Nghiên cứu can thiệp nhằm làm giảm ô nhiễm phân (E.coli) trong nước uống tại hộ gia đình ở khu vực miền núi, tỉnh Lào Cai, Việt Nam
Chúng tôi tiến hành chọn 100 hộ gia đình tại hai xã miền núi trong đó có 50 hộ đã tham gia nghiên cứu cơ bản về chất lượng nước năm 2009 và được xem là nhóm chứng. Năm 2010, 50 hộ này được nhận viên khử khuẩn nước AQUATAB và bình trữ nước an toàn 20L (nhóm can thiệp 1). Năm mươi hộ còn lại được lựa chọn ngẫu nhiên và được nhận bình trữ nước an toàn 20L dùng để trữ nước uống sau khi đun sôi (nhóm can thiệp 2). Chúng tôi lấy mẫu nước tại mỗi hộ gia đình 2 tuần/lần, trong vòng 4 tháng của năm 2009 (đối với nhóm chứng) và 2010 (nhóm can thiệp 1 và 2). Mức độ ô nhiễm E.coli trong nước uống của hộ gia đình từ nhóm can thiệp 1 (GTTB: 1,17 E.coli/100mL, 95% CI: 10,99-17,7) thấp hơn đáng kể so với những mẫu nước được thu thập từ nhóm can thiệp 2 (13,95: 95% CI: 10,99-17,70) và nhóm chứng (11,38: 95% CI:9,32-13,88) (P <0,001).
Trong khi 92% mẫu nước từ các hộ gia đình của nhóm can thiệp 1 đã đáp ứng được tiêu chuẩn của WHO về nồng độ E.coli trong nước uống (0 vi khuẩn/100 ml), chỉ có 41,5% và 32,8% mẫu nước uống trong các hộ gia đình ở nhóm can thiệp 2 và nhóm chứng đạt được tiêu chuẩn này.
Nghiên cứu can thiệp nhằm làm giảm ô nhiễm phân (E.coli) trong nước uống tại hộ gia đình ở khu vực miền núi, tỉnh Lào Cai, Việt Nam
File đính kèm:
nghien_cuu_can_thiep_nham_lam_giam_o_nhiem_phan_e_coli_trong.pdf
Nội dung text: Nghiên cứu can thiệp nhằm làm giảm ô nhiễm phân (E.coli) trong nước uống tại hộ gia đình ở khu vực miền núi, tỉnh Lào Cai, Việt Nam
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Nghiên cứu can thiệp nhằm làm giảm ô nhiễm phân (E.coli) trong nước uống tại hộ gia đình ở khu vực miền núi, tỉnh Lào Cai, Việt Nam Nguyễn Đăng Tuấn(*), Nguyễn Thái Hiệp Nhi(**), Phùng Đắc Cam(***), Anders Dalgaards(****), , Tsung-Yun Liu(******),Vương Tuấn Anh(******) Chúng tôi tiến hành chọn 100 hộ gia đình tại hai xã miền núi trong đó có 50 hộ đã tham gia nghiên cứu cơ bản về chất lượng nước năm 2009 và được xem là nhóm chứng. Năm 2010, 50 hộ này được nhận viên khử khuẩn nước AQUATAB và bình trữ nước an toàn 20L (nhóm can thiệp 1). Năm mươi hộ còn lại được lựa chọn ngẫu nhiên và được nhận bình trữ nước an toàn 20L dùng để trữ nước uống sau khi đun sôi (nhóm can thiệp 2). Chúng tôi lấy mẫu nước tại mỗi hộ gia đình 2 tuần/lần, trong vòng 4 tháng của năm 2009 (đối với nhóm chứng) và 2010 (nhóm can thiệp 1 và 2). Mức độ ô nhiễm E.coli trong nước uống của hộ gia đình từ nhóm can thiệp 1 (GTTB: 1,17 E.coli/100mL, 95% CI: 10,99-17,7) thấp hơn đáng kể so với những mẫu nước được thu thập từ nhóm can thiệp 2 (13,95: 95% CI: 10,99-17,70) và nhóm chứng (11,38: 95% CI:9,32-13,88) (P <0,001). Trong khi 92% mẫu nước từ các hộ gia đình của nhóm can thiệp 1 đã đáp ứng được tiêu chuẩn của WHO về nồng độ E.coli trong nước uống (0 vi khuẩn/100 ml), chỉ có 41,5% và 32,8% mẫu nước uống trong các hộ gia đình ở nhóm can thiệp 2 và nhóm chứng đạt được tiêu chuẩn này. Từ khoá: nước uống, nghiên cứu can thiệp, E.coli, AQUATAB, trữ nước an toàn An intervention study to reduce the faecal (E. coli) contamination of household drinking water in a mountainous area, Lao Cai province, Vietnam Nguyen Dang Tuan (*), Nguyen Thai Hiep Nhi (**), Phung Dac Cam (***), Anders Dalgaards (****), , Tsung-Yun Liu (******),Vuong Tuan Anh (******) A total of 100 households were selected in a longitudinal study conducted in two mountainous communes in 2009-2010. Fifty households where drinking water boiling practice was common had been chosen in the baseline study in 2009 as a control group and in 2010 these 50 households were re-selected and provided water purification tablets together with 20 liter plastic narrow-necked Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 53
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | containers (intervention 1 group). We selected another 50 households which stored drinking water after boiling in 20 L plastic narrow-necked containers (intervention 2 group). Treated drinking water samples were collected biweekly during four months of intervention in 2009 (control) and 2010 (intervention 1 and 2). E.coli contamination level of household drinking water from the intervention 1 group (geometric mean: 1.17 E.coli/100mL, 95% CI: 10.99-17.7) was significantly lower than those from the intervention 2 (13.95, 95% CI: 10.99-17.70) and the control group (11.38, 95% CI: 9.32- 13.88) (P<0.001). While 92% of samples from households of the intervention 1 group met WHO guidelines for 0 E.coli/100 ml, only 41.5% and 32.8% samples in the intervention 2 and control households met such a benchmark. Key words: drinking water, intervention study, E.coli, AQUATAB tablet, safe storage. Tác giả (*) ThS. Nguyễn Đăng Tuấn, điều phối viên dự án SANIVAT, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, số 1 Yersin, Hà Nội. Điện thoại: 043. 8219074. Fax: 043.9719045. Email: ndtuan2002@yahoo.com (**) GS. TS. Phùng Đắc Cam, Phòng Nghiên cứu các nhiễm khuẩn đường ruột, Khoa Vi Khuẩn, Viện VSDT Trung Ương, Hà nội. Tel: +84 38219074, email: cam@fpt.vn. (***) GS. TS. Anders Dalsgaard, Trường ĐH Khoa Học Cuộc Sống, ĐH Copenhagen, Đan Mạch. Email: ad@life.ku.dk. (****) ThS. BS. Nguyễn Thái Hiệp Nhi, Phòng Vi Sinh Nước, Viện Y học Lao động và Vệ sinh Môi trường Trung ương. Email: thaihiepnhi@yahoo.com. (*****) TS. Tsung-Yun Liu, Khoa Y học Lao động và Sức khoẻ Môi trường, ĐH Yang Ming, Đài Loan. Email: tyliu@vghtpe.gov.tw (******) TS. BS. Vương Tuấn Anh, Phòng Nghiên cứu các Nhiễm khuẩn Đường ruột, Khoa Vi khuẩn, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, 1 Yersin, Hà nội. Tel: +84 943901375. Email: vtanihe@yahoo.co.uk. 1. Đặt vấn đề không hợp vệ sinh, hoặc bình trữ nước không an Ở các nước đang phát triển, nhiễm phân trong toàn (không đậy nắp hoặc đậy nắp sơ sài) [1,3]. nước uống rất phổ biến ở khu vực nông thôn và miền Việc xử lý nước tại hộ gia đình bằng hoá chất, núi. Ô nhiễm thường xảy ra trong quá trình lấy thường là chlor kết hợp với sử dụng bình trữ nước nước, vận chuyển và trữ nước từ nguồn nước đến hộ an toàn miệng nhỏ đã được triển khai ở nhiều nước gia đình [1]. Ở Việt nam, ô nhiễm phân trong nước như là Kenya và Bolivia [4,5] và kết quả cho thấy uống còn xảy ra thậm chí là sau khi nước đã qua xử can thiệp bằng phương pháp này có thể cải thiện lý bằng đun sôi. Một nghiên cứu trước đây tiến hành chất lượng nước và làm giảm nguy cơ gây tiêu chảy tại khu vực Tây Nguyên năm 2004 đã tìm thấy 25% [6,7]. những mẫu nước đã đun sôi tại hộ gia đình có nhiễm Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc với coliform chịu nhiệt có nguồn gốc từ phân người và những khó khăn về tiếp cận nước sạch. Năm 2007 động vật [2]. Những yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến chính phủ đã triển khai Chương trình Mục tiêu Quốc việc nhiễm phân trong nước uống tại cấp hộ gia gia giai đoạn II (NTP-II) về cải thiện điều kiện cấp đình được xác định là do sử dụng các dụng cụ trữ nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tại tỉnh nước và phương pháp lấy nước từ bình trữ nước Lào Cai. NTP-II tại Lào Cai tập trung vào hỗ trợ các 54 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | loại hình khác nhau trong việc cung cấp nước sạch; 2.2. Thiết kế nghiên cứu và lựa chọn hộ xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh tại các trạm y tế xã, gia đình tại trường học và tại hộ gia đình; xây dựng cơ sở chăn nuôi hợp vệ sinh và tập trung vào các hoạt động, thông tin, giáo dục, truyền thông (IEC) trong các trường học và các cơ sở y tế công cộng. Trong 6 tháng cuối năm 2007, số hộ gia đình được tiếp cận với nước sạch chiếm 65% trong đó 21% sử dụng nguồn nước giếng đào, 43% sử dụng nước cấp và 2% sử dụng nước giếng khoan [8]. Năm 2007 Cơ quan Hợp tác Phát triển Đan Mạch (DANIDA) đã tài trợ dự án "Đánh giá tác động của việc cải thiện điều kiện cấp nước, vệ sinh môi trường và hành vi vệ sinh tới sức khoẻ của người dân ở tỉnh Lào Cai" (SANIVAT). Dự án này được tiến hành tại hai xã miền núi (Hợp Thành và Tả Phời) của tỉnh Lào Cai. Năm 2009, dự án đã tiến hành nghiên cứu đánh giá cơ bản về chất lượng nước uống từ các nguồn nước đến hộ gia đình. Kết quả nghiên cứu từ nghiên cứu này cho thấy vẫn còn một số lượng đáng kể mẫu nước đã qua xử lý (đun sôi) bị ô nhiễm phân (E.coli) (số liệu chưa công bố). Do Hình 1. Địa điểm nghiên cứu tại Lào Cai (mũi tên) đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu can thiệp để Nghiên cứu cơ bản về chất lượng nước đã được đánh giá việc xử lý bằng chlor ngay tại hộ gia đình tiến hành từ tháng 04 - 09/2009. Mục tiêu của kết hợp lưu trữ an toàn có tác động như thế nào nghiên cứu cơ bản là xác định và đánh giá các yếu trong việc giảm ô nhiễm E.coli trong nước uống tại tố nguy cơ đối với việc ô nhiễm E.coli tại nguồn hộ gia đình. nước, tại bể trữ nước uống chưa qua xử lý và tại bình trữ nước uống đã qua xử lý ở hộ gia đình. Mục tiêu nghiên cứu Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn ngẫu nhiên Đánh giá hiệu quả nghiên cứu can thiệp có 50 hộ gia đình có ít nhất một trẻ em dưới 5 tuổi. Tại nhóm đối chứng ở quy mô nhỏ với mục đích giảm mỗi hộ gia đình, chúng tôi thu thập hai mẫu nước thiểu ô nhiễm E.coli trong nước uống tại hộ gia đình khác nhau bao gồm mẫu nước từ bể trữ nước uống ở Lào Cai, tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam. chưa qua xử lý và từ bình trữ nước đã qua xử lý. Mẫu nước đã qua xử lý được lấy trực tiếp từ bình 2. Phương pháp nghiên cứu đựng nước uống. Nghiên cứu can thiệp được tiến hành từ tháng 2.1. Địa điểm nghiên cứu 07 - 11/2010 và thiết kế như một nghiên cứu can Nghiên cứu được tiến hành tại hai xã miền núi thiệp quy mô nhỏ. Chúng tôi đã cung cấp hai hình của thành phố Lào Cai: Tả Phời và Hợp Thành. Tả thức can thiệp khác nhau cho 100 hộ gia đình có trẻ Phời và Hợp Thành là hai xã vùng cao đặc biệt khó em dưới 5 tuổi, chia thành hai nhóm, mỗi nhóm 50 khăn của thành phố Lào Cai (tỉnh Lào Cai), cách hộ. Năm mươi hộ đầu tiên (nhóm can thiệp 1) được trung tâm thành phố Lào Cai khoảng 20 km với 40% chọn lại từ nghiên cứu cơ bản về chất lượng nước hộ gia đình tại 2 xã này được sếp vào dạng hộ năm 2009 như đã đề cập ở trên và được cung cấp nghèo. 93% và 81% dân số của xã Hợp Thành và viên khử khuẩn nước AQUATAB và bình trữ nước Tả Phời là dân tộc thiểu số trong đó người Tày, an toàn 20 lít. Năm mươi hộ gia đình còn lại (nhóm Dáy, Dao chiếm đa số [9]. Thu nhập chính của can thiệp 2), phù hợp với nhóm can thiệp 1 về tình người dân địa phương là từ nông-lâm nghiệp. Phần trạng kinh tế xã hội và chỉ được cung cấp bình trữ lớn các hộ gia đình thuộc 2 xã phân bố ở các nước an toàn 20 lít. Viên khử khuẩn nước thôn/bản nhỏ nằm rải rác. AQUATAB và bình trữ nước an toàn 20 lít được Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 55
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | cung cấp miễn phí cho các hộ gia đình tham gia thống kê chỉ được tiến hành sau khi số lượng E.coli nghiên cứu. Trong quá trình can thiệp, để tránh việc đã chuyển đổi sang giá trị log10 để số liệu được quy sai số về thông tin giữa nhóm can thiệp 1 và can về phân bố chuẩn. Để sử dụng cho mục đích này, số thiệp 2, chúng tôi lựa chọn các hộ gia đình trong liệu E.coli có giá trị 0 được mặc định có giá trị 1 để nhóm can thiệp 1 từ các thôn khác với các hộ gia không làm mất số liệu khi chuyển đổi [11,12]. đình của nhóm can thiệp 2. Số liệu về chất lượng Chúng tôi cũng sử dụng các kiểm định thống kê nước cũng như thông tin về thực hành trữ nước và như Student T, Kruskal-Wallis, Chi-square (Khi xử lý nước của 50 hộ gia đình trong nghiên cứu cơ bình phương)/Fisher's exact) và ANOVA một chiều bản được sử dụng như là nhóm chứng. để phân tích và so sánh GTTB giữa các nhóm can 2.3. Phương pháp lấy mẫu nước và phân thiệp và nhóm chứng. Giá trị P<0.05 được xem như tích mẫu nước là giá trị có ý nghĩa về mặt thống kê. Chúng tôi sử dụng chai thủy tinh vô trùng dung 3. Kết quả tích 330 ml để thu thập 250 ml nước từ bình trữ nước uống của hộ gia đình. Ở nhóm can thiệp 1, mẫu Bảng 1 cho thấy ô nhiễm E.coli trong mẫu nước nước được thu thập sau khi nước đã qua xử lý bằng giữa ba nhóm nghiên cứu trong mùa mưa và mùa viên khử khuẩn AQUATAB ít nhất là 30 phút. Ở khô. Tỷ lệ mẫu có E.coli của nhóm chứng, nhóm can nhóm can thiệp 2, mẫu nước được lấy trực tiếp từ thiệp 1 và nhóm can thiệp 2 lần lượt là 67,25%, bình trữ nước uống đã qua xử lý của hộ gia đình. 7,75% và 58,5%. Tỉ lệ mẫu có E.coli ở nhóm can Mẫu nước ở nhóm chứng cũng lấy tương tự như thiệp 1 thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm nhóm can thiệp 2. chứng và nhóm can thiệp 2 (P<0,001, ÷2). Vào mùa Chúng tôi thu thập mẫu nước 2 tuần/lần trong mưa, số mẫu có E.coli ở nhóm chứng (70%) và vòng 4 tháng, 2 tháng trong mùa mưa và 2 tháng nhóm can thiệp 2 (73,5%) cao hơn so với số mẫu có trong mùa khô ở nhóm chứng (2009) và 2 nhóm can E.coli vào mùa khô (64,5% và 43,5%). Tuy nhiên, thiệp (2010). Tổng số mẫu đã thu thập ở nhóm chúng tôi không thấy có sự khác biệt về số lượng chứng là 400 mẫu và ở 2 nhóm can thiệp là 800 các mẫu có E.coli của nhóm can thiệp 1 giữa hai mẫu. Mẫu nước được bảo quản lạnh ở nhiệt độ 4- mùa: mùa mưa và mùa khô. 50C ngay sau khi lấy và vận chuyển từ nơi lấy mẫu về phòng thí nghiệm trong cùng một ngày cho đến Bảng 1. Tỷ lệ các mẫu có E.coli trong ba nhóm khi phân tích. Tại khoa Vi sinh của Trung tâm Y tế nghiên cứu Dự phòng Lào Cai, chúng tôi sử dụng phương pháp màng lọc theo sự hướng dẫn của WHO [10] và môi trường chọn lọc Chromogenic cho E.coli (CM1046, Oxoid, Hampshire, UK) để phân tích tìm và đếm E.coli trong mẫu nước. 2.4. Phân tích số liệu thống kê Như đã đề cập ở trên, chúng tôi sử dụng số liệu lấy từ nghiên cứu cơ bản về chất lượng nước để làm số liệu của nhóm chứng. Để nhất quán giữa các Hình 2 cho thấy kết quả ô nhiễm E.coli trong nhóm, chúng tôi sử dụng số liệu chất lượng nước của nước uống của 3 nhóm được phân loại theo mức độ 2 tháng mùa khô và 2 tháng mùa mưa ở cả 3 nhóm. Tổng số mẫu từ 3 nhóm dùng cho phân tích thống phân loại nguy cơ của WHO đối với chất lượng nước kê và báo cáo là 1.200 mẫu. Số liệu được nhập bằng uống [13]. WHO phân loại các mức độ nguy cơ về phần mềm Microsoft Access 2003 và phân tích ô nhiễm phân trong nước uống thành 5 cấp độ dựa thống kê bằng phần mềm SPSS 17. Giá trị trung theo số lượng E.coli/100ml nước: 0 (mức không có bình (GTTB) cũng được sử dụng để tính và so sánh nguy cơ), 1-10 (nguy cơ thấp), 11-100 (nguy cơ nồng độ E.coli ở mỗi nhóm. Do số lượng vi khuẩn trung bình), 101-1.000 (nguy cơ cao) và >1.000 có xu hướng phân bố lệch chuẩn nên phân tích E.coli/100ml (nguy cơ rất cao). 56 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Dựa trên sự phân loại nguy cơ này của WHO, 13,88); 1.17 (95% CI: 1,09 - 1,25) và 13,95 (95% không có mẫu nào của hai nhóm can thiệp thuộc CI: 10,99 - 17,70) E.coli/100ml. GTTB của nồng độ mức nguy cơ rất cao (>1.000 vi khuẩn/100ml) trong E.coli ở nhóm can thiệp 1 thấp hơn có ý nghĩa thống khi đó chỉ có duy nhất một mẫu (0,3%) ở nhóm hộ kê so với GTTB của nhóm can thiệp 2 và nhóm đối gia đình chứng thuộc mức này. Hầu hết mẫu nước ở chứng (P<0,001, α2). nhóm can thiệp 1 (92%) thuộc mức không có nguy Bảng 2. Giá trị trung bình (GTTB) của E.coli trong cơ, trong đó không có mẫu nào trong nhóm này rơi nước uống ở các nhóm nghiên cứu vào mức nguy cơ cao. Gần 42% các mẫu nước của nhóm can thiệp 2 thuộc mức không có nguy cơ và hơn 1/2 số mẫu (54%) đều có nhiễm từ 10-1.000 E.coli/100mL. Chỉ có 5% số mẫu của nhóm này thuộc mức nguy cơ thấp. Ở nhóm đối chứng, một số lượng mẫu đáng kể thuộc mức nguy cơ trung bình (38,5%), tiếp theo là mức không có nguy cơ (32,8%), mức nguy cơ thấp (14,8%) và mức nguy cơ Bảng 3 trình bày GTTB E.coli ở tất cả các nhóm cao (13,8%). Số lượng E.coli cao nhất của nhóm nghiên cứu được chia theo từng đợt lấy mẫu. Ở 8 lần can thiệp 1, can thiệp 2 và nhóm đối chứng lần lượt lấy mẫu, GTTB E.coli ở các mẫu nước của nhóm là 80; 1.000 và 1.500 E.coli/100ml. Tóm lại, 92% số can thiệp 1 luôn luôn thấp hơn so với GTTB của lượng mẫu từ nhóm can thiệp 1, 41,5% thuộc nhóm nhóm can thiệp 2 và nhóm chứng. GTTB cao nhất can thiệp 2 và 32,8% đạt được tiêu chuẩn vi sinh đối của nhóm can thiệp 2 là 68,2 (95% CI: 39,25 - với nước uống theo hướng dẫn của WHO. 116,75) ở lần lấy mẫu thứ 3, trong khi đó GTTB cao nhất của nhóm can thiệp 1 chỉ là 1,41 (95% CI: 1,03 - 1,92) ở lần lấy mẫu cuối cùng và của nhóm chứng là 17,95 (95% CI: 9,78 - 32,46) ở lần lấy mẫu thứ 6. Tính đến cuối nghiên cứu, GTTB của E.coli của nhóm can thiệp 1, can thiệp 2 và nhóm chứng lần lượt là 1,41 (95% CI: 1,03 - 1,92); 6,43 (95% CI: 3,35 - 12,18) và 5,08 (95% CI: 3,06 - 8,33) và sự khác biệt này cũng có ý nghĩa về mặt thống kê (P <0,001). Bảng 3. GTTB của E.coli trong bình trữ nước uống hộ gia đình ở mỗi lần lấy mẫu Hình 2. Tỷ lệ mẫu dựa trên phân loại nguy cơ của WHO (N=1.200) Có sự khác biệt có ý nghĩa về thống kê giữa 3 nhóm nghiên cứu ở các mức nguy cơ (P<0,001, ÷2). Nhìn chung, tỷ lệ mẫu của nhóm can thiệp 2 thuộc mức nguy cơ cao là cao hơn (30,5%) so với nhóm chứng (13,8%). Điều đó trái ngược với mong đợi của chúng tôi là bình trữ nước an toàn có thể làm giảm nồng độ ô nhiễm E.coli. Kết quả này cũng cho thấy một số lượng lớn mẫu ở nhóm can thiệp 2 thuộc mức nguy cơ trung bình và nguy cơ cao. (b: Kiểm định phi tham số Kruskal Wallis) Bảng 2 cho thấy GTTB và khoảng tin cậy 95% (95% CIs) của mẫu nước ở các nhóm nghiên cứu. 4. Bàn luận GTTB của nhóm đối chứng, nhóm can thiệp 1 và Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá hiệu nhóm can thiệp 2 lần lượt là 11,38 (95% CI: 9,32 - quả giảm ô nhiễm phân (E.coli) trong nước đã qua Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 57
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | xử lý tại cấp hộ gia đình bằng can thiệp quy mô nhỏ AQUATAB đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên với xử lý chlor kết hợp với bình chứa an toàn tại hộ trong các trường hợp khẩn cấp và ở những cộng gia đình. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh sau 4 đồng dễ bị tổn thương [15], nghiên cứu này là một tháng can thiệp, các hộ gia đình sử dụng phương trong những nghiên cứu can thiệp đầu tiên được tiến pháp đơn giản, chi phí thấp, chất lượng nước uống hành để đánh giá tiềm năng của việc khử khuẩn tại các hộ gia đình nhận can thiệp đã được cải thiện nước trong việc cải thiện chất lượng nước uống tại đáng kể. Kết quả này cũng phù hợp với những kết vùng miền núi phía Bắc Việt Nam. quả của các nghiên cứu can thiệp tương tự trước đây ở Zambia [14], Bolivia [5] và Uzbekistan [7]. Kết 4.2. So sánh giữa việc đun sôi kết hợp với quả vi sinh trong nghiên cứu này cho thấy 92,25% bình trữ nước an toàn và đun sôi và 41,5% mẫu nước từ nhóm can thiệp 1 và nhóm Tổng số mẫu có E.coli ở nhóm chứng (67,25%) can thiệp 2 không nhiễm E.coli. cao hơn số mẫu có E.coli của nhóm can thiệp 2 Trong nghiên cứu này chúng tôi đã đưa ra hai (58,5%). Tuy nhiên, ngược lại GTTB của E.coli ở phát hiện chính: i) viên khử khuẩn nước AQUATAB nhóm can thiệp 2 lại cao hơn GTTB ở nhóm đối kết hợp với bình trữ nước an toàn là một phương chứng (13,95 E.coli/100ml [95% CI: 10,99-17,70] pháp hiệu quả trong việc giảm thiểu và ngăn ngừa so với 11,38 E.coli/100ml [95% CI: 9,32-13,88]). ô nhiễm phân trong nước uống; ii) không có sự khác Như chúng ta đã đề cập ở phần phương pháp nghiên biệt đáng kể giữa các hộ gia đình sử dụng bình trữ cứu, các hộ gia đình ở nhóm can thiệp 2 sử dụng nước an toàn kết hợp với đun sôi và các hộ gia đình bình trữ nước an toàn 20 lít còn các hộ gia đình ở chỉ đun sôi. nhóm chứng không nhận can thiệp. Thông thường, người dân ở nhóm chứng thường trữ nước bằng các 4.1. Hiệu quả xử lý bằng Chlor kết hợp với dụng cụ truyền thống dung tích nhỏ, cổ to như ấm bình trữ nước an toàn trong việc giảm ô nhôm hoặc bình nhựa Kết quả vi sinh của nghiên nhiễm E.coli trong nước uống đã qua xử lý cứu này chỉ ra rằng nếu chỉ sử dụng bình trữ nước an toàn sẽ không có nhiều hiệu quả bảo vệ nước Nghiên cứu can thiệp này hứa hẹn cung cấp một uống ô nhiễm vi sinh so với dụng cụ trữ nước thông phương pháp xử lý nước an toàn về mặt vi sinh cho thường. Kết quả này phù hợp với một nghiên cứu khu vực nông thôn và miền núi. Trong khi nguồn được tiến hành ở Indonesia năm 2005 [14] nhưng cung cấp bằng nước máy chưa nhiều và những hành trái ngược với một vài nghiên cứu khác trước đây vi xử lý nước uống an tòan vẫn còn hạn chế ở khu cho thấy rằng sử dụng bình trữ nước cải tiến có thể vực nông thôn, đặc biệt là ở các dân tộc thiểu số thì bảo vệ được chất lượng nước bằng cách ngăn ngừa việc khử trùng nước tại hộ gia đình kết hợp với bình tái nhiễm [1]. Kết quả trái ngược này có thể giải trữ nước an toàn là một can thiệp an toàn có thể thích được bởi vài lý do sau: i) thời gian trữ nước nhanh chóng phổ biến vì có giá thành rẻ, dễ sử dụng uống trong bình ở nhóm can thiệp 2 và nhóm chứng và thích nghi với các điều kiện khác nhau. Một là khác nhau. Bình chứa nước ở nhóm can thiệp 2 nghiên cứu trước đây được tiến hành ở vùng nông có dung tích lớn hơn (20 lít) bình chứa nước ở nhóm thôn Việt Nam chỉ ra rằng, chi phí cho việc thực chứng (khoảng 5 lít). Khi bình trữ nước an toàn được hành đun sôi nước hàng năm lớn hơn nhiều so với đổ đầy nước đun sôi, người dân thường sử dụng cho chi phí xử lý một khối lượng nước tương đương bằng đến khi hết nước thì mới đổ thêm nước mới. Thời viên khử khuẩn nước [11]. gian lưu trữ lâu hơn cũng là cơ hội để nước bị tái ô Trong suốt 4 tháng tiến hành nghiên cứu, việc nhiễm E.coli; ii) hành vi và thực hành trữ nước ở hai sử dụng viên khử khuẩn nước AQUATAB tại hộ gia nhóm cũng khác nhau. Người dân ở nhóm chứng đình có liên quan đến việc giảm đáng kể vi khuẩn thường vệ sinh bình chứa thường xuyên hơn người E.coli trong nước uống. Can thiệp này cũng cải dân ở nhóm can thiệp 2 (54% người dân ở nhóm thiện đáng kể chất lượng nước uống và đáp ứng chứng vệ sinh bình chứa hàng ngày trong khi một số được tiêu chuẩn của WHO về an toàn đối với nước lượng tương đương người dân ở nhóm can thiệp 2 vệ uống. Tỷ lệ mẫu nước đạt tiêu chuẩn của WHO ở sinh bình hàng tháng). Bình chứa bẩn cũng là một nhóm can thiệp 1 là rất cao (92,25%) và cao hơn nguyên nhân nữa làm tăng cơ hội tái nhiễm E.coli. nhiều so với nhóm can thiệp 2 và nhóm đối chứng Kết quả này nhấn mạnh rằng xử lý bằng chlor và (41,5% và 32,8%). Trong khi viên khử khuẩn nước thay đổi hành vi vệ sinh (ví dụ: rửa bình thường 58 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | xuyên hàng ngày hoặc 2 ngày/1 lần đối với bình trình lâu dài và toàn diện để phòng ngừa các bệnh chứa 20 L) trong khi trữ nước uống quan trọng hơn lây truyền qua đường nước. Tuy nhiên các chương là dụng cụ trữ nước trong việc phòng chống tái ô trình như vậy thường mất nhiều thời gian và chi phí nhiễm vi sinh nước. Những lý do này lý giải tại sao đầu tư cao. Vì vậy, khử trùng nước tại điểm sử dụng một vài hộ gia đình của nhóm can thiệp 2 có số kết hợp với bình trữ nước an toàn có thể là một biện lượng E.coli cao hơn và lặp đi lặp lại ở một vài lần pháp can thiệp trung hạn bền vững để cải thiện chất lấy mẫu. lượng nước và phòng chống bệnh lây truyền qua đường nước ở Việt Nam. 5. Kết luận và khuyến nghị Chúng tôi đưa ra một vài khuyến nghị sau đây Xử lý và dự trữ nước uống an toàn là một bước dựa vào những hiểu biết về phương pháp trữ nước rất quan trọng trong việc phòng tránh nhiễm phân cải tiến và xử lý nước tại điểm sử dụng ở cấp hộ gia (E.coli) trong nước uống. Hành vi này có thể được đình: phổ biến với chi phí thấp từ các hộ gia đình, đặc biệt 1) Khử trùng nước tại điểm sử dụng chi phí thấp là tại các cộng đồng dân cư nghèo. Chương trình cấp hơn, an toàn hơn và dễ thực hiện hơn là đun sôi. Và nước an toàn ở cộng đồng nên chú trọng hơn vào khi kết hợp với bình trữ nước an toàn thì được xem việc bảo đảm nước uống an toàn tại điểm sử dụng là một phương tiện hiệu quả trong việc đảm bảo (tại hộ gia đình). chất lượng nước uống tại hộ gia đình; Kết quả nghiên cứu cho thấy các hộ gia đình ở 2) Tại những cộng đồng nơi mà nguồn nước cấp khu vực miền núi phía bắc Việt Nam đã thành công không an toàn và đun sôi nước vẫn là phổ biến thì trong việc áp dụng biện pháp xử lý và trữ nước đơn nên nhấn mạnh giáo dục hành vi vệ sinh (rửa tay giản, rẻ tiền để cải thiện chất lượng nước uống. bằng xà phòng) và lựa chọn hình thức trữ nước phù Bình trữ nước an toàn có cấu tạo bền, đẹp và được hợp như việc sử dụng ấm đun nước và dụng cụ trữ tất cả người dân chấp nhận sử dụng. Chúng tôi nước an toàn sau khi đun. không tiến hành đánh giá hiệu quả của biện pháp Lời cảm ơn: Nhóm tác giả xin chân thành dự án xử lý và trữ nước an toàn này trong việc phòng SANIVAT đã giúp đỡ về mặt tài chính trong suốt chống bệnh tiêu chảy vì nghiên cứu này tập trung quá trình thực hiện nghiên cứu. Cảm ơn sự giúp đỡ đánh giá sự chấp nhận và hiệu quả của can thiệp của các nhân viên y tế tại TTYTDP Lào Cai, cán bộ trong việc cải thiện chất lượng nước tại cộng đồng y tế tại hai xã Tả Phời, Hợp Thành đã giúp đỡ tận dân cư nói trên. Trên thế giới, việc cung cấp nước tình trong quá trình thu thập và phân tích mẫu nước. máy, cải thiện hành vi vệ sinh và xử lý các nguồn Cảm ơn Cty Zuellig Việt nam đã hỗ trợ kỹ thuật chất thải của con người và gia súc là những chương trong quá trình sử dụng viên khử khuẩn Aquatab. Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22) 59
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tài liệu tham khảo disease transmission: a case study in Uzbekistan. Am J Trop Med Hyg, 59(6): 941-946. 1. Wright, J., S. Gundry, et al. (2004). Household drinking water in developing countries: a systematic review of 8. Trung tâm cấp nước và Vệ sinh môi trường nông thôn - microbiological contamination between source and point- CERWASS (2008). of-use.Trop Med Int Health 9(1): 106-117 9. Sách thống kê (2008). Chi cục thống kê tỉnh Lào Cai, Việt 2. Anh, V. T., M∅lbak, K., Cam, P. D., & Dalsgaard, A, Nam. (2010), "Factors Associated with Faecal Contamination of 10. Membrane filtration method for detection and Household Drinking Water in a Rural Area, Vietnam," in enumeration of coliform organisms, thermotolerant Sustainability in Food and Water, 18 edn, A. Sumi et al., coliform organisms and presumptive Escherichia coli, eds., Springer Netherlands, pp. 123-136. (1997). World Health Organization guidelines for drinking 3. Sobsey, M. D, (2002). Managing water in the home: water quality volume 3: 61-62 accelerated health gains for improved water supply. World 11. Clasen, T.F., H. Thao do. et al. (2008). Microbiological Health Organization: Sanitation and Health. Geneva: World effectiveness and cost of boiling to disinfect drinking water Health Organization. in rural Vietnam. Environ Sci Technol 42(12): 4255-4260. 4. Makutsa, P., Nzaku, K., Ogutu, P., Barasa, P., Ombeki, S., 12. Luby S, Agboatwalla M. Razz A, Sobel J. A low-cost Mwaki, A., & Quick, R. E, (2006). Challenges in intervention for cleaner drinking water in Karachi, Pakistan implementing a point of use water quality intervention in In J Infect Dis. (2001); 5(3): 144-150 rural Kenya. Am J Public Health 91(10): 1571-1573. 13. WHO, (2010). Water for health: WHO Guidelines for 5. Quick, R. E., Venczel, L. V., Gonzalez, O., Mintz, E. D., Drinking-water Quality. Geneva: World Health Highsmith, A. K., Espada, A., Damiani, N. H., DeHannover, Organization. E. H., & Tauxe, R. V, (1996). Narrow-mouthed water storage vessels and in situ chlorination in a Bolivian 14. Gupta, S. K., A. Suatio,et al. (2007). Factors associated community: A simple method to improve drinking water with E.coli contamination of household drinking water quality. Am J Trop Med Hyg 54(5): 511-516. among tsunami and earthquake survivors, Indonesia. Am J Trop Med Hyg 76 (6): 1158-1162. 6. Quick, R. E., Venczel, L. V., Mintz, E. D., Soleto, L., Aparicio, J., Ginonaz, M., Hutwagner, L., Greene, K., Bopp, 15. Quick, R. E., A. Kimura, et al. (2002). Diarrhea C., Maloney, Sobsey M.D., & Tauxe, R. V, (1999). Diarrhea prevention through household level water disinfection and prevention in Bolivia through point-of-use disinfection and safe storage in Zambia. Am J Trop Med Hyg 66(5): 584-589. safe storage: a promising new strategy. Epidemiol Infect 16. Clasen T, Tanveer F. Saefd, S., Boisson, Paul 122: 83-90. Edmondson & Oleg Shipin, (2007). Household water 7. Semenza, J. C., Roberts, L., Henderson, A., Bogan, J., & treatment using sodium dichloroisocy anurate (NaDCC). Rubin, C. H, (1998). Water distribution system and diarrheal Am J Trop Med Hyg, 76(1):187-192. 60 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2011, Số 22 (22)