Một số yếu tố liên quan đến rối loạn dáng đi và thăng bằng ở người cao tuổi
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát một số yếu tố liên quan đến rối loạn dáng đi và thăng bằng ở người cao tuổi. Điều tra cắt ngang 290 bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương cho thấy tuổi càng cao nguy cơ có rối loạn dáng đi càng tăng. So với nhóm từ 60 – 69 tuổi, nhóm 70 - 79 tuổi có nguy cơ bị rối loạn dáng đi cao gấp 2,15 lần, nhóm 80 – 90 tuổi có nguy cơ bị rối loạn dáng đi cao gấp 12,39 lần. Không nhận thấy mối liên quan giữa giới tính và BMI đến rối loạn dáng đi. Rối loạn giấc ngủ và giảm thị giác, thính giác làm tăng nguy cơ rối loạn dáng đi (OR tương ứng là 5,51; 3,46; 3,63).Số điểm đánh giá suy giảm nhận thức càng thấp mức độ rối loạn dáng đi càng cao.
Những bệnh nhân có teo cơ, hạ huyết áp tư thế, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não, rối loạn tiền đình, đái tháo đường type 2 làm tăng nguy cơ rối loạn dáng đi tương ứng là 6,28; 11,6; 2,56; 17,75; 4,37; 1,77 lần. Số bệnh mắc phải, số thuốc phải dùng càng lớn tỷ lệ rối loạn dáng đi càng tăng. Như vậy cần có sự điều chỉnh toàn diện để điều trị các yếu tố nguy cơ và phòng tránh ngã
File đính kèm:
mot_so_yeu_to_lien_quan_den_roi_loan_dang_di_va_thang_bang_o.pdf
Nội dung text: Một số yếu tố liên quan đến rối loạn dáng đi và thăng bằng ở người cao tuổi
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN DÁNG ĐI VÀ THĂNG BẰNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI Hồ Thị Kim Thanh1,2, Hoàng Thị Phương Nam2 1Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Lão khoa Trung ương Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát một số yếu tố liên quan đến rối loạn dáng đi và thăng bằng ở người cao tuổi. Điều tra cắt ngang 290 bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương cho thấy tuổi càng cao nguy cơ có rối loạn dáng đi càng tăng. So với nhóm từ 60 – 69 tuổi, nhóm 70 - 79 tuổi có nguy cơ bị rối loạn dáng đi cao gấp 2,15 lần, nhóm 80 – 90 tuổi có nguy cơ bị rối loạn dáng đi cao gấp 12,39 lần. Không nhận thấy mối liên quan giữa giới tính và BMI đến rối loạn dáng đi. Rối loạn giấc ngủ và giảm thị giác, thính giác làm tăng nguy cơ rối loạn dáng đi (OR tương ứng là 5,51; 3,46; 3,63).Số điểm đánh giá suy giảm nhận thức càng thấp mức độ rối loạn dáng đi càng cao. Những bệnh nhân có teo cơ, hạ huyết áp tư thế, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não, rối loạn tiền đình, đái tháo đường type 2 làm tăng nguy cơ rối loạn dáng đi tương ứng là 6,28; 11,6; 2,56; 17,75; 4,37; 1,77 lần. Số bệnh mắc phải, số thuốc phải dùng càng lớn tỷ lệ rối loạn dáng đi càng tăng. Như vậy cần có sự điều chỉnh toàn diện để điều trị các yếu tố nguy cơ và phòng tránh ngã. Từ khóa: rối loạn dáng đi và thăng bằng, người cao tuổi, ngã I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện tượng ngã thường gặp ở người cao huyết áp tư thế đứng (9%). Đột quỵ là nguyên tuổi, gây nhiều hậu quả như gãy xương, chấn nhân thần kinh phổ biến nhất. Có nhiều thương, kích hoạt đợt cấp của bệnh, giảm vận phương pháp đánh giá rối loạn dáng đi và động sau ngã, mất độc lập trong hoạt động, thăng bằng cho người cao tuổi nhưng thang tâm lý sợ hãi và giảm chất lượng sống [1]. điểm Tinetti được sử dụng phổ biến. Thang Nguy cơ cao nhất gây ngã là do rối loạn dáng điểm gồm 9 mục đánh giá thăng bằng (tối đa đi, thăng bằng [2]. Rối loạn dáng đi do nhiều 16 điểm), 7 mục đánh giá dáng đi (tối đa 12 nguyên nhân gây ra, thường được chia làm 2 điểm), tổng điểm là 28 điểm [4]. Thời gian nhóm do thần kinh và không do thần kinh [3; thực hiện khoảng 10 phút, đơn giản, dễ thực 4; 5]. Trong nhóm các nguyên nhân không do hiện và ít có khác biệt trong nhận định và thần kinh thường gặp viêm khớp hoặc biến đánh giá triệu chứng của các nhân viên y tế dạng khớp, bệnh tim, bệnh phổi mạn tính và khác nhau là những ưu điểm nổi trội của việc bệnh mạch máu ngoại vi. Trong một nghiên sử dụng bảng điểm Tinetti trong thực hành cứu tỷ lệ rối loạn dáng đi và thăng bằng gặp ở lâm sàng. Các bác sĩ chẩn đoán được rối 75% bệnh nhân lớn tuổi [6]. Trong nghiên cứu loạn dáng đi và tìm được nguyên nhân sẽ này bệnh nhân tự báo cáo gặp khó khăn trong giúp ngăn ngừa các rối loạn chức năng, hạn đi bộ, hầu hết do viêm khớp (37%) và hạ chế tình trạng mất độc lập, làm giảm nguy cơ ngã và tử vong do ngã của bệnh nhân [7; 8]. Địa chỉ liên hệ: Hồ Thị Kim Thanh, Bộ môn Lão khoa, Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm: Trường Đại học Y Hà Nội tìm hiểu các yếu tố liên quan đến rối loạn Email: thanhhokim@hmu.edu.vn Ngày nhận: 30/11/2016 dáng đi và thăng bằng ở người cao tuổi điều Ngày được chấp thuận: 26/2/2017 trị nội trú tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương. 116 TCNCYH 106 (1) - 2017
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP + Suy giảm nhận thức nhẹ: 20 - 23 điểm. + Suy giảm nhận thức vừa: 14 - 19 điểm. 1. Đối tượng + Suy giảm nhận thức nặng: 0 - 13 điểm. Tiêu chuẩn lựa chọn - Đánh giá rối loạn dáng đi và thăng bằng, Bệnh nhân trên 60 tuổi, còn khả năng đi nguy cơ ngã thông qua bảng điểm Tinettii, lại. Lấy mẫu ngẫu nhiên từ các khoa phòng chẩn đoán có rối loạn dáng đi khi điểm thành điều trị nội trú trong vòng 1 tuần từ khi nhập phần dáng đi < 9 điểm. viện. Các bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên Xử lý số liệu: bằng chương trình SPSS cứu. phiên bản 15.0. Tiêu chuẩn loại trừ 3. Đạo đức nghiên cứu Bệnh nhân có thị lực < 1/10, hoặc đếm Nghiên cứu tuân thủ các qui tắc về đạo ngón tay dưới 1 m ở 1 hoặc 2 mắt. đức trong nghiên cứu y sinh. Các đối tượng 2. Phương pháp: dịch tễ học mô tả, cắt nghiên cứu đồng thuận tham gia và có thể rút ngang. lui bất kỳ khi nào nếu không đồng ý. Thông tin - Bệnh nhân được khám và làm bệnh án về đối tượng cũng như kết quả nghiên cứu nghiên cứu theo mẫu thống nhất. được bảo mật theo qui định. - Khai thác tiền sử ngã, tiền sử mắc các bệnh mạn tính có liên quan đến rối loạn dáng III. KẾT QUẢ đi và thăng bằng. Điều tra 290 người cao tuổi nhập viện điều - Khám nội khoa tổng thể, thị giác, thính trị tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương, có 210 giác, làm các xét nghiệm, thăm dò tại Bệnh người có rối loạn dáng đi (72,4%). viện Lão khoa Trung ương. Tuổi trung bình của nhóm có rối loạn dáng - Bệnh nhân được làm test MMSE (Mini- đi cao hơn nhóm không có rối loạn dáng đi, sự Mental State Examination) để đánh giá suy khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tuổi càng cao giảm nhận thức. nguy cơ mắc rối loạn dáng đi càng tăng, + Không có suy giảm nhận thức: ≥ 24 điểm. (p = 0,001) (bảng 1). Bảng 1. Tỷ lệ rối loạn dáng đi theo nhóm tuổi RLDĐ (n = 210) Không RLDĐ (n = 80) Tuổi OR 95%CI P n % n % 60 – 69 62 29,52 47 58,75 1 - 70 – 79 80 38,10 26 32,50 2,51 1,39 - 4,52 0,001 ≥ 80 68 32,38 7 8,75 12,39 3,65 - 42,04 Tuổi TB ± ĐLC 75 ± 9 69 ±7 0,001 *RLDĐ: rối loạn dáng đi; TB: trung bình; ĐLC: độ lệch chuẩn. TCNCYH 106 (1) - 2017 117
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 2. Liên quan giữa suy giảm giác quan và rối loạn tâm thần với rối loạn dáng đi RLDĐ Không RLDĐ Bệnh lý OR p n = 210 % n = 80 % Không 204 72,34 78 27,66 1 Trầm cảm 0,87 Có 6 75 2 25 1,18 Không 130 64,36 72 35,64 1 Rối loạn giấc ngủ 0,0001 Có 80 90,9 8 0,01 5,51 Không 33 52,38 30 46,62 1 Giảm thị lực 0,0001 Có 177 77,97 50 22,03 3,46 Không 108 63,15 63 36,85 1 Giảm thính lực 0,0001 Có 102 85,71 17 14,29 3,63 *RLDĐ: rối loạn dáng đi. Rối loạn dáng đi liên quan chặt chẽ với giảm thị lực, thính lực và rối loạn giấc ngủ. Bảng 3. Mối liên quan giữa điểm MMSE và rối loạn dáng đi Rối loạn dáng đi Không rối loạn dáng đi Điểm MMSE p n = 210 % n = 80 % ≥ 24 102 57,63 75 42,37 20 – 23 66 92,96 5 7,04 0,0001 14 – 19 31 100 0 0 0 – 13 11 100 0 0 MMSE TB ± ĐLC 22,72 ± 4,89 28,52 ± 7,75 0,0001 * TB: trung bình; ĐLC: độ lệch chuẩn; MMSE: điểm đánh giá suy giảm nhận thức. Suy giảm nhận thức có mối liên quan chặt chẽ với rối loạn dáng đi. Điểm MMSE càng thấp thì tỷ lệ rối loạn dáng đi càng cao (p = 0,0001). Người bệnh bị hạ huyết áp tư thế và tăng huyết áp lần lượt có nguy cơ rối loạn dáng đi tăng 11,6 lần và 2,56 lần. Nguy cơ rối loạn dáng đi ở những người bị tai biến mạch máu não, rối loạn tiền đình lần lượt cao gấp 17,75 lần và 4,37 lần so với những người không có bệnh lý thần kinh (p = 0,001) (bảng 4). 118 TCNCYH 106 (1) - 2017
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 4. Liên quan giữa một số bệnh lý với rối loạn dáng đi RLDĐ Không RLDĐ Bệnh lý OR 95% CI P n % n % Không 176 70,4 74 29,6 1 - COPD 0,17 Có 4 66,67 2 33,33 1,22 0,14 – 4,4 Đái tháo Không 89 88,12 12 11,88 1 - 0,0001 đường Có 121 64,02 68 35,98 1,77 1,11 - 2,5 Thừa cân, Không 178 73,25 65 26,75 1 - 0,92 béo phì Có 32 68,1 15 31,9 0,58 0,21- 1,56 Không 161 70,61 67 29,39 1 - Thiếu máu 0,36 Có 49 79,03 13 20,97 0,57 0,43 – 5,73 Không 149 67,42 72 32,58 1 - - Teo cơ Có 51 92,7 4 7,3 6,28 2,18 - 18,12 0,0001 Hạ huyết Không 38 56,72 29 43,28 1 - - áp tư thế Có 15 93,75 1 6,25 11,6 1,44 - 93,14 0,0001 Tăng Không 38 56,72 29 43,28 1 - - huyết áp Có 146 75,65 47 24,35 2,56 0,22 - 23,51 0,001 Không Tai biến 69 52,27 63 47,73 1 - - mạch máu Có 122 91,73 11 8,27 17,75 11,9 - 43,5 0,0001 Rối loạn Không 69 52,27 63 47,73 1 - - tiền đình Có 10 76,92 3 23,08 4,37 1,13 - 16,9 0,001 *RLDĐ: rối loạn dáng đi. Bảng 5. Mối liên quan giữa số bệnh mắc phải, số thuốc phải dùng với rối loạn dáng đi n OR p 95%CI Số bệnh (n) 1 0,00 1,74 - 3,11 n + 1 2,32 Số thuốc 1 0,00 1,74 - 3,12 n + 1 1,03 TCNCYH 106 (1) - 2017 119
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Khi tổng số bệnh mà bệnh nhân mắc phải tăng lên 1 bệnh thì nguy cơ bị rối loạn dáng đi tăng lên 2,32 lần (95% CI = 1,74 – 3,11; p < 0,05), tăng thêm 1 thuốc thì nguy cơ bị rối loạn dáng đi tăng lên 1,03 lần và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). IV. BÀN LUẬN như một loại thuốc bắt buộc trong quá trình Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận điều trị khá cao. thấy có khá nhiều các yếu tố tác động, chi Những bệnh nhân bị teo yếu cơ có nguy phối, làm tăng nguy cơ mắc rối loạn dáng đi cơ rối loạn dáng đi cao gấp 6,28 lần so với hoặc làm nặng thêm các biểu hiện của rối loạn những người không mắc bệnh và sự khác biệt dáng đi. này có ý nghĩa thống kê. Theo tổng kết của Nghiên cứu trên 290 người cao tuổi thấy Laurence, tình trạng teo yếu cơ là nguy cơ tuổi càng cao nguy cơ bị rối loạn dáng đi càng quan trọng, thường gặp đối với các cá nhân bị tăng. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu ngã. Những người có teo yếu cơ tăng nguy cơ của các tác giả khác: tuổi trung bình ở nhóm ngã trung bình gấp 4,9 lần [12]. Một phân tích có rối loạn dáng đi là 62,7 ± 14,9 năm cao hơn gộp từ 30 nghiên cứu đánh giá tác động của so với nhóm không có rối loạn dáng đi là 49,5 tình trạng teo yếu cơ lên rối loạn dáng đi và ± 16 năm, ở tuổi 60 có 15% người có rối loạn ngã cho thấy nếu người bệnh có tình trạng dáng đi nhưng khi đến 85 tuổi thì tỷ lệ này là yếu cơ chi dưới thì nguy cơ ngã là 1,76 lần, 82% [9; 11]. Tăng thêm một tuổi thì nguy cơ đối với yếu cơ chi trên thì nguy cơ này gấp ngã do rối loạn dáng đi tăng thêm 1,04 lần 3,06 lần. Việc thực hiện các bài tập tăng [10]. cường cơ bắp là cần thiết để ngăn ngừa nguy Những người giảm thị lực có nguy cơ mắc cơ ngã ở người cao tuổi [2]. Các chương trình rối loạn dáng đi tăng gấp 3,46 lần so với nhóm điều trị hoặc tập luyện thể chất, đi bộ có thể không giảm thị lực. Laurence tổng kết từ 16 cải thiện sức mạnh và chức năng hệ cơ. Các nghiên cứu, kết luận nguy cơ ngã ở người có cá nhân cần được khuyến khích vận động cơ giảm thị lực tăng gấp 2,8 lần so với nhóm thị thể, có thể chỉ cần đi bộ một vài phút mỗi lực tốt, tỷ lệ dao động từ 1,1 đến 7,4 lần [12]. ngày, miễn là sự tập luyện có thể được thực Những bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ thì hiện một cách an toàn hợp lý [14]. nguy cơ bị rối loạn dáng đi tăng gấp 3,63 lần. Người bệnh bị hạ huyết áp tư thế và tăng Rối loạn giấc ngủ bao gồm ngủ ít, dễ thức huyết áp lần lượt có nguy cơ rối loạn dáng đi giấc, khó ngủ ảnh hưởng không nhỏ đến việc cao gấp 11,6 lần và 2,56 lần so với những tiếp nhận thông tin từ môi trường và xử lý để người không có. Hạ huyết áp tư thế là một duy trì dáng đi bình thường. Việc sử dụng trong những nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao. thuốc an thần – hệ quả trực tiếp do rối loạn Nghiên cứu gộp từ 16 nghiên cứu can thiệp giấc ngủ gây ra cũng là một nguyên nhân trực thấy người hạ huyết áp tư thế có nguy cơ ngã tiếp tác động đến khả năng đi lại của người trung bình cao hơn nhóm không bị là 1,9 lần bệnh [13]. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ bệnh [12]. Bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ nhân có nhu cầu sử dụng benzodiazepam rối loạn dáng đi cao hơn 1,77 lần so với 120 TCNCYH 106 (1) - 2017
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC những người không mắc đái tháo đường và Lời cảm ơn sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các tác giả Xin chân thành cảm ơn Bệnh viện Lão khác cũng thấy đái tháo đường có liên quan khoa Trung ương đã tạo điều kiện cho chúng đến tốc độ đi bộ và chiều rộng của bước đi, do tôi thu thập số liệu đái tháo đường tác động lên các hệ thống khác nhau của cơ thể, ảnh hưởng đến chức TÀI LIỆU THAM KHẢO năng vận động thần kinh ngoại vi [15]. 1. Mary E. Tinetti, Dorothy I. Baker, Gail Nghiên cứu này cho thấy nguy cơ rối loạn McAvay (1994). A Multifactorial Intervention to dáng đi ở những người bị tai biến mạch máu Reduce the Risk of Falling among Elderly não, rối loạn tiền đình lần lượt cao gấp 17,75 People Living in the Community. Jounal of lần, 4,37 lần so với những người không có Medicine, 331, 821 - 827. bệnh lý thần kinh. Tỷ lệ rối loạn dáng đi cao 2. Dietz, V (1997). Neurophysiology of gait hơn ở nhóm có điểm MMSE thấp, chứng tỏ disorders: present and future applications. suy giảm nhận thức ảnh hưởng sâu sắc đến Electroencephalography and clinical Neuro- việc duy trì một dáng đi bình thường. Kết quả physiology, 103, 333 - 355. này phù hợp với các tác giả khác [16]. Glea- 3. Joe Verghese, Anne F Ambrose, Rich- son nhận thấy người lớn tuổi trong cộng đồng ard B Lipton, Cuiling Wang (2010). Neuro- cứ giảm một điểm MMSE thì có nguy cơ ngã logical Gait Abnormalities And Risk Of Falls In tăng thêm 20% [10]. Older Adults. Journal of Neurology, 257(3), Người cao tuổi có đặc điểm đa bệnh lý và 392 - 398. dùng nhiều loại thuốc một lúc, đó chính là yếu 4. Anke H Snijders, B.P.v.d.W., Nir Gi- tố nguy cơ gây ngã và rối loạn dáng đi. Trong ladi, Bastiaan R Bloem (2007). Neurological nghiên cứu này, mỗi người bệnh có số lượng gait disorders in elderly people: clinical ap- proach and classifi cation. Lancet Neurology. thuốc trung bình đang sử dụng là 4,74 ± 1,99 6, 63 – 74. loại thuốc. Khi số thuốc phải uống tăng lên 1 5. Jong Sam Baik, M. Anthony, E. Lang thuốc thì nguy cơ bị rối loạn dáng đi tăng lên (2007). Gait Abnormalities in Psychogenic 1,03 lần, số bệnh kèm mắc tăng thêm 1 bệnh Movement Disorders. Movement Disorders, 22 thì nguy cơ rối loạn dáng đi tăng 2,32 lần. (3), 395 - 399. Giảm sử dụng các thuốc hướng thần làm 6. Andrew S.D (2000). Gait Disorders and giảm nguy cơ bị ngã. Fall Risk: Detection and Prevention. Comp V. KẾT LUẬN Ther, 26(4), 238 – 245. 7. John G. Nutt, Bastiaan R. Bloem Các yếu tố làm tăng nguy cơ rối loạn dáng (2011). Miles tones in Gait, Balance, and Fal- đi và thăng bằng là tuổi, rối loạn giấc ngủ, ling. Movement Disorders, 26(6).. giảm thị giác, thính giác, suy giảm nhận thức, 8. Brooke Salzman, T.J (2010). Gait and teo cơ, hạ huyết áp tư thế, tăng huyết áp, tai Balance Disorders in Older Adults. American biến mạch máu não, rối loạn tiền đình, sử Family Physician, 82(1), 61 - 68. dụng nhiều thuốc, mắc nhiều bệnh phối hợp. 9. Colón-Emeric, C.S (2002). Falls in Cần có sự điều chỉnh toàn diện để phòng Older Adults: Assessment and Intervention in tránh ngã. Primary Care. JCOM, 8(3), 48 - 58. TCNCYH 106 (1) - 2017 121
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 10. Susan W. Muir, K.G., Manuel M et al Holt (2006). Gait Characteristics of Elderly (2012). The role of cognitive impairment in fall People With a History of Falls: A Dynamic Ap- risk among older adults: a systematic review proach. Physical Therapy, 86(11), 1501 - 1510. and meta-analysis. Age and Ageing, 41, 14. Moreland JD, R.J., Goldsmith CH 299 - 308. (2004). Muscle weakness and falls in older adults: a systematic review and meta-analysis. 11. Manuel Montero-Odasso, Gustavo J Am Geriatr Soc, 52(7), 1121 - 1129. Duque, Enrique R Soriano (2005). Gait dis- 15. Jennifer S Brach, J.B.T., Elsa S orders are associated with non-cardiovascular Strotmeyer et al (2008). Diabetes Mellitus falls in elderly people: a preliminary study. and Gait Dysfunction: Possible Explanatory BMC Geriatrics, 1, 5 - 15. Factors. American Physical Therapy, 88(11), 12. Laurence Z. Rubenstein, K.R.J., 1365 – 1374. Alan S. Robbins (1994). Falls in the Nursing 16. Henning Stolze, S.K (2004). Preva- Home. American College of Physicians, 121 lence of Gait Disorders in Hospitalized Neuro- (6), 442 - 451. logical Patients. Movement Disorder Society. 13. Yaron Barak, R.C.W.a., Kenneth G 20(1), 89 - 94. Summary RISK FACTORS OF GAIT DISORDERS IN ELDERLY PEOPLE The study was conducted on 290 elderly inpatients in Vietnam National Geriatric Hospital to determine gait and balance disorders risk factors in elderly inpatients. The results showed that the prevalence of gait dysfunction was increased as aging. As compared with group aged 60 - 69, the group aged 70 - 79 have gait disorder risks increased 2.15 fold and the group aged 80 - 90 in- creased 12.39 fold. No relation between gait disorders with BMI nor sex. Poor sleep, impaired vision/hearing, dementia, postural hypotension. Hypertension, stroke, polypharmacy, multicomor- bidities were related with higher risk of gait and balance disorders with OR 5.51, 3.46, 3.63, 6.28; 11.6; 2.56; 17.75. That means gait disorder risk factor in older inpatients were age, poor sleep impaired vision/hearing, dementia, postural hypotension, hypertension, stroke, polypharmacy, multicomorbidities. Health care professional should pay attention on prevention risk factors as soon as patients admission to hospital. Key words: Gait Disorders, older people, falls 122 TCNCYH 106 (1) - 2017