Luận văn Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội và biện pháp phòng trị

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu, chó được con người thuần hóa và coi như là người bạn gần
gũi, thân thiện. Chó dễ nuôi, trung thành với chủ, các giác quan rất phát
triển, thông minh, nhanh nhẹn và có tính thích nghi cao với điều kiện sống
khác nhau. Do vậy, chó được nuôi phổ biến ở khắp nơi trên thế giới, phục
vụ các mục đích khác nhau. Những năm gần đây, nền kinh tế ngày càng
phát triển, đời sống dân trí được nâng cao và cải thiện, do vậy việc nuôi
chó để giữ nhà, làm cảnh và làm kinh tế được quan tâm chú ý trong nhiều
gia đình người dân Hà Nội. Nhiều giống chó ngoại quý hiếm được nhập
làm phong phú thêm về số lượng và chủng loại chó ở nước ta. Song chó là
loài động vật rất mẫn cảm với các tác nhân gây bệnh. Bệnh truyền nhiễm
do vi khuẩn, vi rút và bệnh do ký sinh trùng đã và đang làm chết nhiều chó
ở Hà Nội, gây thiệt hại kinh tế cho nhiều hộ chăn nuôi, đặc biệt là các hộ
chăn nuôi những giống chó quý hiếm.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm,
mưa nhiều, có điều kiện thuận lợi cho giun sán phát triển quanh năm. Bệnh giun,
sán là một trong những bệnh ký sinh trùng phổ biến nhất ở chó. Một số tác giả
đó nghiên cứu về bệnh do ký sinh trùng gây nên ở chó như: Phạm Sĩ Lăng
(1985) [10], Ngô Huyền Thuý (1996) [34]. Cho tới nay, các nhà khoa học nước
ta đã xác định được 26 loài giun, sán ký sinh ở chó, trong đó có 16 loài giun tròn.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về bệnh của chó chưa được quan tâm đúng mức,
đặc biệt là bệnh do ký sinh trùng gây nên, trong đó có nhiều loài giun tròn ký
sinh ở đường tiêu hoá gây tác hại lớn đối với chó. Giun ký sinh lấy chất dinh
dưỡng, hút máu, tiết độc tố và chất chống đông máu. Bệnh âm ỉ, kéo dài làm
vật chủ mất máu suy dinh dưỡng, gầy yếu, rối loạn tiêu hoá, giảm sức đề
kháng. Từ đó, các vi khuẩn trong đường ruột có cơ hội trỗi dậy gây hội chứng
tiêu chảy nặng hơn và làm chết chó nếu không được điều trị kịp thời.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài:
“ Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hoá của chó nuôi ở
Hà Nội và biện pháp phòng trị”. 
pdf 98 trang thiennv 10/11/2022 1620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội và biện pháp phòng trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nghien_cuu_tinh_hinh_nhiem_giun_tron_duong_tieu_hoa.pdf

Nội dung text: Luận văn Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa của chó nuôi ở Hà Nội và biện pháp phòng trị

  1. 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 1.1.1. Vị trí của giun trong đƣờng tiêu hoá chó trong hệ thống phân loại động vật học Trong khu hệ giun trong đường tiêu hoá của chó, theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17], các loài giun tròn ký sinh ở chó Việt Nam được phân loại như sau: Ngành Nemathelminthes, Huxley, 1856 Lớp Nematoda Rudolphi, 1808 Phân lớp: Enoplia Chitwood, 1933 Bộ Trichocephalida Skrjabin và Schulz, 1928 Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz, 1928 Họ Trichocephalidae Baird, 1953 Phân họ Trichocephalinae Ransom, 1911 Giống Trichocephalus Schrank, 1788 Loài Trichocephalus vulpis (Froelich, 1789) (ký sinh ở manh tràng chó) Phân lớp Rhabditia Pearse, 1942 Bộ Strongylida Railliet et Henry, 1913 Họ Ancylostomatidae Looss, 1905 Phân họ Ancylostomatinae Looss, 1911 Giống Ancylostoma Dubini, 1893 Loài Ancylostoma caninum (Ercolani, 1859) Loài Ancylostoma braziliense Faria, 1910 (ký sinh ở ruột non chó) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  2. 4 Phân họ: Bunostomatinae Looss, 1911 Giống Uncinaria Froelich, 1789 Loài Uncinaria stenocephala Railliet, 1884 (ký sinh ở ruột non chó) Bộ Ascaridida Skrjabin và Schulz, 1940 Phân bộ Ascaridina Skrjabin, 1915 Họ Ascaridae Baird, 1853 Giống Toxascaris Leiper, 1907 Loài Toxascaris leonina (Linstow, 1902) Leiper, 1907 ( ký sinh ở dạ dày, ruột chó) Họ Anisakidae Skrjabin và Karokhin, 1945 Giống Toxocara Stiles, 1905 Loài Toxocara canis (werner, 1782) (ký sinh ở dạ dày, ruột non chó) Bộ Spirurida Chitwood, 1933 Phân bộ Spirurina Railliet, 1914 Liên họ Spiruroidea Railliet et Henry, 1915 Họ Spiruridae Oerley, 1885 Giống Spirocerca Railliet et Henry, 1911 Loài Spirocerca lupi (Rudolphi,1809) (ký sinh ở dạ dày, u thành thực quản của chó) Bộ Rhabditida Chitwood, 1933 Phân bộ Rhabditina Chitwood, 1933 Họ Strongyloididae Chitwood et Mcinstosh, 1934 Giống Strongyloides Grassi, 1879 Loài Strongyloides canis Brumpt, 1922 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  3. 5 1.1.2. Đặc điểm sinh học của một số loài giun tròn ký sinh ở đƣờng tiêu hoá chó 1.1.2.1. Đặc điểm hình thái, cấu tạo - Loài Ancylostoma caninum (Ercolani, 1859) Là loài giun tròn nhỏ, thân hình sợi chỉ, màu vàng nhạt, đoạn trước cong về phía lưng, bao miệng mỗi bên có 2 răng 3 chạc lớn, cong vào phía trong, miệng hình bầu dục. Con đực dài 9 - 12 mm, đuôi có túi kitin, 2 gai giao hợp bằng nhau dài 0,74- 0,87 mm, bánh lái dài 0,13 - 0,21 mm. Con cái dài 10 - 21 mm, đuôi có gai nhọn, âm hộ nằm 1/3 phía sau của thân. Trứng hình bầu dục dài 0,06 - 0,066 mm, rộng 0,037- 0,042 mm. Trứng có nhiều nhân, vỏ trong suốt. - Loài Ancylostoma braziliense (Faria, 1910) Giun nhỏ hơn Ancylostoma caninum, cơ thể hình trụ, thon nhỏ 2 đầu. Con đực dài 6,6 - 8,1 mm, rộng 0,278 - 0,354 mm. Lớp biểu bì dày, có vân ngang, đầu hơi cong về mặt bụng, nang miệng hình cầu, có một đôi răng không phân nhánh. Thực quản dài 0,62 - 0,69 mm. Túi sinh dục phát triển, các nhóm sườn đều chung một gốc, sau đó mới phân tách. Gai sinh dục bằng nhau, dài 1,05-1,30 mm, phần cuối thon nhỏ dần. Con cái dài 7,3 - 9,6 mm, đầu cong về mặt bụng. Âm hộ cách mút đuôi 2,65-3,04 mm. Đuôi hình nón, mút đuôi có gai nhọn, dài 0,005 mm. Trứng hình ô van, kích thước 0,040 - 0,30 mm. - Loài Toxocara canis (werner 1782) Loài Toxocara canis là loài giun tròn có kích thước khá lớn, màu vàng nhạt, đầu hơi cong về phía bụng, miệng có 3 môi bao quanh, trên mỗi môi đều Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  4. 6 có răng nhỏ, thực quản hình trụ, đặc biệt giữa thực quản và ruột có đoạn phình to tạo thành “dạ dày giả” của giun. Con đực dài 50 - 90 mm, đầu có cánh dài, hẹp, hơi giống mũi giáo có 2 gai giao cấu bằng nhau dài 0,75 - 0,95 mm. Con cái dài 90 - 170 mm, đuôi thẳng. Giun cái đẻ trứng. Lỗ sinh dục cái ở khoảng 1/4 phía trước thân, trứng gần như tròn, đường kính 0,068- 0,075 mm, trên vỏ trứng có những nếp nhăn nhỏ mịn. - Loài Toxascaris leonina (Linstow, 1902). Loài Toxascaris leonina màu vàng nhạt, đầu có 3 môi, thực quản hình trụ, không có đoạn phình to như loài Toxocara canis. Giun đực dài 20 - 70 mm, 2 gai giao hợp dài gần bằng nhau, không có bánh lái. Giun cái dài 60 - 80 mm, lỗ sinh dục cái ở phía trước thân, tử cung chia làm 2 nhánh, trứng gần như tròn, vỏ trứng dày, bằng phẳng, nhẵn, đường kính từ 0,075 - 0,085 mm - Loài Trichocephalus vulpis (Froelich, 1989). Giun có kích thước lớn, con đực dài 45-75 mm, thực quản chiếm 3/4 chiều dài cơ thể. Đuôi giun đực thường cuộn tròn về phía trong, mang một gai giao hợp rất dài (8,31- 11,1 mm). Con cái dài 62 -75 mm, thực quản dài 42 -56,3 mm, âm hộ nằm về phía sau của đoạn cuối thực quản. Trứng có hình cái thùng, có nắp ở hai đầu, dài 0,083 - 0,93 mm và rộng 0,037- 0,40 mm. - Loài Uncinaria stenocephala (Railiet,1884). Giun có màu vàng nhạt, hai đầu hơi nhọn, túi miệng hình phễu, có các mảnh kitin sắc, mặt trong của túi miệng có 2 đôi răng hình bán nguyệt đối xứng. Thực quản dài 0,75 - 0,88mm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  5. 7 Giun đực dài 6 - 11 mm, túi đuôi rất phát triển, 2 gai giao hợp dài bằng nhau 0,65- 0,75 mm, đầu mút của gai rất nhọn, không có bánh lái. Giun cái dài 9 - 16 mm, lỗ sinh dục ở vào 1/3 phía trước cơ thể. Trứng hình bầu dục, có kích thước 0,078 - 0.083 x 0,052 - 0,059 mm. - Loài Spirocerca lupi (Rudolphi, 1809) Giun trưởng thành ký sinh ở thực quản, thành dạ dày, đôi khi còn thấy ở động mạch chủ. Giun có màu đỏ, miệng hình 6 cạnh, không có môi, thực quản hẹp, phần trước là cổ ngắn, ở gai cố có vòng thần kinh. Con đực dài 30-54 mm, hai gai giao hợp không bằng nhau, đuôi xoắn, có cánh đuôi, 4 đôi gai nhỏ phía trước hậu môn, một gai lớn trước huyệt Con cái dài 54 - 80 mm, âm hộ nằm phía trước thân, gần cuối thực quản. Trứng rất nhỏ, hình elíp 0,035 - 0,039 x 0,014 - 0,023mm, trứng có chứa ấu trùng. 1.1.2.2. Đặc điểm vòng đời sinh học - Loài Ancylostoma caninum (Ercolani, 1859) Giun trưởng thành sống ở niêm mạc ruột non của ký chủ, tập chung chủ yếu ở tá tràng, không tràng và kết tràng. Giun cái mỗi ngày đẻ ra 10.000 - 15.000 trứng. Trứng mới bài xuất ra ngoài có từ 2-8 tế bào nhân, ấu trùng phát triển thành ẩu trùng cảm nhiễm nếu gặp điều kiện thuận lợi. Ấu trùng không phát triển tới giai đoạn cảm nhiễm ở nhiệt độ dưới 17 0c. Ấu trùng giun móc phát triển qua 3 giai đoạn để trở thành ấu trùng cảm nhiễm. Foster Cont (1935) đã nghiên cứu thấy nếu ở điều kiện nhiệt độ từ 20 -300 C và độ ẩm thích hợp, PH trung tính, trứng sẽ nở thành ấu trùng sau 24- 48 giờ và trở thành ấu trùng cảm nhiễm sau 6 - 7 ngày. Ấu trùng gây nhiễm dài 0,59 - 0,69 mm, có màng bọc bên ngoài và chứa 30 - 34 tế bào ruột. Ấu trùng có hướng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  6. 8 động đặc biệt là luôn tìm đến vị trí cao và nơi ẩm ướt, nhiệt độ thích hợp và hướng đến vật chủ gần chúng. Ấu trùng tuy cần độ ẩm nhưng không phát triển trong nước mặn, khi bị khô, ấu trùng sẽ chết nhanh trong 24 giờ. Do vậy việc lan truyền bệnh bị hạn chế trong mùa khô. Theo Swensson (1925), khi nhiệt độ của đất tăng lên, ấu trùng di chuyển tới chỗ lồi lõm của đất và tụ lại từng đám ở những chỗ râm mát và có độ ẩm thích hợp. Từ chỗ ban đầu, ấu trùng di chuyển trong phạm vi 10-20 cm. Trong khi di chuyển, ấu trùng có khuynh hướng leo lên cao, có thể tới 2 m. Ấu trùng ít chui xuống đất, nhưng nếu ở đất cát, ấu trùng có thể chui xuống sâu 1 m, đất mùn chui xuống sâu 30cm, đất sét chui sâu 15 cm. Nói chung, từ điểm di chuyển ban đầu, ấu trùng thường di chuyển ở bề mặt của đất. Thời gian sống của ấu trùng thay đổi tuỳ thuộc điều kiện của môi trường, ấu trùng có thể tồn tại ngoài tự nhiên từ vài tuần tới 1 tháng. Nhưng nếu trong điều kiện ẩm ướt, nhiệt độ từ 15-300C ấu trùng có thể tồn tại được 18 tháng. Theo Đỗ Dương Thái [23], ấu trùng gây nhiễm dài 0,59-0,69 mm có màng bọc bên ngoài và chứa 30-34 tế bào ruột, ấu trùng có hướng động đặc biệt là tìm đến vật chủ gần chúng và đến vị trí cao nhất. Sự phát triển tiếp theo của ấu trùng Ancylostoma caninum tiến hành trên cơ thể ký chủ và cảm nhiễm vào ký chủ theo 2 con đường: - Qua đường tiêu hoá: ấu trùng được ký chủ nuốt vào đường tiêu hoá qua thức ăn, nước uống. Vào ruột, ấu trùng lột xác và sau một thời gian di hành thì phát triển thành giun trưởng thành. - Qua da: ấu trùng cảm nhiễm xâm nhập qua da vào hệ thống tuần hoàn đến tim, phổi, xuyên qua phế nang vào phế quản. Khi vật chủ ho, ấu trùng lên hầu và được nuốt xuống đường tiêu hoá, từ đó phát triển thành giun trưởng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  7. 9 thành và ký sinh ở ruột non. Thời gian phát triển đến giai đoạn trưởng thành từ 14-16 ngày. Giun trưởng thành có thể sống trong cơ thể ký chủ từ 43- 100 tuần. Theo Petrov A.M và Skrjabin K.I (1979)[21], cảm nhiễm ấu trùng Ancylostoma caninum ở chó con nặng hơn chó trưởng thành. Tuy nhiên, khi ấu trùng chui qua da chó con ít gây phản ứng. Trong khi đó, ấu trùng chui qua da chó trưởng thành gây phản ứng viêm rõ rệt, hiện tượng này được xác nhận: ấu trùng bị chết và bị giữ lại ở da chó trưởng thành, tạo ra xung quanh nó sự thâm nhiễm tế bào. Trịnh Văn Thịnh (1963)[25] cho biết: ấu trùng giun móc khi chui qua da làm cho con vật bị ngứa và viêm da, ấu trùng còn gây tổn thương ở phổi. Giun trưởng thành hút nhiều máu, răng 6 móc được cấu tạo bằng chất kitin cắm sâu vào niêm mạc ruột gây tổn thươmg niêm mạc, đồng thời giun còn tiết chất kháng đông máu, giúp giun móc dễ hút máu. Độc tố và sản vật của giun làm hồng cầu giảm, bạch cầu toan tính tăng. - Loài Ancylostoma braziliense (Faria, 1910) Giun trưởng thành ký sinh ở ruột non, giun cái đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài. Ở môi trường bên ngoài, sau 20 giờ tới một vài ngày, nếu gặp điều kiện thuận lợi, phôi bào trong trứng phát triển tới dạng ấu trùng. Ấu trùng thoát ra khỏi trứng, qua 2 lần lột xác thành ấu trùng cảm nhiễm và xâm nhập vào ký chủ theo 2 con đường: + Qua thức ăn, nước uống vào đường tiêu hoá, ấu trùng chui vào thành ruột, dạ dày. Ở đó vài ngày rồi về ruột non phát triển đến giai đoạn trưởng thành. + Qua da: ấu trùng gây nhiễm qua da ký chủ về hệ thống tuần hoàn, về tim, lên phổi, qua phế bào đến khí quản rồi về ruột non phát triển tới giai đoạn trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 14-20 ngày. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  8. 10 - Loài Uncinaria stenocephala (Railiet,1884) Các loài giun tròn thuộc họ Ancylostomatidae đều phát triển trực tiếp. Giun trưởng thành đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài. Trứng và ấu trùng có sức đề kháng với ngoại cảnh. Cũng như Ancylostoma caninum, ấu trùng Uncinaria stenocephala qua 3 lần lột xác phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm, ấu trùng có thể đi xa và có thể gây bệnh. Chó bị nhiễm qua 2 con đường: + Qua miệng: ấu trùng gây nhiễm theo thức ăn nước uống vào cơ thể gây bệnh cho ký chủ. Fulleborn (1920-1927) thấy rằng: ấu trùng cảm nhiễm vào ruột ký chủ, phát triển ở tầng dưới của nhung mao và trong tuyến nhày Lieberkul, sau đó chúng quay lại nhung mao của ruột non. Kolevatova AL. (1957) đã chứng minh bằng thực nghiêm khi gây nhiễm ấu trùng Uncinaria stenocephala qua miệng, sau 24 giờ đã thấy có trong niêm mạc dạ dày và tá tràng của chó. Sau thời gian ngắn ở niêm mạc, những ấu trùng này lại chui vào ruột, lột xác trở thành ấu trùng giai đoạn 4 và đạt tới giai đoạn trưởng thành sau 13- 20 ngày. + Qua da: khi nghiên cứu cảm nhiễm qua da, Kolevatova A.L (1957) đã xác định ấu trùng cảm nhiễm chui qua da chỉ sau 6 phút, sau 40 phút tất cả đã chuyển vào hệ thống tuần hoàn của chó. Theo tác giả, khi nhiễm qua da, con đường di chuyển bình thường theo hệ thống tuần hoàn của chó, nhiều nhất trong 2 ngày đầu. Sự phát triển của Uncinaria stenocephala khi nhiễm qua da lâu hơn nhiễm qua miệng từ 2- 4 ngày. Thời gian hoàn thành vòng đời 14- 20 ngày. - Loài Toxocara canis (werner 1782) Giun cái trưởng thành ký sinh ở dạ dày, ruột non, đẻ trứng. Trứng giun được thải ra môi trường theo phân, gặp điều kiện ngoại cảnh thích hợp (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng), trứng phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm, ấu trùng vẫn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  9. 11 nằm trong vỏ trứng. Khi xâm nhập vào đường tiêu hoá của chó qua thức ăn, nước uống. Ấu trùng cảm nhiễm phá vỡ vỏ và chui ra bắt đầu quá trình di hành trong cơ thể ký chủ. Ấu trùng xuyên qua niêm mạc ruột, vào máu, theo hệ thống tuần hoàn đến gan, về tim, lên phổi vào khí quản, lên miệng rồi trở lại ruột non, tiếp tục phát triển ở niêm mạc ruột non và trở thành giun trưởng thành gây bệnh cho chó. Một số ấu trùng sau khi vào phổi tiếp tục theo hệ thống tuần hoàn về các tổ chức cư trú làm thành kén nhưng vẫn có khả năng gây nhiễm nếu các đông vật cảm nhiễm khác ăn phải. Ấu trùng còn qua hệ tuần hoàn của chó mẹ khi có chửa và nhiễm vào bào thai. Ở bào thai ấu trùng cư trú chủ yếu ở gan và phổi. Do vậy chó con sau khi được sinh ra đã mang mầm bệnh, đến 14 ngày tuổi đã gây bệnh cho chó con và khi 30 ngày tuổi đã thành giun trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 26-28 ngày (Skrjabin và cs, 1973) [20]. - Loài Toxascaris leonina (Linstow, 1902) Giun cái trưởng thành ký sinh ở ruột non của chó, đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng thích hợp sẽ phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm, ấu trùng vẫn nằm trong trứng. Khi chó nuốt phải ấu trùng vào ruột, ấu trùng phá vỡ vỏ chui vào niêm mạc ruột, qua tĩnh mạch cửa rồi vào gan, đi qua tâm nhĩ phải, xuống tâm thất phải, qua động mạch phổi vào phổi, vào phế nang, lên yết hầu, xuống thực quản rồi trở về ruột non. Ở đây tiếp tục phát triển qua 3 lần lột xác nữa để trở thành giun trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 55-72 ngày (Skrjabin và cs, 1963) [20]. - Loài Trichocephalus vulpis (Froelich, 1989) Giun cái đẻ trứng trong ruột già ký chủ, trứng của Trichocephalus vulpis theo phân ra ngoài ở giai đoạn tiền phân, trong điều kiện thuận lợi về ngoại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  10. 12 cảnh như nhiệt độ và độ ẩm, ấu trùng phát triển trong trứng, sau 25 -26 ngày trở thành trứng có khả năng cảm nhiễm. Chó ăn phải trứng cảm nhiễm cùng với thức ăn và nước uống, ấu trùng nở ra sẽ chui sâu vào niêm mạc ruột già và tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành. Thời gian phát triển của Trichocephalus vulpis đến giai đoạn trưởng thành trong cơ thể chó khoảng 30 - 107 ngày (Skrjabin và cs, 1963) [20]. - Loài Spirocerca lupi (Rudolphi, 1809) Giun trưởng thành ký sinh trong các u, kén ở dạ dày và thực quản của chó, đẻ trứng, trong có ấu trùng. Trứng giun theo các lỗ dò ở kén, đi vào xoang thực quản hoặc dạ dày, theo phân ra môi trường bên ngoài, được vật chủ trung gian là bọ hung ăn vào. Trong đường tiêu hoá của bọ hung, ấu trùng nở ra khỏi trứng, vào xoang đại thể và biến đổi thành ấu trùng kỳ II. Ấu trùng tiếp tục phát triển thành ấu trùng kỳ III có khả năng gây nhiễm. Ký chủ dự trữ ăn phải ký chủ trung gian, ấu trùng kỳ III được giải phóng, ấu trùng sẽ tạo thành kén ở một vài cơ quan tổ chức. Khi chó ăn phải ký chủ dự trữ, ấu trùng được giải phóng khỏi đường tiêu hoá của ký chủ dự trữ, chúng xuyên qua thành dạ dày, di hành trong hệ tuần hoàn, đến động mạch chủ, ở đó khoảng 3 tuần. Sau 10-12 tuần, ấu trùng di hành đến thực quản, tạo thành kén và phát triển đến dạng trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 5 - 6 tháng. 1.1.3. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun tròn đƣờng tiêu hoá của chó Nghiên cứu dịch tễ học cho ta cơ sở phòng trị bệnh ký sinh trùng có hiệu quả. Sự phát triển của ký sinh trùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Ở nước ta việc điều tra dịch tễ bệnh do giun tròn gây ra ở chó đã được các tác giả như Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1963), Đỗ Hài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  11. 13 (1972), Phạm Sĩ Lăng (1985), Phạm Văn Khuê (1993), Phan Lục, Đào Hữu Thanh, Đoàn văn Phúc, Ngô Huyền Thuý (1996) đề cập đến. 1.1.3.1. Động vật cảm nhiễm Chó và hầu hết các loài thú ăn thịt họ chó (Canidae) đều nhiễm một số loài giun tròn (Nematoda) như: giun đũa (Toxocara canis, Toxascaris leonina), giun móc (Ancylostoma caninum, Uncinaria stenocephala), giun tóc Trichocephalus vulpis. Theo Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1977), chó ở Việt Nam nhiễm 16 loài giun tròn. Hầu hết các tác giả trong và ngoài nước đều thấy rằng: chó cũng như thú ăn thịt khác bị nhiễm giun nặng ở giai đoạn còn non và nhẹ hơn ở giai đoạn trưởng thành (Trịnh Văn Thịnh, 1963)[25], Đoàn Văn Phúc, Phạm Văn Khuê, 1993[6]. 1.1.3.2. Tuổi cảm nhiễm Qua nghiên cứu của nhiều tác giả, hầu hết các tài liệu cho thấy: chó nhiễm giun đũa chủ yếu ở giai đoạn tuổi còn non chiếm 60%, và nhiễm nặng hơn chó trưởng thành. Petrov A.M (1963) cho biết: chó con 80-90 ngày tuổi mới thấy nhiễm giun đũa Toxascaris leonina, chó 2 tháng tuổi nhiễm nặng giun đũa Toxocara canis. Thậm chí chó 15-21 ngày tuổi đã thấy nhiễm Toxocara canis do vòng đời phát triển của loại này qua bào thai. William và Menning (1978) điều tra sự nhiễm Toxocara canis ở các lứa tuổi khác nhau của chó, tác giả cho biết: chó dưới 1 năm tuổi tỷ lệ nhiễm 45%, trên 1 năm tuổi (20%). Chó con nhiễm giun nặng (đáng chó ý là giun đũa, giun móc) vì cơ thể chó non sức đề kháng yếu với mầm bệnh, dễ mẫn cảm với các loài giun. Mặt khác một số loài (giun đũa, móc) truyền cho chó non ngay từ khi còn trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  12. 14 bụng mẹ (qua bào thai). Foster và Cross (1954) quan sát thấy rằng, ấu trùng giun móc theo máu vào bào thai và cư trú ở phổi bào thai, sau khi chó con ra đời, ấu trùng bắt đầu hoạt động và quay về đường tiêu hoá và phát triển thành giun trưởng thành. Do vậy, chó con chưa đầy 1 tháng tuổi đã nhiễm giun móc, giun đũa. Chó trưởng thành nhiễm ít hơn, do có sức đề kháng với ký sinh trùng. Mặt khác, tuổi thọ của ký sinh trùng có hạn. Kolevatova (1959) cho biết: nếu chó có miễn dịch với giun móc thì nó có khả năng tống phần lớn giun này ra khỏi cơ thể. Skrjabin và Petrov (1977)[20] cho biết: ở chó lớn, bệnh do Toxocara canis ít thấy hơn so với chó non, điều đó nói lên rằng: chó trưởng thành có sức đề kháng (miễn dịch) đối với bệnh do Toxocara canis. Theo Phan Địch Lân, Phạm Sĩ Lăng, Đoàn Văn Phúc (1989) [16], kết quả kiểm tra 96 chó con từ 1-3 tháng tuổi tại Hà Nội, tẩy giun cho chó bằng thuốc Piperazin và Levamisol, kết hợp kiểm tra phân, cho biết: 82 chó nhiễm giun Toxascaris leonina, tỷ lệ 85,41%, tác giả cho biết, chó con bị nhiễm Toxascaris leonina với tỷ lệ rất cao và thường bị bệnh nặng hơn chó trưởng thành Theo Petrov A.M (1963), chó con 80 - 90 ngày tuổi, kiểm tra phân mới bắt đầu thấy trứng của Toxascaris leonia, bệnh thường xảy ra nhiều từ tháng thứ 7 - 8. Chó trưởng thành 2- 3 tuổi ít thấy nhiễm và 4 tuổi trở lên thì chỉ gặp trong những trường hợp đặc biệt. Phạm Văn Khuê và cs, (1993)[6] cho biết: chó con từ 1-3 tháng tuổi đã thấy nhiễm 5 loài giun, một số loài như: giun đũa, giun móc tỷ lệ nhiễm cao, Toxocara canis 57,1%, chó 7-12 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm Toxocara canis (14,8%), chó trên 12 tháng tuổi không nhiễm loại này. Tỷ lệ nhiễm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  13. 15 Ancylostoma caninum là 68,8%, Uncinaria stenocephala (80%). Đó là những nguyên nhân gây cho chó rối loạn tiêu hoá, còi cọc, chậm lớn Ngược lại, một số loài giun tỷ lệ nhiễm tăng dần theo tuổi chó như giun thực quản (Spirocerca lupi, giun tóc Trichocerphalus vulpis) Phạm Sĩ Lăng (1985)[10]. Skrjabin và Petrov (1963) cho thấy: chó mắc bệnh sớm nhất vào tuần tuổi thứ năm, chó trưởng thành mắc bệnh nhẹ hơn chó non. Chó trưởng thành được nuôi dưỡng tốt, có sức đề kháng cao với giun đũa Toxocara canis. Người ta đã làm thực nghiệm gây nhiễm 15.000 trứng giun có sức gây bệnh cho 3 chó hai năm tuổi, cả ba chó đều không bị bệnh khi nuôi dưỡng tốt. Nhưng chó bị mắc bệnh ngay sau khi giảm tiêu chuẩn vitamin A trong thức ăn. Chó và các loài thú ăn thịt trưởng thành khác ít bị nhiễm Toxocara canis, điều này chứng tỏ rằng: chó trưởng thành có sức đề kháng với bệnh và được duy trì khi được nuôi dưỡng và chăm sóc tốt. Phạm Sĩ Lăng(1985)[10] cho biết: chó Nhật, Becger, Tây Ban Nha, Fok từ 1-3 tháng tuổi nhiễm giun móc 62,1%; 3-6 tháng tuổi (90,7%), Toxocara canis là 14,6%, Toxascaris leonina là 85,4%. Tỷ lệ nhiễm của chó con còn phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng chăm sóc, điều kiện môi trường bị ô nhiễm, mất vệ sinh, ẩm thấp thì tỷ lệ nhiễm giun đũa ở chó cao, có thể từ 30 - 60 %. Qua kết quả nghiên cứu thực tế của các tác giả, tỷ lệ nhiễm giun tròn đường tiêu hoá qua các lứa tuổi ở chó khác nhau. 1.1.3.3. Mùa vụ Phan Địch Lân, Phạm Sĩ Lăng, Đoàn Văn Phúc (1989)[16] cho biết: chó con từ 1-3 tháng tuổi bị nhiễm bệnh hầu hết các tháng trong năm. Chó con, ngoài con đường lây nhiễm trực tiếp (do ăn phải trứng giun cảm nhiễm), còn bị lây nhiễm ấu trùng từ lúc còn trong bào thai thông qua máu của con mẹ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên