Giá trị, độ tin cậy của thang đo trầm cảm của vị thành niên và thanh niên và một số yếu tố liên quan tại huyện Chí Linh, Hải Dương năm 2006
Trầm cảm là một trong những vấn đề về sức khoẻ tâm thần của vị thành niên và thanh niên có tác động nhiều tới các hành vi nguy cơ đối với sức khỏe. Trước những tác động tiêu cực do trầm cảm gây ra, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần nhận thấy cần phải thực hiện các nghiên cứu cộng đồng liên quan tới sức khỏe tâm thần nói chung và trầm cảm nói riêng của vị thành niên và thanh niên. Cho đến nay chỉ có một nghiên cứu công bố kết quả kiểm định giá trị và độ tin cậy của công cụ đo lường trầm cảm của học sinh tại huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Mục tiêu nghiên cứu này nhằm: (1) Xây dựng và bước đầu đánh giá giá trị và độ tin cậy của thang đo trầm cảm của thanh niên và vị thành niên tại 7 xã/thị trấn huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; (2) Tìm hiểu mối liên quan giữa một số yếu tố dân số xã hội và mức độ trầm cảm của những đối tượng trên. Thang đo trầm cảm được chúng tôi dịch dựa trên thang đo trầm cảm của Trung tâm nghiên cứu dịch tễ học (CESD), Mỹ và xây dựng theo qui trình cụ thể, sau đó được kiểm định với 12.447 vị thành niên và thanh niên huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Kết quả phân tích thành tố thăm dò (EFA) cho thấy thang đo trầm cảm bao gồm 16 mục phân thành 02 nhóm thành tố rõ ràng có mối liên quan tương đối cao (>0.3) trong mỗi thành tố. Thang đo có độ tin cậy cao về sự nhất quán bên trong: Thành tố 1 với Cronbach's Alpha=0.91; thành tố 2 với Cronbach's Alpha=0.75. Tham số Cronbach's Alpha chung cho cả thang đo sự trầm cảm là 0.82, cho thấy 16 biến số liên quan chặt chẽ với nhau. Công cụ này đảm bảo chất lượng, và có thể sử dụng trong các nghiên cứu cộng đồng với đối tượng vị thành niên và thanh niên huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nói riêng và Việt Nam nói chung. Các yếu tố như tuổi, giới, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn và khu vực sống đều có mối liên quan với điểm trung bình đo lường sự trầm cảm.
Giá trị, độ tin cậy của thang đo trầm cảm của vị thành niên và thanh niên và một số yếu tố liên quan tại huyện Chí Linh, Hải Dương năm 2006
File đính kèm:
gia_tri_do_tin_cay_cua_thang_do_tram_cam_cua_vi_thanh_nien_v.pdf
Nội dung text: Giá trị, độ tin cậy của thang đo trầm cảm của vị thành niên và thanh niên và một số yếu tố liên quan tại huyện Chí Linh, Hải Dương năm 2006
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Giá trị, độ tin cậy của thang đo trầm cảm của vị thành niên và thanh niên và một số yếu tố liên quan tại huyện Chí Linh, Hải Dương năm 2006 Nguyễn Đức Thành (*), Lê Cự Linh (**) Trầm cảm là một trong những vấn đề về sức khoẻ tâm thần của vị thành niên và thanh niên có tác động nhiều tới các hành vi nguy cơ đối với sức khỏe. Trước những tác động tiêu cực do trầm cảm gây ra, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần nhận thấy cần phải thực hiện các nghiên cứu cộng đồng liên quan tới sức khỏe tâm thần nói chung và trầm cảm nói riêng của vị thành niên và thanh niên. Cho đến nay chỉ có một nghiên cứu công bố kết quả kiểm định giá trị và độ tin cậy của công cụ đo lường trầm cảm của học sinh tại huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Mục tiêu nghiên cứu này nhằm: (1) Xây dựng và bước đầu đánh giá giá trị và độ tin cậy của thang đo trầm cảm của thanh niên và vị thành niên tại 7 xã/thị trấn huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; (2) Tìm hiểu mối liên quan giữa một số yếu tố dân số xã hội và mức độ trầm cảm của những đối tượng trên. Thang đo trầm cảm được chúng tôi dịch dựa trên thang đo trầm cảm của Trung tâm nghiên cứu dịch tễ học (CES- D), Mỹ và xây dựng theo qui trình cụ thể, sau đó được kiểm định với 12.447 vị thành niên và thanh niên huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Kết quả phân tích thành tố thăm dò (EFA) cho thấy thang đo trầm cảm bao gồm 16 mục phân thành 02 nhóm thành tố rõ ràng có mối liên quan tương đối cao (>0.3) trong mỗi thành tố. Thang đo có độ tin cậy cao về sự nhất quán bên trong: thành tố 1 với Cronbach's Alpha=0.91; thành tố 2 với Cronbach's Alpha=0.75. Tham số Cronbach's Alpha chung cho cả thang đo sự trầm cảm là 0.82, cho thấy 16 biến số liên quan chặt chẽ với nhau. Công cụ này đảm bảo chất lượng, và có thể sử dụng trong các nghiên cứu cộng đồng với đối tượng vị thành niên và thanh niên huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nói riêng và Việt Nam nói chung. Các yếu tố như tuổi, giới, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn và khu vực sống đều có mối liên quan với điểm trung bình đo lường sự trầm cảm. Từ khóa: Trầm cảm, giá trị, độ tin cậy, vị thành niên và thanh niên, Chililab. Validity and reliability of the depression scale for the youth and adolescent and related factors in Chi Linh district, Hai Duong province Nguyen Duc Thanh (*), Le Cu Linh (**) Depression is one of the mental health problems among youths and adolescents, which has great impacts on health risk behaviors. Regarding the negative consequences caused by depression, Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 33
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | researchers in this field perceive the importance of conducting community-based studies on mental health in general and depression in particular among youths and adolescents. There has been so far only one study publishing the results of construct validity and internal consistency reliability of the scale measuring depression of the youth and adolescent in Chi Linh district, Hai Duong province. This study' s objectives are (1) to develop and measure the validity and internal consistency reliability of the depression scale in seven district towns/communes of Chi Linh district, Hai Duong province, and (2) to identify the relationship between the socio demographic variables and the mean score of depression measuring scale variable. The depression scale was translated from the scale of the Centre for Epidemiological Studies - Depression Scale (CES-D) in the United States and adapted in the Chi Linh district context. The revised scale was then applied to 12,447 youths and adolescents. The result from exploratory factor analysis shows that the depression scale of sixteen items was divided into two separate components. The items in each component are relatively correlated (r >0.3). Components one and two have high internal consistency reliability, with Cronbach's Alpha=0.91 and 0.75 respectively. Cronbach's Alpha which measures the internal consistency reliability among 16 items is 0.82. All tested socio demographic variables are related to the total mean score of depression measuring scale variable. This scale could be used in the community-based studies for the youth and adolescent in Chi Linh district, Hai Duong province and Viet Nam as well. Key words: Depression, validity, reliability, adolescent, Chililab. Tác giả (*) ThS. Nguyễn Đức Thành: Bộ môn Quản lí bệnh viện - Khoa Quản lí y tế- Trường Đại học Y tế công cộng. Điện thoại: 04-62662328. E.mail: ndt@hsph.edu.vn (**) PGS.TS. Lê Cự Linh: Trưởng Bộ môn Dân số - Trường Đại học Y tế công cộng. Điện thoại: 04-62662331, email: lcl@hsph.edu.vn 1. Đặt vấn đề một cách mơ hồ; thay đổi trong suy nghĩ: VTN&TN Trầm cảm là một trong những vấn đề thuộc sức nghĩ rằng họ không thể làm được việc gì đúng hoặc khoẻ tâm thần được đánh giá là cấu phần quan trọng cảm thấy cuộc sống không có ý nghĩa Những dấu trong sức khoẻ của vị thành niên và thanh niên hiệu của trầm cảm có mối liên quan chặt chẽ với các (VTN&TN). Các chuyên gia cho rằng trầm cảm có hành vi nguy cơ như tự tử, chấn thương, hút thuốc thể gặp ở mọi lứa tuổi của VTN&TN. Theo Viện lá, uống rượu, sử dụng ma tuý. Nghiên cứu SAVY sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ năm 1999, kết quả (2003) cho thấy những VTN&TN có suy nghĩ tiêu nghiên cứu chỉ ra rằng cứ 100 vị thành niên thì có 8 cực và không có sự lạc quan có xu hướng có hành đối tượng có thể mắc trầm cảm và cứ trong 100 vi tự tử cao hơn những VTN&TN có suy nghĩ tích thanh niên thì có 2 đối tượng mắc chứng này. Trầm cực và có lạc quan về tương lai của mình. Ngoài ra, cảm biểu hiện ở những thay đổi về cảm xúc như việc đã từng cảm thấy thất vọng về tương lai là biến VTN&TN cảm thấy buồn, khóc, vô vọng; động cơ số tác động nhiều nhất đến hành vi tự tử ở thanh thay đổi: VTN&TN không quan tâm đến những thiếu niên. Những đối tượng đã từng cảm thấy thất hoạt động vui chơi, giải trí hay suy giảm các hoạt vọng về tương lai có xu hướng tự tử gấp khoảng 6.5 động học tập trong trường học; không thấy sự thoải lần những đối tượng suy nghĩ lạc quan về tương lai mái về thể chất: VTN&TN có thể trải qua những của mình. Những VTN&TN ở trạng thái trầm cảm thay đổi về tiêu hoá, ăn không ngon miệng hay thay có xu hướng bị chấn thương gấp 2 lần những đối đổi về giấc ngủ hoặc có những khó chịu trong cơ thể tượng không ở trạng thái đó [4]. Những VTN&TN 34 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | có những dấu hiệu trầm cảm có xu hướng có những được sử dụng phổ biến tại các quốc gia phát triển hành vi tình dục không an toàn như không sử dụng và đang phát triển [5], [14]. CES-D đánh giá mức bao cao su khi quan hệ tình dục, có nhiều bạn tình độ trầm cảm trong 1 tuần trước khi điều tra, gồm 20 và quan hệ tình dục sớm [11]. Những VTN&TN có tiểu mục với 04 lựa chọn trả lời từ không ngày nào dấu hiệu trầm cảm có xu hướng hút thuốc, uống cả (dưới 1 ngày), thỉnh thoảng (1-2 ngày), thường rượu và bị các bệnh mãn tính nhiều hơn các đối xuyên (3-4 ngày) và hầu hết cả tuần (5-7 ngày). tượng không có dấu hiệu của trạng thái này [8]. Ở Mỗi một mức độ tương ứng với một điểm nhất định các quốc gia phát triển, các nghiên cứu cho thấy sức với số điểm từ 0 đến 4. Tổng điểm của thang đo từ khoẻ tâm thần nói chung và trầm cảm nói riêng vẫn 0 đến 60, điểm càng cao thể hiện triệu chứng trầm là vấn đề nổi cộm, chưa được giải quyết và vẫn là cảm càng nặng [14]. gánh nặng bệnh tật của xã hội [3], [13]. Mục tiêu của nghiên cứu này là (1) Xây dựng Tỷ lệ VTN&TN có các rối loạn tâm thần, trong và bước đầu đánh giá giá trị và độ tin cậy của thang đó có trầm cảm ở các nước đang phát triển là tương đo trầm cảm của VTN&TN tại 7 xã/thị trấn huyện đương với các quốc gia phát triển. Các số liệu Chí Linh, tỉnh Hải Dương năm 2006 và (2) Xác định nghiên cứu cho thấy VTN&TN có rối loạn tâm thần mối liên quan giữa một số biến dân số xã hội với tại Australia và Mỹ khoảng trên 20%. Tại Việt thang đo sự trầm cảm của VTN&TN tại 7 xã/thị Nam, kết quả nghiên cứu dọc tại cộng đồng thực trấn huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương năm 2006. hiện từ 2000 đến 2015 ở 5 tỉnh cho thấy tỷ lệ VTN 8 tuổi có triệu chứng rối loạn hành vi cũng khoảng 2. Phương pháp nghiên cứu 20% [15]. Hiện nay, những nghiên cứu về trầm cảm tại các nước đang phát triển và Việt Nam còn hạn 2. 1. Thiết kế nghiên cứu chế. Một trong những nguyên nhân đối với các nhà Đây là cấu phần trong nghiên cứu dọc về sức nghiên cứu là phải sử dụng công cụ đo lường trầm khoẻ VTN&TN bắt đầu từ năm 2006 tại 7 xã/thị cảm được dịch từ các công cụ trong những nghiên trấn thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương cứu từ nước ngoài. Những nghiên cứu này được thực hiện trên những đối tượng VTN&TN có các quan 2. 2. Đối tượng nghiên cứu niệm, giá trị, niềm tin, biểu lộ cảm xúc và hành vi 60 VTN/TN trong độ tuổi 10-24 tại thời điểm không hoàn toàn giống với những đối tượng ở các tháng 7/2006 (bao gồm cả nam, nữ, cả những đối nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói tượng đã và chưa kết hôn). Những đối tượng nghiên riêng. Những sự khác nhau đó là do có sự khác nhau cứu chỉ là thành viên hộ gia đình đang cư trú, không về hệ thống, hoàn cảnh văn hoá tại địa bàn sinh đưa vào nghiên cứu các đối tượng đặc biệt như sống của các đối tượng này [17], [8]. VTN/TN đang là sinh viên ở nội trú tại các trường Ở Việt Nam, cho đến thời điểm này có ít các dạy nghề, trường chuyên nghiệp, cơ quan an ninh, nghiên cứu xây dựng, đánh giá tính giá trị và độ tin lực lượng vũ trang hay các trại giam, trung tâm lao cậy của thang đo trầm cảm của VTN&TN. Nghiên động phục hồi nhân phẩm, các trại tâm thần, bệnh cứu chất lượng cuộc sống của VTN&TN tại thành viện đóng trên địa bàn. phố Hồ Chí Minh, năm 2005 [8], đánh giá giá trị và độ tin cậy thang đo chất lượng cuộc sống của 2. 3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu VTN&TN của Trung tâm y học trường đại học tổng Bảy xã thị trấn thuộc địa bàn của hệ thống hợp Duke, Mỹ khi áp dụng vào bối cảnh Việt Nam. Chililab (thị trấn Sao Đỏ, thị trấn Bến Tắm, thị trấn Thang đo này gồm nhiều thành tố, trong đó thành Phả Lại, xã An Lạc, xã Văn An, xã Lê Lợi, và xã tố trầm cảm có 05 tiểu mục có tính giá trị và độ tin Hoàng Tiến). Thời gian thu thập số liệu từ tháng cậy cao. Nghiên cứu gần đây nhất đánh giá giá trị 7/2006 - tháng 1/2007. Quá trình rà soát, làm sạch và độ tin cậy của thang đo trầm cảm và lo âu được số liệu từ 1-2/2007, phân tích số liệu và viết báo cáo tiến hành cũng tại địa bàn Chí Linh, sử dụng thang từ 6-12/2007. đo trầm cảm của trung tâm nghiên cứu dịch tễ (CES-D), Mỹ [1]. Nghiên cứu cho thấy 04 thành tố 2. 4. Thu thập số liệu trong thang đo cũng có giá trị và độ tin cậy khi áp 2. 4.1. Điều tra viên và giám sát viên đảm bảo dụng đo lường trầm cảm tại địa bàn này. CES-D kiểm soát chất lượng Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 35
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 50 điều tra viên của Chililab được tập huấn về nghiên cứu dịch tễ học (CES-D), Mỹ được sử dụng kỹ năng tiến hành thu thập số liệu trong 2 ngày. Với rộng rãi trong các nghiên cứu trầm cảm. Đây là tính chất là một bộ câu hỏi phát vấn tự điền, vai trò công cụ đo lường trầm cảm ở VTN&TN sử dụng của điều tra viên chủ yếu ở khâu giới thiệu, hướng thang đo với 4 mức độ và là câu hỏi tự điền. Bộ câu dẫn và thuyết phục được gia đình đồng ý và đối hỏi này đã được đánh giá tính giá trị và độ tin cậy tượng tham gia điền phiếu. Các giám sát viên tham với các đối tượng VTN&TN người Mỹ và người gia hỗ trợ và giám sát quá trình thu thập thông tin. châu Âu, thậm chí là các đối tượng người châu Á 2.4.2. Qui trình tiến hành thu thập số liệu tại [14]. Công cụ này bao gồm 4 yếu tố: (1) Trạng thái thực địa trầm cảm; (2) Trạng thái lạc quan; (3) Các triệu chứng thuộc cơ thể; (4) Các vấn đề thuộc quan hệ Điều tra viên tại địa phương đi từng nhà để tiến cá nhân. Tổng điểm của thang đo này là từ 0 đến 60, hành phỏng vấn thu thập thông tin của hệ thống VTN&TN có điểm càng cao thì càng có xu hướng Chililab, trong quá trình này, họ lọc ra những đối có dấu hiệu trầm cảm [1] tượng trong độ tuổi 10-24 tính tới tháng 7/2006. Bộ phiếu hỏi được mã hóa theo mã hộ gia đình và mã Chỉnh sửa công cụ phù hợp với bối cảnh Việt cá nhân, không có tên của đối tượng nghiên cứu. Nam Đối tượng nghiên cứu được phát tờ thông tin nghiên Các nghiên cứu về sức khoẻ VTN&TN sử dụng cứu và xác nhận việc đồng ý tham gia bằng cách ký những thang đo đã được kiểm định tính giá trị và độ vào bản đồng ý. Đối tượng dưới 18 tuổi được cung tin cậy trong quá trình chỉnh sửa cho phù hợp với bối cấp bản đồng ý cho phép tham gia nghiên cứu với cảnh tại địa điểm nghiên cứu đều tuân theo một qui xác nhận của bố mẹ hoặc người bảo trợ. trình nhất định [7], [8], [5], [10]. Qui trình chỉnh sửa công cụ cho phù hợp với bối cảnh tại 7 xã/thị trấn 2. 5. Quản lý, phân tích số liệu thuộc huyện Chí Linh được chúng tôi tiến hành qua Sau khi các điều tra viên nộp phiếu cho văn 4 giai đoạn: dịch xuôi bộ công cụ, dịch ngược bộ phòng Chililab hàng tuần, nhập liệu viên của công cụ, thu thập ý kiến đống góp của nhóm chuyên Chililab tiến hành làm sạch phiếu (những thông tin gia và thử nghiệm bộ câu hỏi. cơ bản) theo qui trình. Những phiếu được nhập chuyển về Trường Đại học Y tế công cộng để tiến 2.1.2. Bước 2. Xác định tính giá trị và độ tin cậy hành nhập. Số liệu được quản lý tập trung trên hệ Tính giá trị. Các tiểu mục trong thang đo trầm cơ sở dữ liệu SQL Server đặt tại Trường Đại học Y cảm được phân tích thành tố, sử dụng phương pháp tế công cộng. Số liệu được phân tích bằng phương phân tích thành tố chính (PFA) với kĩ thuật trực giao pháp thống kê cơ bản như tính tần số, điểm trung quay vòng (Varimax rotation) để xác định các thành bình. Các thang đo xác định bằng phân tích nhân tố. tố chính. Độ tin cậy bên trong của thang đo được xác định Độ tin cậy. Để đánh giá độ tin cậy - sự nhất bằng tham số Cronbach's Alpha. Phân tích hồi qui quán bên trong - chúng tôi sử dụng tham số tuyến tính được sử dụng để xác định mối liên quan Cronbach's Alpha. Tham số Cronbach's Alpha >= giữa các biến số dân số xã hội với mức độ trầm cảm 0,7 chứng tỏ các tiểu mục trong cùng một thang đo của VTN/TN. có sự tương quan với nhau cao, cùng đo lường một 2. 6. Công cụ đo lường sự kiện nhất định [12] Nghiên cứu này được thực hiện qua hai bước: 3. Kết quả nghiên cứu bước đầu tiên bộ công cụ đo lường trầm cảm của trung tâm nghiên cứu dịch tễ học của Mỹ được chỉnh 3. 1. Công cụ đo lường sửa cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam; bước thứ Sau khi thử nghiệm bộ câu hỏi đo lường trầm hai bộ công cụ chỉnh sửa được đánh giá tính giá trị cảm với 60 VTN&TN, chúng tôi thấy rằng trong 20 và độ tính nhất quán bên trong. tiểu mục có 04 tiểu mục số 11, 16, 17 và 20 nội dung 2. 6.1. Bước 1. Chỉnh sửa công cụ phù hợp với tương đồng với nội dung ở các tiểu mục khác và làm bối cảnh Việt Nam cho các đối tượng nghiên cứu phản hồi là đã trả lời Bộ câu hỏi rồi. Do vậy, chúng tôi là lược bỏ 04 tiểu mục này, Bộ câu hỏi đo lường trầm cảm của trung tâm và bộ công cụ còn 16 tiểu mục. 36 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 3. 2. Tính giá trị của công cụ đo lường thành một yếu tố với các hệ số "loadings" mạnh, và Vị thành niên và thanh niên được yêu cầu trả lời cả hai yếu tố này giải thích tổng số 51,4% sự biến 16 câu hỏi liên quan tới các vấn đề thuộc sức khỏe thiên, trong đó yếu tố 1 đóng góp 33,2%, yếu tố 2 tâm thần với 6 mức độ trả lời: (1) Không bao giờ xảy đóng góp 13,1. Như vậy, qua đánh giá hệ số ra, (2) Hiếm khi xảy ra, (3) Thỉnh thoảng xảy ra, (4) eigenvalues và biểu đồ "Screeplot", chúng ta thấy Thường xuyên xảy ra, (5) Luôn luôn xảy ra và (6) có 02 "yếu tố" chính (yếu tố 1 và 2 với hệ số Không biết/không trả lời. Các biến số không có eigenvalues tương ứng là 5,5 và 1,9). Các biến số thông tin (missing data), hay được trả lời là "Không thuộc yếu tố 1 cho thấy vị thành niên và thanh niên biết/không trả lời" được loại bỏ trước khi đưa vào ở Chí Linh đang đối diện với những vấn đề tâm thần phân tích thành tố. Những mức độ trả lời có ý nghĩa trong cuộc sống, mang tính chất âm tính, do vậy còn lại được gán điểm từ 1 đến 5, có nghĩa là dưới đây chúng tôi gọi yếu tố này là "Bi quan về VTN&TN trả lời là "Không bao giờ xảy ra" sẽ được cuộc sống". Các biến số thuộc yếu tố 2 cho thấy vị 1 điểm, hoặc trả lời "Luôn luôn xảy ra" sẽ được 5 thành niên và thanh niên ở Chí Linh đang lạc quan điểm. Để xây dựng một biến tổ hợp đo lường sự về cuộc sống, mang tính chất dương tính, do vậy trầm cảm của các đối tượng VTN&TN trên, 3 biến dưới đây chúng tôi gọi yếu tố này là "Lạc quan về số về sự lạc quan được mã hóa lại như sau: mức độ cuộc sống". 1 được mã hóa thành mức độ 5, mức độ 2 được mã hóa thành mức độ 4, mức độ 3 giữ nguyên, mức độ 4 được mã hóa thành mức độ 2 và mức độ 5 được mã hóa thành mức độ 1. Sau khi mã hoá, cả 16 biến số đều đo lường mức độ trầm cảm, với tổng số điểm từ 16 đến 75. Điểm trung bình càng cao, mức độ trầm cảm của VTN&TN càng nhiều. Những câu hỏi này, sau đây được gọi là các "biến số" được phân tích "yếu tố/thành tố" (PCA: principal components analyis, tạm dịch: phân tích các yếu tố chính), với phần mềm SPSS, nhằm tìm hiểu xem 16 biến số về Hình 1. Biểu đồ Scree sức khỏe tâm thần được phân bố vào bao nhiêu yếu tố đặc trưng giải thích về tình trạng trầm cảm của VTN/TN tại 7 xã/thị trấn thuộc huyện Chí Linh tại Bảng 1. Hai "yếu tố" và factor loading tương ứng thời điểm năm 2006. Để có đủ điều kiện thực hiện của các biến số đo lường sức khỏe tâm phân tích "yếu tố", một số điều kiện được đánh giá. thần của vị thành niên và thanh niên tại Qua bảng ma trận tương quan, chúng tôi quan sát huyện Chí Linh, Hải Dương, 2006 được có nhiều hệ số tương quan # 0,3, chứng tỏ các Biến số Yếu tố 1 Yếu tố 2 biến số trong 16 biến số về sức khỏe tâm thần của Tôi cảm thấy buồn 0,75 vị thành niên và thanh niên có liên quan với nhau. Tôi cảm thấy cô đơn 0,73 Giá trị Kaiser-Meyer-Oklin xác định cỡ mẫu đủ lớn Tôi thấy suy nhược/trầm cảm 0,68 0,66 là 0.95, lớn hơn giá trị được y văn khuyến cáo là 0,6 Tôi cảm thấy mọi người không thích tôi Tôi thấy lo sợ 0,65 ( Kaiser, 1970, 1974) và test Barlett Sphericity Tôi cảm thấy mệt mỏi khi làm việc 0,64 (Barlett, 1954) đạt mức ý nghĩa thống kê, hỗ trợ cho Tôi khó tập trung vào công việc 0,64 các yếu tố trong ma trận tương quan. Phân tích "yếu Tôi ít nói hơn bình thường 0,62 Tôi cảm thấy không thể xua tan sự buồn rầu dù có sự 0,61 tố" (PCA) cho chúng ta thấy chỉ có 02 yếu tố với hệ giúp đỡ của gia đình hoặc bạn bè số eigenvalues lớn hơn 1, giải thích 33,2% và 13,1% Tôi cảm thấy khó chịu với những việc mà hàng ngày tôi 0,59 sự biến thiên. Đánh giá biểu đồ "Screeplot" (Hình cho là bình thường Mọi người không thân thiện với tôi 0,58 1), chúng ta cũng thấy bằng chứng cho sự xuất hiện Tôi không muốn ăn, chán ăn 0,57 của 2 yếu tố trên. Để có thể phiên giải được 02 yếu Tôi nghĩ rằng cuộc sống của tôi đã thất bại 0,56 tố này, chúng tôi tiến hành phân tích sâu áp dụng kĩ Tôi đã hạnh phúc 0,78 0,75 thuật thống kê "Varimax rotation", kết quả cho thấy Tôi cảm thấy hy vọng vào tương lai Tôi cảm thấy tôi cũng tốt như mọi người khác 0,71 13 biến số cấu thành một yếu tố và 03 biến số cấu Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 37
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 3.3. Độ tin cậy của các yếu tố đo lường sức Bảng 3. Mối liên quan giữa trầm cảm và một số yếu khỏe tâm thần của vị thành niên và thanh tố dân số xã hội của thanh niên và vị thành niên niên tại 7 xã/thị trấn huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương năm 2006 Bảng 2 cho thấy các biến số thuộc yếu tố 1 và 2 tương quan và liên kết với nhau chặt chẽ, thể hiện Các yếu tố liên quan Điểm Ý nghĩa ở hệ số Cronbach's Alpha cao, yếu tố 1 với hệ số tin trung bình thống kê Giới tính cậy Cronbach's Alpha là 0,91, yếu tố 2 với Nam 29,0 SD= 7,5 Cronbach's Alpha là 0,75. Điều này chứng tỏ các Nữ 30,7 SD= 8,4 biến số thuộc yếu tố 1 thực sự đo lường khía cạnh t(-7,9), p<0,01 Hôn nhân "Bi quan về cuộc sống" của VTN&TN huyện Chí Chưa kết hôn 30,0 SD= 8,0 Linh tại thời điểm điều tra và các biến số thuộc yếu Kết hôn 28,9 SD= 7,5 t(3,3), p=0,001 tố 2 thực sự đo lường khía cạnh "Lạc quan về cuộc Địa lí sống" của những VTN&TN đó. Xã 29,4 SD= 7,9 Thị trấn 30,3 SD= 8,1 t(3,9), p<0,01 Tuổi Bảng 2. Độ tin cậy các biến số thuộc 2 yếu tố sức khỏe 10 - 14 28,0 SD= 6,8 tâm thần của vị thành niên và thanh niên 15-19 30,9 SD= 8,4 20-24 30,3 SD= 8,2 F(67,7) p<0,01 Yếu tố 1 Cronbach’s Alpha Trình độ học vấn Tôi cảm thấy buồn Cấp 1 27,9 SD= 7,2 Tôi cảm thấy cô đơn Cấp II 28,9 SD= 7,3 Tôi thấy suy nhược/trầm cảm Cấp III 31,0 SD= 8,6 Tôi cảm thấy mọi người không thích tôi Trung học dạy nghề 30,9 SD= 8,0 Đại học và trên đại học Tôi thấy lo sợ 31,3 SD= 8,2 F(33,1) p<0,01 Tôi cảm thấy mệt mỏi khi làm việc Tôi khó tập trung vào công việc 0,91 Tôi ít nói hơn bình thường Bảng 4. Mối liên quan giữa sự trầm cảm và một số yếu Tôi cảm thấy không thể xua tan sự buồn rầu tố dân số xã hội của thanh niên và vị thành dù có sự giúp đỡ của gia đình hoặc bạn bè Tôi cảm thấy khó chịu với những việc mà niên tại 7 xã/thị trấn huyện Chí Linh, tỉnh hàng ngày tôi cho là bình thường Hải Dương năm 2006 - Mô hình hồi qui Mọi người không thân thiện với tôi tuyến tính Tôi không muốn ăn, chán ăn Tôi nghĩ rằng cuộc sống của tôi đã thất bại Các yếu tố liên quan Hệ số hồi qui (ââ) Ý nghĩa thống kê Yếu tố 2 Cronbach’s Alpha Giới tính 0,11 P<0,01 Tôi đã hạnh phúc Hôn nhân - 0,10 P<0,01 Tôi cảm thấy hy vọng vào tương lai 0,75 Tôi cảm thấy tôi cũng tốt như mọi người khác Địa lí - 0,04 P<0,01 * Cronbach’s Alpha cho cả thang đo = 0.82 Tuổi 0,11 P<0,01 Trình độ học vấn 0,06 P<0,01 3. 4. Mối liên quan giữa sự trầm cảm và một điểm trung bình đo lường mức độ trầm cảm theo số yếu tố dân số xã hội của thanh niên và vị giới, tình trạng hôn nhân, địa lí, nhóm tuổi và trình thành niên tại 7 xã/thị trấn huyện Chí độ học vấn. Nữ giới có điểm trung bình cao hơn so Linh, tỉnh Hải Dương năm 2006 với nam giới, những VTN&TN chưa kết hôn có điểm trung bình cao hơn những đối tượng đã kết Thang đo trầm cảm bao gồm 16 câu hỏi với 5 hôn, những đối tượng sống ở thị trấn có điểm trung mức độ trả lời, trong đó có 13 câu cho thấy sự bi bình cao hơn những đối tượng sống ở nông thôn, quan của VTN&TN và 3 câu cho thấy sự lạc quan nhóm tuổi 15-19 có điểm trung bình cao nhất và của VTN&TN tại 7 xã/thị trấn, huyện Chí Linh, tỉnh những đối tượng với trình độ học vấn càng cao có Hải Dương. Điểm tổ hợp đo lường sự trầm cảm chạy điểm trung bình càng cao. Những sự khác biệt này từ 16 đến 75 điểm. đều có ý nghĩa thống kê với p<0,01 (bảng 3). Khi Phân tích đơn biến cho thấy có sự khác nhau về phân tích đa biến, kết quả cho thấy giới tính, tình 38 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | trạng hôn nhân và độ tuổi là 3 yếu tố tác động nhiều cũng giống như các nghiên cứu khác chúng tôi nhất đến điểm trung bình đo lường mức độ trầm thành lập một nhóm các chuyên gia đánh giá bộ cảm của VTN&TN 7 xã/thị trấn huyện Chí Linh, công cụ. tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, tất cả 5 yếu tố này chỉ Thử nghiệm công cụ đo lường: công cụ đo lường giải thích 3,8% sự biến thiên về điểm trung bình đo trầm cảm trước khi được sử dụng trong nghiên cứu lường mức độ trầm cảm. được thử nghiệm với một mẫu gồm 60 VTN&TN, việc thử nghiệm này cũng giống như nghiên cứu của 4. Bàn luận Tổ chức Y tế thế giới [16], và nghiên cứu chất lượng Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng công cuộc sống VTN&TN tại thành phố Hồ Chí Minh [8]. cụ đo lường trầm cảm của trung tâm nghiên cứu dịch Việc làm này nhằm hai mục đích: (1) Đảm bảo các tễ học, Mỹ. Bộ công cụ này đã được dịch sang tiếng đối tượng nghiên cứu hiểu một cách đầy đủ các câu Việt, chỉnh sửa cho phù hợp với bối cảnh của Việt hỏi của bộ công cụ; (2) Đảm bảo nội dung các câu Nam, đồng thời cho thấy có tính giá trị và độ tin cậy hỏi tương tự như các câu hỏi gốc tiếng Anh với mẫu đại diện là các VTN&TN huyện Chí Linh. Việc chỉnh sửa công cụ cho phù hợp với bối Mặc dù có một số công cụ đo lường trầm cảm cảnh ở Việt Nam tuân theo qui trình 4 bước, chặt của VTN&TN: công cụ đo lường trầm cảm của tác chẽ hơn so với các nghiên cứu khác, chỉ thực hiện 2 giả Beck và cộng sự gồm 21 tiểu mục [2]; công cụ bước là dịch xuôi và dịch ngược [5]. Điều này có thể đo lường trầm cảm gồm 5 tiểu mục trong nghiên cứu dẫn tới các đối tượng nghiên cứu sẽ không hiểu đầy về chất lượng cuộc sống VTN&TN tại thành phố Hồ đủ nội dung các câu hỏi. Chí Minh [8], nhưng công cụ đo lường trầm cảm của Bộ công cụ chúng tôi sử dụng không giống với trung tâm nghiên cứu dịch tễ (CES-D), Mỹ được sử bộ câu hỏi gốc ở hai điểm. Thứ nhất, sau khi thử dụng vì công cụ này được chấp nhận và sử dụng nghiệm, chúng tôi thấy rằng trong 20 tiểu mục có rộng rãi hơn trong các nghiên cứu về trầm cảm trên 04 tiểu mục số 11, 16, 17 và 20 nội dung tương đồng thế giới [13;17]. Chúng tôi tin rằng công cụ này sau với nội dung ở các tiểu mục khác và làm cho các đối khi được chỉnh sửa và được đánh giá tính giá trị và tượng nghiên cứu phản hồi là đã trả lời rồi. Do vậy, độ tin cậy thì sẽ dễ áp dụng trong bối cảnh mới tại chúng tôi lược bỏ 04 tiểu mục này, và bộ công cụ Việt Nam. Việc chỉnh sửa công cụ cho phù hợp với còn 16 tiểu mục. Lí do có sự tương đồng là do quá bối cảnh của Việt Nam được thực hiện qua bốn trình dịch sang tiếng Việt. Thứ hai, bộ câu hỏi gốc bước. Những bước này cũng tương tự như trong một sử dụng mức độ trả lời với 4 mức [14], trong khi đó số nghiên cứu: nghiên cứu về chất lượng cuộc sống chúng tôi sử dụng tới 6 mức. Sau đó, khi phân tích của VTN&TN tại thành phố Hồ Chí Minh [8], chúng tôi có loại bỏ mức thứ 6 (không biết/không nghiên cứu chất lượng cuộc sống của Tổ chức Y tế trả lời) để tránh ảnh hưởng tới giá trị của thông tin. thế giới [16]. Tuy nhiên, có một vài điểm khác biệt: Lí do chúng tôi sử dụng 6 mức là do có những câu Giai đoạn dịch xuôi công cụ sang tiếng Việt: hỏi đối tượng nghiên cứu không biết phải trả lời như trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ mời một nhà thế nào và để tránh trả lời mà không hiểu câu hỏi ngôn ngữ học có kiến thức về y tế công cộng dịch, chúng tôi có chia mức độ trả lời chi tiết hơn và tạo trong khi các nghiên cứu khác mời 2 đến 3 nhà ngôn thêm mức độ trả lời thứ 6. Nguyên nhân của việc đối ngữ học. Giải thích cho sự khác nhau trên là không tượng không biết trả lời như thế nào cũng không khó có điều kiện để mời nhiều, hơn nữa nhà ngôn ngữ hiểu vì cách đặt câu hỏi sử dụng các mức độ trả lời học trong nghiên cứu này được mời có trình độ Tiến như trong nghiên cứ này được sử dụng tại Việt Nam sĩ về ngoại ngữ và đã công tác lâu năm trong lĩnh không lâu. Nhiều nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi với vực y tế công cộng. cách đặt câu hỏi như vậy đều gặp khó khăn trong Giai đoạn dịch ngược công cụ sang tiếng Anh: việc thu thập thông tin. Thêm vào đó, trình độ học chúng tôi mời một nhà ngôn ngữ học khác có trình vấn của đối tượng nghiên cứu lứa tuổi 10-24 cũng độ tương đương dịch công cụ ngược lại tiếng Anh, có thể là lí do dẫn tới họ thấy khó hiểu khi được hỏi trong khi các nghiên cứu khác mời 2 hoặc 3. Lí giải như vậy. Kết quả phân tích cho thấy có 02 thành tố cho sự khác nhau này cũng tương tự như trên. chính, một thành tố tạm gọi là: "Bi quan về cuộc Thu thập ý kiến đóng góp của nhóm chuyên gia: sống" và một thành tố tạm gọi là "Lạc quan về Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 39
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | cuộc sống với giá trị Cronbach's Alpha tương ứng cảm hơn những đối tượng sống ở thành thị, đã đi 0,91 và 0,75 và giá trị Cronbach's Alpha của cả làm. Trong khi đó, một nghiên cứu cũng trên đối thang đo là 0,82. Giá trị Cronbach's Alpha này cũng tượng VTN/TN tuổi từ 10 -19 tại thành phố Hồ Chí tương tự như trong các nghiên cứu khác đánh giá Minh cho thấy tuổi càng cao mức độ trầm cảm càng tính giá trị và độ tin cậy của công cụ đo lường sự giảm. VTN/TN sống ở nông thôn có xu hướng bị trầm cảm trên thế giới và ở Việt Nam [1;8;11]. Tuy trầm cảm hơn so với ở thành thị, những đối tượng nhiên, số lượng biến số đã rút gọn còn 16 biến thay đang đi học có xu hướng bị trầm cảm nhiều hơn vì 20 biến như so với bộ công cụ gốc và của tác giả những đối tượng đã đi làm [8]. Những yếu tố dân số Nguyễn Thanh Hương nghiên cứu về trầm cảm xã hội trong nghiên cứu này chỉ giải thích có 3,8% cũng của VTN/TN trên huyện Chí Linh [1]. Lí do sự biến thiên của điểm trung bình đo lường mức độ có sự khác nhau này có thể giải thích là đối tượng trầm cảm. Như vậy, sẽ có những yếu tố khác chiếm nghiên cứu ở hai quần thể được chọn khác nhau. Với tỷ trọng lớn hơn giải thích sự biến thiên này. Các kết quả chúng tôi thu được, thang đo có thể sử dụng phân tích trong tương lai cần được tiến hành để phát để đo lường trầm cảm đối với VTN&TN có cùng hiện những yếu tố này. đặc điểm tại các địa bàn khác của Việt Nam. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng gặp một số hạn Tổng điểm thang đo mức độ trầm cảm của chế khác. Thứ nhất, nghiên cứu này mới chỉ dừng VTN/TN ở địa bàn nghiên cứu từ 6 đến 75. Điểm lại ở kiểm định độ tin cậy về sự nhất quán bên trong trung bình là 29,9 (độ lệch chuẩn là 8), có thể cho chứ chưa kiểm định độ tin cậy thử nghiệm lại [8], thấy các đối tượng nghiên cứu có xu hướng ở trạng [14]. Trong tương lai, với vòng tiếp theo của nghiên thái trầm cảm nhẹ. Một số yếu tố dân số xã hội bao cứu này, việc kiểm định tính giá trị về thử nghiệm gồm: tuổi, giới, tình trạng hôn nhân, khu vực sống, lại cần được tiến hành. Thứ hai, nghiên cứu này chỉ và trình độ học vấn đều có liên quan đến mức độ dừng lại với việc tổ hợp 16 tiểu mục để tính phạm trầm cảm của đối tượng VTN&TN tại địa bàn vi điểm của thang đo, không cho phép các nhà nghiên cứu. Điểm trung bình mức độ trầm cảm của nghiên cứu xác định được điểm cắt để nói rằng nam là 29 và nữ là 30,7, cao hơn nhiều so với nghiên VTN&TN bị trầm cảm hay không bị trầm cảm. Việc cứu tại Mỹ khi điểm trung bình của nam và nữ tương xác định điểm cắt phù hợp, cần phải có sự hợp tác ứng là 11 và 13,9 [11]. Ở nghiên cứu này, mức độ với các chuyên gia về tâm thần học để chẩn đoán trầm cảm tỷ lệ thuận với độ tuổi, VTN/TN sống ở xác định trạng thái trầm cảm của VTN&TN tại 7 nông thôn, đang còn đi học có xu hướng ít bị trầm xã/thị trấn huyện Chí Linh. 40 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16)
- | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tài liệu tham khảo Adolescent Duke Health Profile". Journal of Adolescence, 28:127-146. 9. Irwin, C. E., Burg, S. J. & Cart, C. U. (2002). "Americas Tiếng Việt adolescents: Where have we been, where are we go". 1. Nguyễn Thanh Hương, Lê Vũ Anh & Dunne, M (2007). Journal of Adolescent Health, 31: 91-121. "Giá trị và độ tin cậy của hai thang đo trầm cảm và lo âu sử 10. Kojima, M.,et al (2002). "Cross-cutural validation of the dụng trong nghiên cứu cộng đồng với đối tượng vị thành Beck Depression Inventory-II in Japan". Psychiatry niên". Tạp chí Y tế công cộng, 7(7): 25-31. Research, 110: 291-299. 11. Lehrer, J. A., Shrier, L. A., Gortmaker, S. & Buka, S. Tiếng Anh (2006). "Depressive Symptoms as a Longitudinal Predictor of Sexual Risk Behaviors Among US Middle and High 2. Beck, A. T.,et al (1961). "An inventory for measuring School Students". Journal of the American Academy of depression". Archives of General Psychiatry, 4: 561-571. Pediatrics, 118: 189-200. 3. Burns1, J. R. & Rapee, R. M. (2006). "Adolescent mental health literacy: Young people’s knowledge of depression 12. Pallant, J. (2001). SPSS survival guide: a step by step and help seeking". Journal of Adolescence, 29: 225-239. guide to data analysis using SPSS. Allen & Unwin. 153-65. 4. Chena, G.,et al ( 2005 ). "Psychological symptoms and 13. Pincus, T., Williams, A. C. d. C., Vogel, S. & Field, A. nonfatal unintentional injuries among Chinese adolescents: (2004). "The development and testing of the depression, a prospective study". Journal of Adolescent Health, 37: 460- anxiety, and positive outlook scale (DAPOS)". Pain, 109: 466. 181-188. 5. Cheung, K. C. & Bagley, C. (1998). "Validating an 14. Radloff, L. S. (1977). "The CES-D Scale: A Self-Report American Scale in Hong Kong: The Center for Depression Scale for Research in the General Population". Epidemiological Studies Depression Scale (CES-D)". The Applied Psychological Measurement, 1(3): 385-401. Journal of Psychology, 132(2): 169-186. 15. Tuan, T., Lan, P. T., Harpham, T. & et al. (2003). Young 6. Grietens, H., Geeraert, L. & Hellinck, W. (2004). "A Lives Premilinary Country Report: Vietnam, An scale for home visiting nurses to identify risks of physical International Study of Childhood Poverty. Save the Children abuse and neglect among mothers with newborn infants". UK. Child Abuse & Neglect, 28: 321-37. 16. WHO (1994) The development of the World Health 7. Guillemin, F., Bombardier, C. & Beaton, D. (1993). Organization quality of life assessment instrument (the "Cross-cultural adaptation of health related quality of life WHOQOL). In ORLEY, J. & KUYKEN, W. (Eds.) Quality measures: literature review and proposed guideline". of Life Assessment: International Perspectives. Berlin: Journal of Clinical Epidemiology, 46: 1417-1432. Springer. 8. Hanh, V. T. X., Guillemin, F., Cong, D. D. & et al. 17. Woo, B. S. C., Chang, W. C., Fung, D. S. S. & et al. (2005). "Health related quality of life of adolescents in (2004). "Development and validation of a depression scale Vietnam: cross-cultural adaptation and validation of the for Asian adolescents", Journal of Adolecence, 27: 677-689. Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 41