạng gầy có tỷ lệ tăng nghiên cứu cao hơn nhóm chứng (p<0,05). glucose, HbA1C và triglycerid máu cao hơn Chúng tôi chưa ghi nhận được mối liên quan nhóm không gầy (p<0,05). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạ Văn Bình (2007), Những nguyên lý nền tảng 11. Herman William H. and Cohen Robert M. (2012), bệnh đái tháo đường tăng gluocse máu, NXB Y “Racial and Ethnic Differences in the Relationship học, Hà Nội, trang 23-76. between HbA1c and Blood Glucose: Implications 2. Lê Văn Don (2010), Nghiên cứu một số yếu tố for the Diagnosis of Diabetes”, J Clin Endocrinol tự miễn dịch ở bệnh nhân đái tháo đường để tiên Metab, 97(4), 1067-1072. lượng và định hướng điều trị, Đề tài Nghiên cứu 12. Molo A., Hernandez M., Marsal J. R., et al (2013), khoa học, Viện 108, Hà Nội, trang 3-47. “Latent autoimmune diabetes (LADA) is perched 3. Trương Ngọc Dương (2009), Nghiên cứu nồng độ between type 1 and type 2: evidence from adults C-peptid, insulin, tự kháng thể kháng insulin, một in one region of Spain”, Diabetes Metab Res Rev, số chỉ số oxy hóa/ chống oxy hóa ở bệnh nhân đái 29(6), pp.446-51. tháo đường týp 1, Luận án Tiến sĩ Y học, Học viện 13. Sanchez-Quesada Jose Luis, Vinagre Irene, Quân y, Hà Nội, trang 7-14. De Juan-Franco1 Elena et al (2013), “Impact 4. Nguyễn Hải Thủy (2009), Bệnh tim mạch trong đái of the LDL subfraction phenotype on Lp- tháo đường, NXB Đại học Huế, trang 91-98. PLA2 distribution, LDL modification and HDL 5. AESKULISA (2014), Gad65 Instruction manual, composition in type 2 diabetes”, Cardiovascular Aesku, Germany, pp.1-9. Diabetology, 12(112), 1-8. 6. Achenbach Peter, Warncke Katharina, Reiter 14. Stenstrom Gunnar, Gottsater Anders, Bakhtadze Ju¨rgen et al (2004), “Stratification of Type 1 Ekaterine et al (2005), “Latent Autoimmune Diabetes Risk on the Basis of Islet Autoantibody Diabetes in Adults Denfinition, Prevalence, β-Cell Characteristics”, Diabetes, 53, 384-392. Function, and Treatment”, Diabetes, 54(2), S68-72. 7. ADA (2015), “Standards of Medical Care in 15. Winter William E. and Schatz Desmond A. (2011), Diabetes-2015 Abridged for Primary Care “Autoimmune Markers in Diabetes”, Clinical Providers”, Diabetes Care, 33(2), 97-111. Chemistry, 57(2), 168-175. 8. Dores Jorge (2013), “Insulin therapy in type 2 16. Yang Lin, Zhou Zhi-Guang, Huang Gan et al diabetes”, Rev Port Cardiol, 32(Supl.1), 25-31. (2005), “Six-year follow-up of pancreatic β 9. DRG (2015), DRG IAA Elisa, EIA-1593, USA, cell function in adults with latent autoimmune pp.1-9. diabetes”, Word Journal of Gastroenterology, 10. Fujihara Kazuya, Suzuki Hiroaki, Sato Akira et al 11(19), 2900-2905. (2012), “Carotid Artery Plaque and LDL-to-HDL 17. Yu Lipping, Dong Fran, Miao Dong Mei et al (2013), Choleterol Ratio Predict Atherosclerotic Status in “Proinsulin/Insulin Autoantibodies Measured With Coronary Arteries in Asymptomatic Pariends with Electrochemiluminescent Assay Are the Earliest Type 2 Diabetes Mellitus”, J Atheroscler Thromb, Indicator of Prediabetic Islet Autoimmunity”, 20(5), 452-464. Diabetes Care, 36, 2266-2270. 144 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 31

