Kiến thức, thái độ và thực hành của người dân 4 phường, thành phố Đà Nẵng về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm

Sân bay Đà Nẵng cùng với một số sân bay và khu căn cứ quân sự cũ của Mỹ là nơi diễn ra hoạt động chứa, pha, nạp rửa… chất Da cam và các chất làm trụi lá khác (chứa tạp chất dioxin) trong chiến dịch Ranch Hand 1962-1971. Người dân sống gần sân bay Đà Nẵng và các điểm nóng nhiễm dioxin khác đều có nguy cơ phơi nhiễm với dioxin trong môi trường đất, nước, trầm tích, không khí và thực phẩm [4,5,8,9]. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy các mẫu đất, bùn, một số loại thực phẩm địa phương, các mẫu máu và sữa mẹ của người dân tại khu vực gần sân bay Đà Nẵng có hàm lượng dioxin cao hơn các tiêu chuẩn hay hướng dẫn hiện hành về dioxin trên thế giới [6]. Sau khi mô hình can thiệp Y tế công cộng (YTCC) triển khai ở điểm nóng sân bay Biên Hoà trong giai đoạn 2007-2009 đạt được những thành công bước đầu trong việc giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm với dioxin trong thực phẩm cho người dân địa phương[7], Hội YTCC Việt Nam đã nhận được hỗ trợ tài chính từ Quỹ Ford để mở rộng mô hình can thiệp này ra điểm nóng nhiễm dioxin ở Sân bay Đà Nẵng. Năm 2009, trước khi xây dựng và triển khai chương trình can thiệp, một nghiên cứu mô tả cắt ngang đã được thực hiện với mục tiêu tìm hiểu kiến thức, thái độ và thực hành về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm của 400 người dân sống tại 4 phường được cho là bị tác động lớn nhất của ô nhiễm dioxin ở thành phố Đà Nẵng. Số liệu được nhập bằng phần mềm Epi-data 3.1 và phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS 17. Kết quả của điều tra KAP cho thấy mặc dù sống ở khu vực điểm nóng về ô nhiễm dioxin nhưng kiến thức về dioxin và các giải pháp thực hành dự phòng phơi nhiễm của người dân trước can thiệp còn rất hạn chế. Một chương trình can thiệp nhằm giảm nguy cơ phơi nhiễm dioxin cho người dân tại bốn phường gần sân bay Đà Nẵng là thực sự cần thiết. Kết quả của nghiên cứu này đã được Hội YTCC Việt Nam chia sẻ tại Hội thảo xây dựng kế hoạch can thiệp chi tiết với sự tham gia của các ban ngành liên quan tại địa phương vào tháng 5 năm 2010.

Kiến thức, thái độ và thực hành của người dân 4 phường, thành phố Đà Nẵng về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm

pdf 8 trang Bích Huyền 01/04/2025 260
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thái độ và thực hành của người dân 4 phường, thành phố Đà Nẵng về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thai_do_va_thuc_hanh_cua_nguoi_dan_4_phuong_thanh.pdf

Nội dung text: Kiến thức, thái độ và thực hành của người dân 4 phường, thành phố Đà Nẵng về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm

  1. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Kiến thức, thái độ và thực hành của người dân 4 phường, thành phố Đà Nẵng về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm Lê Vũ Anh(*), Trần Thị Tuyết Hạnh(*), Nguyễn Ngọc Bích(*), Nguyễn Thanh Hà(*), Nguyễn Đức Minh(**,) Nguyễn Kim Ngân(***) Sân bay Đà Nẵng cùng với một số sân bay và khu căn cứ quân sự cũ của Mỹ là nơi diễn ra hoạt động chứa, pha, nạp rửa chất Da cam và các chất làm trụi lá khác (chứa tạp chất dioxin) trong chiến dịch Ranch Hand 1962-1971. Người dân sống gần sân bay Đà Nẵng và các điểm nóng nhiễm dioxin khác đều có nguy cơ phơi nhiễm với dioxin trong môi trường đất, nước, trầm tích, không khí và thực phẩm [4,5,8,9]. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy các mẫu đất, bùn, một số loại thực phẩm địa phương, các mẫu máu và sữa mẹ của người dân tại khu vực gần sân bay Đà Nẵng có hàm lượng dioxin cao hơn các tiêu chuẩn hay hướng dẫn hiện hành về dioxin trên thế giới [6]. Sau khi mô hình can thiệp Y tế công cộng (YTCC) triển khai ở điểm nóng sân bay Biên Hoà trong giai đoạn 2007-2009 đạt được những thành công bước đầu trong việc giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm với dioxin trong thực phẩm cho người dân địa phương[7], Hội YTCC Việt Nam đã nhận được hỗ trợ tài chính từ Quỹ Ford để mở rộng mô hình can thiệp này ra điểm nóng nhiễm dioxin ở Sân bay Đà Nẵng. Năm 2009, trước khi xây dựng và triển khai chương trình can thiệp, một nghiên cứu mô tả cắt ngang đã được thực hiện với mục tiêu tìm hiểu kiến thức, thái độ và thực hành về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm của 400 người dân sống tại 4 phường được cho là bị tác động lớn nhất của ô nhiễm dioxin ở thành phố Đà Nẵng. Số liệu được nhập bằng phần mềm Epi-data 3.1 và phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS 17. Kết quả của điều tra KAP cho thấy mặc dù sống ở khu vực điểm nóng về ô nhiễm dioxin nhưng kiến thức về dioxin và các giải pháp thực hành dự phòng phơi nhiễm của người dân trước can thiệp còn rất hạn chế. Một chương trình can thiệp nhằm giảm nguy cơ phơi nhiễm dioxin cho người dân tại bốn phường gần sân bay Đà Nẵng là thực sự cần thiết. Kết quả của nghiên cứu này đã được Hội YTCC Việt Nam chia sẻ tại Hội thảo xây dựng kế hoạch can thiệp chi tiết với sự tham gia của các ban ngành liên quan tại địa phương vào tháng 5 năm 2010. Từ khóa: Ô nhiễm Dioxin, sân bay Đà Nẵng, thực phẩm nhiễm dioxin, dự phòng nhiễm dioxin, KAP, kiến thức - thái độ - thực hành Knowledge, attitudes and practices of local residents in four wards, Da Nang city - Viet Nam on preventing dioxin exposure through foods Le Vu Anh (*), Tran Thi Tuyet Hanh (*), Nguyen Ngoc Bich(*), Nguyen Thanh Ha (*), Nguyen Duc Minh (**), Nguyen Kim Ngan (***) 50 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20)
  2. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Da Nang Airbase served as a bulk storage and supply facility for Agent Orange and other herbicides during the Operation Ranch Hand 1962-1971. Local people living in the vicinities of the Da Nang Airbase as well as in other dioxin hot spots in Viet Nam have probably been facing with a high risk of exposing to dioxin in soil, water, mud, air and particularly through consuming local contaminated foods [4,5,8,9]. A recent study showed that samples of soil, mud, some local foods, blood, and breast milk had dioxin concentrations exceeded current environmental standards [6]. Continued with the success of the public health intervention program implemented in Bien Hoa dioxin hot spot in the period between 2007-2009 in reducing the risk of dioxin exposure through food for residents [7], the Vietnam Public Health Association (VPHA) has received funding support from the Ford Foundation in Viet Nam to expand this intervention model to four wards in the vicinities of the Da Nang Airbase. In 2009, before developing and implementing this intervention program, a cross sectional survey on knowledge, attitudes and practices (KAP) was undertaken aiming at assessing the KAP of householders on dioxin and measures to prevent dioxin exposure through consuming contaminated foods. A sample of 400 households was randomly selected from the list of local households in four most affected wards in Da Nang using the systematic random sampling scheme. 400 food handlers from selected households, aged 16-60 were interviewed. Data was entered using Epi-data 3.1, and analyzed using SPSS 17.0 software. The results show that although living in a severe dioxin hot spot, the knowledge and practices of local residents on dioxin and preventive measures were very limited. An intervention program to reduce the risk of dioxin exposure for local people living at four wards near Da Nang Airbase was urgently needed. The results of this survey will be presented at the workshop to be organized in early 2010 in Da Nang City to develop a detail intervention program with active involvement of related local departments and stakeholders. Key words: Dioxin polluted areas in Da Nang Airbase, Dioxin contaminated foods. Tác giả: (*) Trường Đại học Y tế công cộng, 138 Giảng Võ - Ba Đình - Hà Nội. - Lê Vũ Anh - Giáo Sư - Tiến Sĩ - Hiệu trưởng Trường Đại học Y tế Công cộng. E.mail: lva@hsph.edu.vn - Trần Thị Tuyết Hạnh - Thạc sĩ - Giảng viên Bộ môn Sức khỏe môi trường. Email: tth2@hsph.edu.vn - Nguyễn Ngọc Bích - Thạc sĩ, bác sĩ - Giảng viên Bộ môn Sức khỏe nghề nghiệp. Email: nnb@hsph.edu.vn - Nguyễn Thanh Hà - Tiến sĩ, bác sĩ - Giảng viên Bộ môn Dinh dưỡng và An toàn vệ sinh thực phẩm. Email: nth1@hsph.edu.vn (**) Nguyễn Đức Minh - Thạc Sĩ - Viện Y xã hội học . (***) Nguyễn Kim Ngân - Cử nhân - Cán bộ chương trình - Hội Y tế Công cộng Việt Nam, 138 Giảng Võ - Ba Đình - Hà Nội. Email: nkn@vpha.org.vn Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20) 51
  3. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 1. Đặt vấn đề giai đoạn từ tháng 9/2009 đến tháng 1/2010 với mục Nghiên cứu do Công ty tư vấn môi trường tiêu tìm hiểu kiến thức, thái độ và thực hành về dự Hatfield Canada (Hatfield Consultants 2009) thực phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm của 400 hiện đã xác định 7 điểm nóng dioxin ở Việt Nam, người dân (lựa chọn theo phương pháp ngẫu nhiên trong đó sân bay Đà Nẵng được cho là một trong ba hệ thống) sống tại 4 phường được cho là bị tác động điểm nóng nhất. Gần 40 năm sau khi việc phun rải lớn nhất về ô nhiễm dioxin ở thành phố Đà Nẵng, kết thúc, những người dân sinh sống tại khu vực có bao gồm An Khê, Chính Gián, Hoà Khê và Thanh nồng độ dioxin cao ví dụ ở xung quanh sân bay Đà Khê Tây. 400 đối tượng nghiên cứu trong độ tuổi 16 Nẵng vẫn đang hằng ngày đối mặt với nguy cơ cao - 60 được chọn là người chịu trách nhiệm chính về phơi nhiễm chất độc này và đang phải hứng chịu mua và chế biến thực phẩm của 400 hộ gia đình những tác động nguy hại trực tiếp lên sức khỏe của được lựa chọn từ bốn phường theo phương pháp họ và của thế hệ con, cháu. chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Số liệu được phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS 13 và Stata 9. Các hoạt động tẩy độc đòi hỏi một khoản kinh Kết quả của nghiên cứu khảo sát đánh giá KAP phí rất lớn và thực hiện trong thời gian dài. Hiện tại trước can thiệp sẽ được sử dụng để làm cơ sở khoa và trong tương lai, những sự hỗ trợ, hợp tác trong học giúp cho việc lập kế hoạch can thiệp khả thi và nước và quốc tế là rất cần thiết để giải quyết vấn hiệu quả nhằm giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm mới đề ô nhiễm dioxin ở sân bay Đà Nẵng cũng như các với dioxin trong thực phẩm cho người dân sống ở 4 điểm nóng nhiễm dioxin khác ở Việt Nam. Sau khi phường gần sân bay Đà Nẵng cũng như cung cấp số mô hình can thiệp YTCC ở điểm nóng sân bay Biên liệu nền cho mục đích đánh giá chương trình can Hòa được Hội YTCC Việt Nam và Hội YTCC thiệp. Số liệu đã được nhập bằng phần mềm Epi- Đồng Nai thực hiện trong giai đoạn 2007-2009 đạt data 3.1. Phân tích thống kê thích hợp đã được thực được những thành công bước đầu trong việc giảm hiện bằng phần mềm SPSS 17.0. Cả thống kê mô tả thiểu nguy cơ phơi nhiễm với dioxin trong thực và thống kê suy luận đều được tiến hành. Các kiểm phẩm cho người dân tại 2 phường Trung Dũng và định thống kê thích hợp được sử dụng nhằm tìm hiểu Tân Phong [1,2,3,10], Hội YTCC Việt Nam đã thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của người nhận được hỗ trợ tài chính từ Quỹ Ford để mở rộng dân về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm mô hình can thiệp này ra điểm nóng nhiễm dioxin và những yếu tố liên quan. ở sân bay Đà Nẵng. Trước khi xây dựng và triển khai chương trình 3. Kết quả nghiên cứu can thiệp, một nghiên cứu mô tả cắt ngang cần được thực hiện với mục tiêu tìm hiểu kiến thức, thái độ 3.1. Kiến thức chung về dioxin và thực hành về dự phòng nhiễm độc dioxin qua Kết quả của điều tra KAP trước can thiệp cho thực phẩm người dân sống tại 4 phường được cho là thấy mặc dù sống ở khu vực điểm nóng về ô nhiễm bị tác động lớn nhất của ô nhiễm dioxin ở thành phố dioxin nhưng kiến thức về sự tồn tại của dioxin Đà Nẵng, đó là An Khê, Chính Gián, Hòa Khê và trong môi trường của người dân trước can thiệp còn Thanh Khê Tây. Kết quả của nghiên cứu khảo sát rất hạn chế, đặc biệt là kiến thức về sự tồn tại của đánh giá KAP trước can thiệp đã được Hội dioxin trong thực phẩm. Hơn nữa, người dân chưa có YTCCVN, tỉnh hội YTCC Đà Nẵng và các ban kiến thức đầy đủ về các đường nhâm nhập của ngành liên quan sử dụng làm cơ sở khoa học giúp dioxin từ môi trường vào cơ thể cũng như những cho việc lập kế hoạch can thiệp khả thi và hiệu quả ảnh hưởng sức khỏe do phơi nhiễm với dioxin. Phần nhằm giảm thiểu nguy cơ nhiễm mới với dioxin lớn người dân cho rằng dioxin tồn tại trong nước trong thực phẩm cho người dân sống ở 4 phường gần 76% và trong đất 54,9% trong khi đó chỉ có 15,9% sân bay Đà Nẵng. Ngoài ra, kết quả của nghiên cứu số người được hỏi biết dioxin có thể tồn tại trong này cũng được sử dụng làm số liệu nền giúp cho thực phầm và chỉ có một người biết dioxin có thể tồn việc đánh giá kết quả của chương trình can thiệp. tại trong cả đất, nước, không khí và thực phẩm (0,25%). Về kiến thức liên quan đến đường phơi 2. Phương pháp nghiên cứu nhiễm dioxin, chỉ 1,3% đối tượng phỏng vấn biết Đây là nghiên cứu trước can thiệp do Hội YTCC dioxin có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua cả Việt Nam và Hội YTCC Đà Nẵng thực hiện trong 3 con đường là qua da, qua đường hô hấp và qua 52 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20)
  4. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | đường ăn uống. Tỷ lệ trả lời không biết là 20,9%. Bảng 1. So sánh kiến thức về sự tồn tại của dioxin Những ảnh hưởng được chứng minh là có liên quan trong môi trường, Đà Nẵng 2009, Biên đến phơi nhiễm dioxin như ung thư, ban clo ít được Hòa 2007, 2009 quan tâm tới với chỉ 22,3% và 1,4% số người được hỏi biết tới những ảnh hưởng này. Bảng 1 trình bày số liệu so sánh kiến thức về sự tồn tại của dioxin trong môi trường trong khảo sát trước can thiệp ở Đà Nẵng 2009 với kết quả của khảo sát trước và sau can thiệp ở Biên Hoà (2007, 2009). Số liệu trong Bảng 1 cho thấy, ngoại trừ kiến thức liên quan đến thực phẩm, nhìn chung kiến thức liên quan đến sự tồn tại của dioxin trong đất, nước, không khí của người dân ở 4 phường thuộc thành phố Đà Nẵng 2009 là tốt hơn có ý nghĩa thống kê so với kiến thức của người dân Biên Hoà trong khảo sát trước can thiệp 2007. Tuy nhiên, do cuộc khảo sát trước can thiệp ở Đà Nẵng diễn ra 2 năm sau khảo sát trước can thiệp ở Biên Hòa nên trong 2 năm qua, người dân ở Đà Nẵng có thể đã được tiếp cận với một số thông tin liên quan đến dioxin trên các phương tiện truyền thông đại chúng nên kiến thức của họ có thể tốt hơn. Nếu so với kết quả sau can thiệp ở Biên Hòa thì kiến thức của người dân ở 4 phường tại Đà Nẵng về sự tồn tại của dioxin trong thực phẩm, trong cả 4 môi trường thành phần là thấp hơn có ý nghĩa thống kê, tỉ lệ trả lời không biết cũng Hình 1. Nhận thức về các loại thực phẩm có nguy cao hơn có ý nghĩa thống kê so với tỉ lệ ở Biên Hòa cơ nhiễm dioxin cao, khảo sát trước can sau can thiệp 2009. Riêng kiến thức về sự tồn tại thiệp, Đà Nẵng 2009 của dioxin trong nước ở trong khảo sát trước can thiệp ở Đà Nẵng là tốt hơn có ý nghĩa thông kê so với kết quả trong cả 2 cuộc khảo sát trước và sau can về nguy cơ nhiễm độc dioxin qua thực phẩm với thiệp ở Biên Hòa (Bảng 1). khảo sát trước và sau can thiệp ở Biên Hòa cho thấy nhận thực của người dân 4 phường ở Đà Nẵng (2009) 3.2. Kiến thức về thực phẩm nguy cơ cao là tốt hơn nhận thức của người dân ở 2 phường của nhiễm dioxin Biên Hòa trong khảo sát trước can thiệp (2007) và Nhận thức của người dân về những loại thực không tốt bằng nhận thức của người dân trong khảo phẩm có nguy cơ cao nhiễm dioxin nếu được nuôi sát sau can thiệp ở Biên Hòa vào cùng thời điểm trồng ở vùng ô nhiễm trong khảo sát trước can thiệp điều tra (2009). Tuy nhiên, sự khác biệt này đều còn rất hạn chế (Hình 1). 22,5% đối tượng biết cá, không có ý nghĩa thống kê (xem Bảng 2). thủy sản nước ngọt là thực phẩm nguy cơ cao nếu Theo khuyến cáo của Viện Nghiên cứu Y khoa được nuôi ở khu vực ô nhiễm; 6,1% đối tượng biết Mỹ (Institute of Medical Research 2004) thì thực thịt mỡ động vật là thực phẩm nguy cơ cao nếu được phẩm, đặc biệt là các chất béo no (saturated fats) nuôi ở khu vực ô nhiễm; chỉ có 2 người biết bộ đồ có trong các sản phẩm từ sữa, thịt và một số loài cá lòng là thực phẩm nguy cơ cao nếu động vật ăn thực là nguồn phơi nhiễm dioxin chính. Như vậy nhận phẩm ở khu vực ô nhiễm và không có đối tượng nào thức về nguy cơ nhiễm độc dioxin qua thực phẩm bị biết trứng, sữa động vật là thực phẩm nguy cơ cao ô nhiễm ở 4 phường của Đà Nẵng trong khảo sát nhiễm dioxin. trước can thiệp là khá tốt. Tuy nhiên, tương tự như So sánh kết quả về nhận thức của người dân tại những khảo sát trước đây đã đươc thực hiện ở Biên 4 phường trong khảo sát trước can thiệp ở Đà Nẵng Hòa thì những câu hỏi trước về dioxin trong bộ câu Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20) 53
  5. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Bảng 2. So sánh nhận thức về nguy cơ nhiễm độc giải pháp nào có thể áp dụng để phòng ngừa phơi dioxin qua thực phẩm, Đà Nẵng 2009, nhiễm dioxin qua thực phẩm. Biên Hòa 2007, 2009 Kết quả so sánh sánh kiến thức dự phòng nhiễm độc dioxin từ thực phẩm trong khảo sát này so với khảo sát KAP trước và sau can thiệp ở Biên Hòa 2007, 2009 được trình bày trong Bảng 3. Bảng 3. So sánh kiến thức dự phòng nhiễm độc dioxin từ thực phẩm, Đà Nẵng 2009, Biên Hòa 2007, 2009 hỏi phỏng vấn có thể ảnh hưởng phần nào đến câu trả lời của người được phỏng vấn cho vấn đề này. Thực tế kết quả điều tra trước can thiệp ở Đà Nẵng 2009 cho thấy mặc dù chỉ có 15,9% tổng số người được phỏng vấn biết dioxins tồn tại trong thực phẩm và 79,1% biết dioxin có thể thâm nhập vào cơ thể qua đường ăn uống nhưng lại có tới 86,5% cho biết nếu ăn thực phẩm bị ô nhiễm dioxin thì con người có nguy cơ bị nhiễm độc. 3.3. Kiến thức về các biện pháp dự phòng Nhìn chung, kiến thức về các biện pháp dự phòng Kết quả trong Bảng 3 cho thấy, so với kết quả phơi nhiễm dioxin từ thực phẩm tại bốn phường gần khảo sát trước can thiệp ở Biên Hòa (2007), nhận sân bay Đà Nẵng trong điều tra trước can thiệp là còn thức của người dân tại 4 phường ở gần sân bay Đà rất hạn chế (Hình 2). 74,4% cho rằng biện pháp dự Nẵng trong khảo sát trước can thiệp (2009) về các phòng phơi nhiễm dioxin từ thực phẩm là rửa sạch giải pháp dự phòng nhiễm độc dioxin qua thực phẩm rau, 31,5% cho rằng cần đun nấu thực phẩm thật kỹ là tốt hơn có ý nghĩa thống kê so với 2 phường gần để loại bỏ bớt dioxin (là biện pháp không hiệu quả), sân bay Biên Hòa. Các giải pháp đúng như rửa sạch 12,9% cho rằng không nên sử dụng các thực phẩm rau (74,7%), ăn ít cá, nhuyễn thể nước ngọt địa nuôi/trồng tại địa phương. Các giải pháp dự phòng phương (2,6%), ăn ít sản phẩm trứng, sữa địa phương đúng hầu như còn rất xa lạ đối với người dân tại bốn (2,1%) đều cao hơn có ý nghĩa thống kê so với kết phường ở gần sân bay Đà Nẵng, với tỉ lệ người trả lời quả của khảo sát ở Biên Hòa 2007, với các tỉ lệ tương đúng chỉ từ 0% (bú ít sữa mẹ trong 1 vài tuần đầu sau ứng là 57,5%, 0,7% và 0,25%). Tuy nhiên, so với kết sinh) đến 4,1% (không dùng nước ô nhiễm). 15% quả sau can thiệp ở Biên Hòa 2009, thì tỉ lệ trả lời tổng số người được hỏi trả lời "không biết" bất kỳ một đúng về loại bỏ mỡ động vật, hay ăn ít cá, nhuyễn thể nước ngọt địa phương đều thấp hơn có ý nghĩa thống kê. 3.4. Thái độ và thực hành dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm Nếu xét trên toàn bộ bốn phường, hầu hết các gia đình đã sử dụng nước máy để uống và chế biến thức ăn (chiếm 85,5%). Trong số 46 hộ gia đình Hình 2. Nhận thức về các giải pháp phòng ngừa phơi nhiễm chưa có nước máy để dùng cho mục dioxin qua thực phẩm, điều tra KAP trước can thiệp, đích ăn uống mà vẫn phải sử dụng nước Đà Nẵng 2009. giếng khoan, giếng đào thì có tới 38 54 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20)
  6. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | hộ (chiếm 82,6%) không áp dụng bất kỳ phương Đà Nẵng và Biên Hòa. pháp xử lý nước nào. Theo kết quả điều tra KAP Tuy kiến thức về dioxin và dự phòng phơi trước can thiệp, phần lớn người dân ở bốn phường nhiễm dioxin còn rất hạn chế, kết quả điều tra KAP (97,7%) không dùng thực phẩm tự nuôi trồng, trong đó tỉ lệ ở phường Chính Gián là 100%, phường Hòa Khê là 98,9%, phường Thanh Khê Tây là 97,7% và thấp nhất là phường An Khê với 94,9%. Trong toàn bộ 400 hộ khảo sát thì có 9 hộ vẫn tiêu thụ các thực phẩm tự nuôi trồng. Đa số các đối tượng được hỏi hiếm khi quan tâm tới nguồn gốc thực phẩm mà họ mua về. Kết quả khảo sát về thực hành biết về nguồn gốc thực phẩm tiêu dùng hằng ngày cho thấy Hinh 3. Tần suất tiêu thụ thực phẩm theo ngày, chỉ có 22,6% đối tượng biết nguồn gốc thực phẩm Đà Nẵng 2009 chế biến thức ăn hàng ngày, 34,8% chỉ biết một số, còn 42,6% đối tượng trả lời không biết. 69,6% đối trước can thiệp ghi nhận phần lớn người dân đều có tượng điều tra trả lời là có quan tâm đến nguồn gốc thái độ tích cực về thực hành phòng ngừa phơi thực phẩm khi mua; những người còn lại (chiếm nhiễm dioxin cho bản thân và gia đình. 97% người 15,1%) trả lời không biết. Yếu tố người dân quan dân cho biết họ sẵn sằng từ bỏ loại thực phẩm ưa tâm nhất khi mua thực phẩm chính là "sạch/tươi/an thích nếu biết chúng có nguy cơ bị nhiễm dioxin. toàn" với 86,7% tổng số người được hỏi, tiếp đến là 97% người dân sẵn sàng nghe theo các thông tin tư "ngon" chiếm 8%, các yếu tố khác không nhận được vấn về phòng tránh phơi nhiễm dioxin. Ngoài các nhiều sự quan tâm. Mặc dù đang đối mặt với nguy nỗ lực tẩy độc ở khu sân bay thì một chương trình cơ cao phơi nhiễm dioxin trong thực phẩm, nhưng can thiệp YTCC nâng cao kiến thức, thái độ và thực chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ người dân cho biết họ sử hành của người dân sống gần sân bay Đà Nẵng dụng các biện pháp dự phòng (chiếm 39,8%). Ba nhằm giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm dioxin cho thực hành phòng ngừa phơi nhiễm được nhắc tới cộng đồng là thực sự cần thiết. Sau khi nghiên cứu nhiều nhất là tránh mua thực phẩm không rõ nguồn này được triển khai, tháng 5 năm 2010 Hội YTCC gốc (52,8%), hạn chế ăn tôm, cua, cá nước ngọt Việt Nam cùng với Hội YTCC Đà Nẵng đã tổ chức chiếm 15,7% và lọc nước khi sử dụng đạt 11,9%. hội thảo chia sẻ kết quả nghiên cứu, xây dựng kế Ngoài ra, kết quả của điều tra KAP về mức độ hoạch can thiệp chi tiết với sự tham gia của các ban tiêu thụ thực phẩm cho thấy những thực phẩm có ngành liên quan tại địa phương. nguy cơ cao được người dân tiêu thụ hàng tuần khá phổ biến là trứng gà vịt (77%), thịt trâu/bò (65%), 4. Bàn luận thịt nạc lẫn mỡ (61,7%) và cá nước ngọt (51,6%). Mô hình can thiệp với cách tiếp cận y tế công Các thực phẩm nguy cơ cao được người dân tiêu thụ cộng triển khai tại Đồng Nai đã cho những kết quả hằng ngày là tôm, cua, ốc nước ngọt (52,5%), thịt ban đầu rất khả quan trong việc nâng cao kiến thức, trâu bò (24,0%), cá nước ngọt (19,5%) và trứng gà thái độ và thực hành cho người dân sống tại điểm vịt (9,8%) (Hình 3). Bên cạnh đó, rau ăn lá là loại nóng dioxin gần sân bay Biên Hòa. Do đó mô hình thực phẩm có nguy cơ ô nhiễm thấp hơn cũng là loại này cần được mở rộng và áp dụng tại 4 phường gần thực phẩm tiêu thụ hàng ngày của đa số người dân sân bay Đà Nẵng góp phần nâng cao nhận thức và (86,5%). Mức độ tiêu thụ các loại thực phẩm theo thực hành của người dân về dự phòng phơi nhiễm ngày khá giống nhau giữa các phường được điều tra. dioxin qua thực phẩm. Tỷ lệ người dân tại các phường được điều tra tại Đà Thông tin truyền thông cần tập trung vào các Nẵng tiêu thụ 1 số thực phẩm có nguy cơ ô nhiễm loại thực phẩm có nguy cơ cao, tầm quan trọng của cao nhiều hơn ở Biên Hòa (2007), cụ thể như thịt việc tìm hiểu xuất xứ thực phẩm tiêu thụ, không tiêu trâu bò (24,0% so với 3,5%; p<0,001); tôm cua ốc thụ thực phẩm nguy cơ cao nuôi trồng tại địa bàn 4 và nhuyễn thể (52,2% so với 5,0%); trứng gia cầm phường nghiên cứu như: cá và thủy sản nước ngọt (p<0,05) 7. Đây cũng thể hiện thói quen ăn uống (đặc biệt là các động vật ăn ở tầng đáy), thịt gà vịt, đặc thù theo địa phương khác nhau giữa hai khu vực trâu bò, lợn nuôi theo phương thức truyền thống, Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20) 55
  7. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | bí ngô và cà rốt cũng như các giải pháp thực hành cộng tác viên về lựa chọn và sử dụng thực phẩm an dự phòng nhiễm độc dioxin. toàn để giảm nguy cơ nhiễm độc dioxin cũng như Chương trình truyền thông cũng cần nhấn mạnh các kỹ năng truyền thông tại cộng đồng. Các hoạt nguy cơ phơi nhiễm với dioxin nếu sử dụng nguồn động tập huấn, tuyên truyền ngoài sự tham gia của nước không sạch (chứa các hạt cặn lơ lửng) và các các tuyên truyền viên nên có sự tham gia tích cực biện pháp xử lý nước có thể áp dụng tại hộ gia đình. của Hội phụ nữ. Người lao động trong khu vực ô nhiễm nên sử Cần có lưu ý khi triển khai các lời khuyên dinh dụng dụng cụ bảo hộ lao động khi làm các công việc dưỡng hợp lý tại địa phương, đặc biệt là những khi có tiếp xúc trực tiếp với bùn đất tại địa phương. ăn nhiều cá, nuôi con bằng sữa mẹ. Triển khai các hoạt động truyền thông về khả Phát huy hiệu quả trong chương trình can thiệp năng nhiễm độc dioxin thông qua thực phẩm tiêu tại Đồng Nai, các kênh truyền thông địa phương thụ, đặc biệt là những loại thực phẩm có nguy cơ cao (như họp tổ dân phố, cán bộ y tế phát tờ rơi và tư như cá nước ngọt (cá quả, cá trắm, các động vật ăn vấn tại hộ gia đình, dán tờ tranh tại hộ gia đình ) ở tầng đáy), thịt ngan, vịt, gà, cóc và mỡ của các loại nên được tiếp tục sử dụng trong chương trình can động vật này nếu được chăn nuôi ở khu vực ô thiệp ở Đà Nẵng. Tuy nhiên, trong chương trình can nhiễm, đặc biệt là khu vực trong và gần sân bay Đà thiệp này cũng nên cân nhắc thêm kênh truyền hình Nẵng. Người dân tuyệt đối không nên đánh bắt cá địa phương (là một trong 3 kênh thông tin được tại các ao, hồ trong địa bàn 4 phường nghiên cứu để người dân yêu thích nhất). làm thực phẩm. Phần lớn các hộ hiện vẫn đang tiêu thụ thực Lời cảm ơn phẩm tự nuôi trồng tập trung ở phường An Khê, do Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Quỹ Ford, TS. đó các hoạt động truyền thông thay đổi hành vi Charles Bailey, đã hỗ trợ tài chính cho việc thực hiện nguy cơ này cần đặc biệt chú trọng ở phường này. nghiên cứu và cảm ơn sự tham gia và hỗ trợ của Hội Để đảm bảo hiệu quả, cần phối hợp với các ban YTCC Đà Nẵng và trạm y tế 4 phường An Khê, Hòa ngành liên quan ở địa phương để đảm bảo người dân Khê, Chính Gián và Thanh Khê Tây trong giai đoạn tại địa phương, đặc biệt là phường An Khê không thu thập số liệu. Chúng tôi cũng muốn bày tỏ lời cảm tiêu thụ (ăn/bán/biếu ) thực phẩm họ tự nuôi trồng ơn tới Văn phòng 33 đã hỗ trợ và cung cấp các thông trên địa bàn. tin khoa học trong quá trình xây dựng đề cương và Cần có tập huấn cho cán bộ địa phương và các báo cáo kết quả nghiên cứu ban đầu tại Đà Nẵng. 56 Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20)
  8. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tài liệu tham khảo Tiếng Anh 4. Dwernychuk LW, Cau HD, Hatfield CT, et al (2002). Chemosphere. 47:117-137 Tiếng Việt 5. Dwernychuk LW (2005), Chemosphere. 60:998-999 1. Lê Vũ Anh, Trần Thị Tuyết Hạnh, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đức Minh, Nguyễn Kim Ngân (2010). "Chương 6. Hatfield Consultants and 10-80 Committee 2000, trình can thiệp nâng cao KAP của người dân TP Biên Hoà Preliminary Assessment of Environmental Impacts Related về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm - những thành to Spraying of Agent Orange Herbicide During the Viet công ban đầu sau 1 năm can thiệp". Tạp chí Y học Thành phố Nam War, West Vancouver: Hatfield Consultants Ltd. Hồ Chí Minh. 14 (2): 380-865. 7. Le VA, Nguyen NB, Nguyen DM, Nguyen TH, Do MS, 2. Lê Vũ Anh, Trần Thị Tuyết Hạnh, Nguyễn Ngọc Bích, Tran TTH 2008, Organohalogen Compounds; 70: 000535- Nguyễn Đức Minh, Nguyễn Thanh Hà, Đỗ Minh Sơn 2009, 00538. "KAP của người dân TP Biên Hoà về Dự phòng phơi nhiễm 8. Schecter, A., Cao Dai, L., Papke, O., et al (2001). Journal dioxin qua thực phẩm". Tạp chí Y tế công cộng. 11: 13-18. of Occupational and Environmental Medicine. 43: 435- 443. 3. Trần Thị Tuyết Hạnh, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đức 9. Schecter A., Quynh H.T., Pavuk M., Papke O., Malish R., Minh Nguyễn Thanh Hà, Trần Vũ, Nguyễn Thị Qúy (2010). Constable J.D. (2003). Journal of Occupational and "Đánh giá sự thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành dự Environmental Medicine. 45 (8): 781-88. phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm ở phường Trung Dũng và Tân Phong, Biên Hoà - 1 năm sau can thiệp". Tạp 10. Tuyet-Hanh, T.T, Vu-Anh, L, Ngoc-Bich, N, Tenkate, T chí Nghiên cứu Y học. 68 (3): 447-451. (2010). "Environmental Health Risk Assessment of Dioxin Exposure through Foods in a Dioxin Hot Spot-Bien Hoa City, Vietnam". International Journal of Environmental Research and Public Health. 7: 2395-2406. Tạp chí Y tế Công cộng, 7.2011, Số 20 (20) 57