Cán bộ chuyên môn y tế của thế kỷ mới: Cải cách giáo dục nhằm tăng cường hệ thống y tế trong một thế giới tương hỗ lẫn nhau

Đặt vấn đề Một trăm năm trước đã có một loạt các nghiên cứu về đào tạo cán bộ chuyên môn y tế, mở đầu với Báo cáo của Flexner năm 1910, đã đặt nền móng cho công tác cải cách. Nhờ lồng ghép khoa học hiện đại vào chương trình giảng dạy ở các trường đại học, công tác cải cách đã trang bị kiến thức cho cán bộ chuyên môn y tế để đóng góp vào việc tăng tuổi thọ con người lên gấp đôi trong thế kỷ 20.

Tuy nhiên vào đầu thế kỷ 21 thì tình hình không được tốt. Những thiếu hụt và bất công bằng trong y tế tồn tại trong và giữa các quốc gia dẫn đến những thất bại chung của chúng ta nhằm chia sẻ những tiến bộ đầy ấn tượng trong y tế một cách công bằng. Đồng thời, các thách thức mới trong y tế cũng đã xuất hiện. Các nguy cơ mới về bệnh truyền nhiễm, về môi trường và hành vi, có lúc chuyển đổi nhanh chóng về nhân khẩu học và dịch tễ học, đã đe dọa an ninh sức khỏe của tất cả mọi người. Những hệ thống y tế trên thế giới đang cố gắng để duy trì vì chúng ngày càng phức tạp và tốn kém và vấn đề này đặt ra thêm những yêu cầu đối với cán bộ y tế. Đào tạo chuyên môn đã không bắt kịp với những thách thức này, phần lớn là do các chương trình giảng dạy manh mún, lỗi thời và cứng nhắc đã cho ra trường những sinh viên tốt nghiệp được trang bị kém. Đó là những vấn đề mang tính hệ thống: Năng lực không đáp ứng các nhu cầu của người bệnh và quần thể; làm việc nhóm kém; luôn phân biệt giới tính về địa vị chuyên môn; chỉ chú trọng vào chuyên môn hẹp mà không có kiến thức rộng hơn về bối cảnh; chăm sóc theo các giai đoạn hơn là theo chuỗi liên tục.

pdf 53 trang Bích Huyền 01/04/2025 240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Cán bộ chuyên môn y tế của thế kỷ mới: Cải cách giáo dục nhằm tăng cường hệ thống y tế trong một thế giới tương hỗ lẫn nhau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfcan_bo_chuyen_mon_y_te_cua_the_ky_moi_cai_cach_giao_duc_nham.pdf

Nội dung text: Cán bộ chuyên môn y tế của thế kỷ mới: Cải cách giáo dục nhằm tăng cường hệ thống y tế trong một thế giới tương hỗ lẫn nhau

  1. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | CÁN BỘ CHUYÊN MÔN Y TẾ CỦA THẾ KỶ MỚI: Cải cách giáo dục nhằm tăng cường hệ thống y tế trong một thế giới tương hỗ lẫn nhau Julio Frenk*, Lincoln Chen*, Zulfiqar A Bhutta, Jordan Cohen, Nigel Crisp, Timothy Evans, Harvey Fineberg, Patricia Garcia, Yang Ke, Patrick Kelley, Barry Kistnasamy, Afaf Meleis, David Naylor, Ariel Pablos-Mendez, Srinath Reddy, Susan Scrimshaw, Jaime Sepulveda, David Serwadda,Huda Zurayk Tóm tắt xuất hiện. Các nguy cơ mới về bệnh truyền nhiễm, về môi trường và hành vi, có lúc chuyển đổi nhanh chóng về nhân khẩu học và dịch tễ học, đã đe dọa Đặt vấn đề an ninh sức khỏe của tất cả mọi người. Những hệ thống y tế trên thế giới đang cố gắng để duy trì vì Một trăm năm trước đã có một loạt các nghiên chúng ngày càng phức tạp và tốn kém và vấn đề này cứu về đào tạo cán bộ chuyên môn y tế, mở đầu với đặt ra thêm những yêu cầu đối với cán bộ y tế. báo cáo của Flexner năm 1910, đã đặt nền móng Đào tạo chuyên môn đã không bắt kịp với cho công tác cải cách. Nhờ lồng ghép khoa học hiện những thách thức này, phần lớn là do các chương đại vào chương trình giảng dạy ở các trường đại trình giảng dạy manh mún, lỗi thời và cứng nhắc đã học, công tác cải cách đã trang bị kiến thức cho cán cho ra trường những sinh viên tốt nghiệp được trang bộ chuyên môn y tế để đóng góp vào việc tăng tuổi bị kém. Đó là những vấn đề mang tính hệ thống: thọ con người lên gấp đôi trong thế kỷ 20. năng lực không đáp ứng các nhu cầu của người Tuy nhiên vào đầu thế kỷ 21 thì tình hình không bệnh và quần thể; làm việc nhóm kém; luôn phân được tốt. Những thiếu hụt và bất công bằng trong y biệt giới tính về địa vị chuyên môn; chỉ chú trọng tế tồn tại trong và giữa các quốc gia dẫn đến những vào chuyên môn hẹp mà không có kiến thức rộng thất bại chung của chúng ta nhằm chia sẻ những tiến hơn về bối cảnh; chăm sóc theo các giai đoạn hơn bộ đầy ấn tượng trong y tế một cách công bằng. là theo chuỗi liên tục; chủ yếu chữa bệnh dựa vào Đồng thời, các thách thức mới trong y tế cũng đã bệnh viện hơn là chăm sóc tuyến ban đầu; mất cân 4 Tạp chí Y tế Công cộng, 1.2011, Số 17 (17)
  2. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | bằng cả về lượng và chất trong thị trường lao động các nước. chuyên môn; và lãnh đạo yếu kém trong tăng Mỗi nước trong số bốn nước (Trung Quốc, Ấn cường thực hiện công tác của hệ thống y tế. Những Độ, Brazil, và Hoa Kỳ) có trên 150 trường y khoa, nỗ lực đáng kể để giải quyết các yếu kém trên hầu trong khi đó có 36 nước lại không có một trường y như vẫn chưa thỏa đáng, một phần vì vấn đề gọi là khoa nào. Ở khu vực Cận Sa-ha-ra châu Phi, 26 cát cứ trong chuyên môn - tức là xu hướng các nước chỉ có một hoặc không có trường y khoa nào. chuyên môn khác nhau hoạt động đơn lẻ thậm chí Xét về khía cạnh bất cân bằng này thì khi ta thấy số cạnh tranh với nhau. lượng các trường y khoa không hoàn toàn tương ứng Quy hoạch lại đào tạo chuyên môn y tế là điều với cả quy mô dân số cũng như gánh nặng bệnh tật cần thiết và kịp thời, xét về các cơ hội học tập lẫn của mỗi quốc gia cũng là điều không ngạc nhiên. nhau và các giải pháp chung có được nhờ sự tương Tổng chi tiêu toàn cầu cho việc đào tạo chuyên hỗ toàn cầu do có sự gia tăng của các luồng giao môn y tế là khoảng 100 tỷ đô la Mỹ một năm, tất lưu kiến thức, công nghệ và tài chính vượt qua các nhiên là có những khác biệt to lớn giữa các nước. biên giới và sự di cư của cả thày thuốc và bệnh Con số này là ít hơn 2% của chi phí cho y tế toàn nhân. Điều rõ ràng cần có là đánh giá lại tỉ mỉ và cầu - một con số quá khiêm tốn cho một ngành nghề chính thức việc đào tạo cán bộ chuyên môn y tế để cần có nhiều sức lao động và tài năng. Chi phí trung so sánh với công việc đầy hoài bão của một thế kỷ bình cho một người tốt nghiệp ra trường là 113.000 trước đây. đô la đối với sinh viên y khoa và 46.000 đô la cho Đây chính là lý do mà một Ủy ban gồm 20 nhà điều dưỡng viên, với chi phí đơn vị là cao nhất ở Bắc lãnh đạo chuyên môn và hàn lâm đến từ các nước Mỹ và thấp nhất ở Trung Quốc. Các hệ thống quản khác nhau cùng xây dựng một tầm nhìn và chiến lý, kiểm định chất lượng và học tập đều yếu và được lược chung về giáo dục đại học trong y khoa, điều thực hiện không đồng đều trên thế giới. Các phân dưỡng, và y tế công cộng (YTCC) với phạm vi vượt tích của chúng tôi đã cho thấy việc khan hiếm thông qua cả biên giới các quốc gia và lô-cốt của từng tin và nghiên cứu về đào tạo chuyên môn y tế. Mặc chuyên môn đơn lẻ. Ủy ban đã chấp nhận một nhãn dù nhiều cơ sở đào tạo ở tất cả các khu vực đã khởi quan toàn cầu, một quan điểm đa ngành, và một động các sáng kiến đổi mới nhưng chỉ có ít những cách tiếp cận hệ thống. Khuôn khổ toàn diện này đề bằng chứng mạnh mẽ về hiệu quả của những cải cập các mối liên hệ giữa hệ thống giáo dục đào tạo cách này. và y tế. Nó chú trọng đến con người vừa là người tạo ra vừa là người điều khiển những sự cần thiết và nhu Cải cách cho thế kỷ thứ hai cầu của cả 2 hệ thống giáo dục và y tế. Bằng tương Ba thế hệ cải cách giáo dục đã đem lại tiến bộ tác thông qua thị trường lao động, công tác giáo dục trong thế kỷ qua. Thế hệ thứ nhất được khởi động đào tạo đã cung ứng một lực lượng lao động đã qua vào đầu thế kỷ 20 với chương trình giảng dạy dựa đào tạo để thỏa mãn nhu cầu là có những cán bộ trên khoa học. Khoảng giữa thế kỷ, thế hệ thứ hai chuyên môn làm việc trong hệ thống y tế. Để có được thực hiện với những đổi mới giảng dạy dựa được các kết quả với hiệu quả tích cực về sức khỏe, trên vấn đề. Thế hệ thứ ba hiện nay đang cần phải các hệ thống đào tạo chuyên môn thành viên phải dựa trên những hệ thống để tăng cường hoạt động xây dựng được các chiến lược mới về giảng dạy và của các hệ thống y tế bằng việc áp dụng phù hợp cơ sở đào tạo. các năng lực chuyên môn chủ chốt trong những hoàn cảnh cụ thể trong khi vẫn vận dụng tri thức của Các kết quả chính thế giới. Trên thế giới, có 2420 trường đại học y khoa, Để thúc đẩy những cải cách ở thế thệ thứ ba, Ủy 467 trường đại học hoặc khoa y tế công cộng và một ban đề xuất một tầm nhìn là tất cả cán bộ chuyên số lượng không xác định các cơ sở đào tạo điều môn y tế ở tất cả các nước cần được đào tạo để vận dưỡng đại học để đào tạo mới khoảng 1 triệu bác sĩ, dụng tri thức, đưa ra những lý lẽ lập luận và ứng xử y tá điều dưỡng, nữ hộ sinh, và cán bộ chuyên môn đạo đức để họ có thể đủ năng lực tham gia vào một YTCC hàng năm. Sự thiếu hụt nghiêm trọng các cơ hệ thống y tế, trong đó người bệnh và quần thể là sở đào tạo càng trở nên trầm trọng vì sự phân bố trung tâm, với tư cách là những thành viên của tập không đồng đều của các cơ sở này cả ở trong và giữa thể đội ngũ đáp ứng với yêu cầu của đất nước và Tạp chí Y tế Công cộng, 1.2011, Số 17 (17) 5
  3. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | hợp tác toàn cầu. Mục đích cuối cùng là bảo đảm dụng phù hợp các năng lực này để thay đổi nhanh bao phủ phổ cập các dịch vụ toàn diện có chất lượng chóng các điều kiện trong nước dựa trên các nguồn cao và đó là điều thiết yếu để đạt được cơ hội cho lực toàn cầu; tăng cường đào tạo liên ngành và công bằng sức khỏe ở trong và giữa các nước. xuyên ngành để có thể phá vỡ các lô-cốt của từng Để thực hiện tầm nhìn này cần có một loạt chuyên ngành đồng thời tăng cường các quan hệ những cải cách về giảng dạy và cơ sở đào tạo theo hợp tác và không phân biệt giai tầng trong một tập định hướng của hai kết quả dự kiến: học tập mang thể làm việc có hiệu quả; khai thác hiệu quả của tính chuyển đổi và tương hỗ lẫn nhau trong đào tạo. công nghệ thông tin cho việc học tập; tăng cường Chúng tôi coi học tập để chuyển đổi là cấp độ cao các nguồn lực đào tạo với việc chú trọng vào phát nhất trong 3 cấp độ kế tiếp nhau từ học tập để tiếp triển đội ngũ giảng dạy; và nâng cao một phẩm chất nhận kiến thức và kỹ năng, học tập để hình thành chuyên môn mới sử dụng các năng lực là những tiêu rồi đến học để chuyển đổi. Học để tiếp nhận là việc chí khách quan để phân loại cán bộ chuyên môn y học để có kiến thức và kỹ năng; mục đích là đào tạo tế và xây dựng những giá trị chung về trách nhiệm được các chuyên gia. Học để hình thành là việc xã xã hội. Cải cách cơ sở đào tạo cần: thiết lập ở mỗi hội hóa sinh viên về những giá trị; mục đích là tạo nước các cơ chế lập kế hoạch về đào tạo và y tế ra các cán bộ chuyên môn. Học để chuyển đổi là chung có chú ý đến các khía cạnh cơ bản như nguồn phát triển những thuộc tính lãnh đạo; mục đích là gốc xã hội, phân bố tuổi, và thành phần giới của đào tạo ra những tác nhân thay đổi có tri thức. Mỗi nhân lực y tế; mở rộng các trung tâm học thuật cấp độ trong đào tạo có hiệu quả làm được xây dựng thành hệ thống học thuật bao gồm cả các mạng lưới dựa trên cấp độ đã có trước. Là một kết quả được bệnh viện và các đơn vị chăm sóc tuyến ban đầu; coi trọng, học để thay đổi bao gồm 3 bước chuyển cùng kết nối thông qua các mạng lưới toàn cầu, các cơ bản: từ việc ghi nhớ những gì đã có đến nghiên liên minh, và các hiệp hội; và hỗ trợ một văn hóa cứu tìm tòi, phân tích, và tổng hợp thông tin cho việc phản biện tích cực. ra quyết định; từ chỉ tìm kiếm những phẩm chất Thực hiện các cải cách này sẽ gặp phải nhiều chuyên môn đến đạt được các năng lực chủ chốt cho rào cản. Vì vậy các khuyến nghị của chúng tôi cần tập thể làm việc hiệu quả trong hệ thống y tế; và từ có một loạt các hành động hỗ trợ. Trước hết là sự việc chấp nhận các mô hình đào tạo mà không có tham gia rộng rãi của lãnh đạo ở tất cả các cấp - địa phản biện đến việc áp dụng sáng tạo các nguồn lực phương, quốc gia và toàn cầu - sẽ rất quan trọng quốc tế để giải quyết các vấn đề trong nước. Sự trong việc đạt được các cải cách và kết quả đã đề tương hỗ lẫn nhau là một thành phần chính trong xuất. Phải có sự lãnh đạo từ trong các cộng đồng học phương cách tiếp cận hệ thống vì nó nhấn mạnh các thuật và chuyên môn, nhưng sự lãnh đạo đó phải cách thức mà các cấu phần khác nhau tương tác với được các nhà lãnh đạo chính trị trong chính quyền nhau. Là một kết quả mong đợi, tương thuộc trong và xã hội ủng hộ. Thứ hai là phải vượt qua được đào tạo cũng bao gồm 3 bước chuyển cơ bản: từ các những thiếu hụt tài chính hiện nay với việc mở rộng hệ thống đào tạo và y tế biệt lập đến các hệ thống đầu tư đáng kể trong đào tạo chuyên môn y tế từ tất đào tạo và y tế hài hoà; từ các cơ sở đào tạo độc lập cả các nguồn: công lập, tư nhân, viện trợ phát triển, đến các mạng lưới, liên minh và hiệp hội của các cơ và các quỹ. Thứ ba là các cơ chế quản lý bao gồm sở đào tạo, và từ những quan tâm hướng nội trong cả việc công nhận trách nhiệm xã hội, cần phải cơ sở đào tạo đến tận dụng những luồng giao lưu được tăng cường để đảm bảo có thể có các kết quả quốc tế về nội dung đào tạo, nguồn lực giảng dạy, tốt nhất với bất kỳ mức độ kinh phí nào. Cuối cùng, và những đổi mới. chia sẻ học tập bằng việc hỗ trợ đo lường, đánh giá, Học để chuyển đổi là một kết quả được đề ra và nghiên cứu cần được tăng cường để xây dựng cơ của những cải cách giảng dạy; tương thuộc trong sở kiến thức về những đổi mới nào là có hiệu quả đào tạo cần là kết quả của các cải cách cơ sở đào trong những hoàn cảnh nào. tạo. Dựa trên cơ sở các khái niệm chính này, Ủy ban Cán bộ chuyên môn y tế đã đóng góp rất nhiều đã đưa ra một loạt các khuyến nghị cụ thể nhằm cải cho y tế và phát triển trong thế kỷ trước nhưng sự thiện hoạt động của hệ thống. Các cải cách về giảng tự mãn chỉ sẽ duy trì áp dụng không hiệu quả các dạy cần: chấp nhận các phương pháp tiếp cận dựa chiến lược giáo dục của thế kỷ 20 đã không còn phù trên năng lực đối với việc thiết kế giảng dạy, áp hợp để đương đầu với các thách thức của thế kỷ 21. 6 Tạp chí Y tế Công cộng, 1.2011, Số 17 (17)
  4. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Bởi vậy, chúng tôi kêu gọi một phong trào xã hội môn y tế có năng lực, chu đáo và cam kết đang thay mang tính toàn cầu của tất cả các bên có liên quan đổi nhanh chóng cả về không gian và thời gian. - những nhà giáo dục, sinh viên và cán bộ y tế trẻ Tuổi thọ con người tăng gấp đôi một cách ngoạn tuổi, các cơ quan chuyên môn, các trường đại học, mục trong thế kỷ 20 đã đóng góp vào cải thiện mức các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan quốc tế, các sống và tiến bộ về tri thức. Bằng chứng phong phú nhà tài trợ và các quỹ - có thể thúc đẩy hành động cho thấy rằng có sức khoẻ tốt ít nhất cũng phải là cho tầm nhìn và các khuyến nghị này nhằm đẩy một phần dựa vào tri thức và động lực xã hội. Kiến mạnh một thế kỷ mới của giáo dục đào tạo chuyên thức khoa học không chỉ tạo ra công nghệ mới mà môn đổi mới. Kết quả sẽ là những hệ thống y tế có còn trao quyền cho người dân chấp nhận lối sống tính công bằng hơn và hoạt động tốt hơn so với lành mạnh, cải thiện hành vi tìm kiếm chăm sóc, và hiện nay, với những ích lợi tất yếu cho người bệnh trở thành những công dân chủ động và có ý thức về và các quần thể ở mọi nơi trong thế giới tương hỗ quyền của mình. Ngoài ra, tri thức được chuyển lẫn nhau của chúng ta. thành minh chứng có thể dẫn đường cho thực hành và chính sách. Hệ thống y tế là các cơ sở khác nhau có định hướng xã hội với mục đích đầu tiên là cải thiện sức khoẻ, làm tăng tầm quan trọng của các Phần 1 yếu tố xã hội mang tính quyết định và các trào lưu Đặt vấn đề xã hội trong y tế. Trong các nỗ lực này, những cán bộ chuyên môn đóng vai trò trung gian cơ bản để áp Thông tin cơ bản và cơ sở hợp lý dụng tri thức nhằm cải thiện sức khoẻ. Nhiều bằng chứng cho thấy rằng độ bao phủ và số lượng cán bộ Những thách thức phức hợp chuyên môn y tế có tác động trực tiếp đến kết quả sức khoẻ. Cán bộ chuyên môn y tế là những người Sức khoẻ là tất cả những gì con người cần có. cung cấp dịch vụ kết nối mọi người với công nghệ, Ngoài sự hào nhoáng bề mặt của công nghệ hiện thông tin và tri thức. Họ cũng là người chăm sóc, đại, khoảng không cốt lõi của mọi hệ thống y tế tuyên truyền viên và nhà giáo dục, thành viên làm được lấp đầy bằng sự giao dịch duy nhất giữa một việc trong nhóm, nhà quản lý, nhà lãnh đạo, và nhà nhóm người cần dịch vụ và một nhóm được giao phó hoạch định chính sách. Là người trung gian về kiến để cung cấp dịch vụ. Sự giao phó này có được thông thức, các cán bộ chuyên môn y tế là những khuôn qua một kết hợp đặc biệt của năng lực kỹ thuật và mặt đại diện của hệ thống y tế. Có thể cho rằng, định hướng dịch vụ với cam kết đạo đức và trách những cải cách đầy ấn tượng trong đào tạo những nhiệm xã hội, và điều này hình thành nên bản chất cán bộ chuyên môn y tế đã là chất xúc tác trong gặt của công tác chuyên môn. Xây dựng nên sự kết hợp hái thành tựu y tế trong thế kỷ qua. Sau khi có phát kể trên cần có đào tạo lâu dài và đầu tư thích đáng kiến lý thuyết mầm bệnh ở châu Âu, những năm đầu của cả sinh viên và xã hội. Thông qua một chuỗi các thế kỷ 20 đã chứng kiến cải cách sâu rộng trong đào công việc từ học tập hiệu quả đến các dịch vụ chất lượng cao cho sức khoẻ được cải thiện, đào tạo chuyên môn với chất lượng tốt nhất sẽ góp phần thiết yếu cho phồn vinh của các cá nhân, gia đình và của cộng đồng. Tuy nhiên, hoàn cảnh, nội dung và điều kiện của những nỗ lực xã hội để đào tạo những cán bộ chuyên Hình 1. Các báo cáo của Flexner, Welch-Rose, và Goldmark. Tạp chí Y tế Công cộng, 1.2011, Số 17 (17) 7
  5. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | tạo chuyên môn trên thế giới. Đầu thế kỷ 20 ở Hoa Kỳ những báo cáo của Flexner, Welch-Rose, và Goldmark đã thay đổi việc đào tạo đại học các bác sĩ, cán bộ chuyên môn YTCC và điều dưỡng viên (Hình 1). Những nỗ lực này nhằm đưa nền tảng khoa học vào trong đào tạo cán bộ chuyên môn y tế và mở rộng ra các lĩnh vực y tế khác. Tuy nhiên, những thiếu hụt rõ ràng và bất công bằng trầm trọng vẫn tồn tại ở ngành y tế cả trong và giữa các nước trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21. Một tỷ lệ lớn trong số 7 tỷ người sống trên hành tinh này phải chịu đựng những tình trạng sức khỏe của một Hình 2. Các thách thức mới nảy sinh của hệ thế kỷ trước đây. Nhiều người phải đối mặt với xung thống Y tế đột và bạo lực. Những thành quả y tế đã bị đảo ngược với sự sụt giảm tuổi thọ trung bình ở một số nước, cụ thể như ở Cận Sa-ha-ra châu Phi, là do bị linh hoạt đã đào tạo ra những sinh viên tốt nghiệp ra ảnh hưởng của đại dịch HIV/AIDS. Người nghèo ở trường không được trang bị đầy đủ từ những cơ sở các nước đang phát triển tiếp tục bị các nhiễm đào tạo với tài chính nghèo nàn. Ở hầu hết các nước, khuẩn phổ biến, suy dinh dưỡng, và các nguy cơ sức công tác đào tạo cán bộ chuyên môn y tế đã không khỏe liên quan đến thai sản - những vấn đề đã được đưa ra được những khắc phục cho hệ thống y tế hoạt kiểm soát từ lâu ở các quần thể sung túc hơn. Đối động kém và không mang tính công bằng vì chương với những người bị bỏ lại phía sau thì những tiến bộ trình giảng dạy cứng nhắc, có các lô-cốt chuyên ngoạn mục về y tế trên thế giới lại là một lý do để ngành, phương pháp dạy học trì trệ (tức là khoa học lên án sự thất bại chung của chúng ta trong việc đảm giảng dạy), không phù hợp hóa đầy đủ với bối cảnh bảo sự chia sẻ công bằng tiến bộ về y tế. trong nước, và tính thương mại hóa trong chuyên Đồng thời, an toàn sức khỏe đang bị thách thức môn. Đặc biệt đáng chú ý là sự thất bại trong chăm với các nhiễm khuẩn mới, những đe dọa về môi sóc ở tuyến ban đầu tại cả các nước giàu và nghèo. trường và hành vi cộng với những di biến động về Các thất bại này mang tính hệ thống-cán bộ chuyên nhân khẩu học và dịch tễ học. Hệ thống y tế đang môn không theo kịp nhịp độ và trở thành các nhà phải xoay sở để giữ vững và đang trở nên phức tạp quản lý công nghệ thuần túy, và làm trầm trọng thêm và tốn kém hơn, đòi hỏi thêm nhiều yêu cầu đối với những bất cập lâu dài như việc ngại ngùng đi phục cán bộ y tế. vụ các cộng đồng bị thiệt thòi ở vùng nông thôn. Cán Ở nhiều nước, các bộ chuyên môn phải tiếp xúc bộ chuyên môn thiếu những năng lực cần thiết cho với người bệnh đa dạng nhiều hơn về mặt xã hội với làm việc tập thể nhóm và họ không thực hiện lãnh tình trạng mãn tính và là những người chủ động hơn đạo hiệu quả để thay đổi hệ thống y tế. trong hành vi tìm kiếm sức khỏe. Cần phải có sự Cả các nước giàu và nghèo đều bị thiếu nhân chăm sóc điều trị được điều phối cả về không gian lực, mất cân bằng trong cơ cấu nhân lực cán bộ và và thời gian, và làm việc tập thể nhóm trước đây phân bố cán bộ không đồng đều. Đào tạo cán bộ chưa có trong việc quản lý người bệnh. Cán bộ chuyên môn không tạo ra giá trị tiền bạc cao ở cả chuyên môn phải kết hợp sự phát triển bùng nổ của các nước giàu và nghèo. Khó khăn trong việc thiết tri thức và công nghệ trong lúc phải đảm đương mở kế và chậm chạp thực hiện, cải cách giáo dục ở rộng các chức năng - siêu chuyên môn hóa, dự nước giàu nhằm phát triển các năng lực chuyên phòng và quản lý điều trị phức hợp ở nhiều nơi, kể môn để đáp ứng các nhu cầu sức khỏe đang thay cả các loại hình cơ sở khác nhau ngoài việc chăm đổi, khắc phục các lô-cốt chuyên môn thông qua sóc điều trị tại nhà và tại cộng đồng (Hình 2). đào tạo liên ngành, phát huy cách học với trợ giúp Kết quả là có một khủng hoảng dần dần phát của công nghệ thông tin, tăng cường các kỹ năng triển trong sự không tương xứng của năng lực chuyên nhận thức cho lập luận phản biện, và củng cố bản môn với các ưu tiên của người bệnh và quần thể do sắc và giá trị chuyên môn đối với sự lãnh đạo trong chương trình giảng dạy manh mún, lỗi thời, và không y tế. Đặc biệt cải cách là vấn đề thách thức ở các 8 Tạp chí Y tế Công cộng, 1.2011, Số 17 (17)
  6. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | nước nghèo vì những khó khăn do các nguồn lực nguồn lực y tế chủ chốt, đặc biệt là các nhân viên cực kỳ khan hiếm. Nhiều nước đang cố gắng mở có kỹ năng. rộng các dịch vụ thiết yếu thông qua việc triển khai Bên cạnh thay đổi với nhịp độ nhanh chóng các nhân viên y tế tuyến cơ sở, ngay khi hàng triệu trong y tế, có một cuộc cách mạng song song trong người đang phải đến với những nhà cung cấp dịch giáo dục đào tạo. Sự gia tăng bùng nổ không chỉ vụ không có bằng cấp về y cả truyền thống và hiện trong toàn bộ khối lượng thông tin mà còn trong đại. Với nỗ lực để đạt được các mục tiêu y tế, nhiều việc dễ dàng tiếp cận thông tin, điều đó có nghĩa nước nghèo đã hướng nguồn tài chính từ nhà tài trợ rằng vai trò của các trường đại học và các cơ sở đào bên ngoài để thực hiện các sáng kiến nhắm mục tạo khác cần phải được xem xét lại. Tất nhiên học tiêu vào bệnh tật. Kết quả là ở nhiều nước, đào tạo tập vẫn luôn thu lượm nhiều kinh nghiệm, ngoài chuyên môn cấp đại học đã không được đưa vào việc giảng dạy chính thống, thông qua tất cả các chương trình nghị sự về chính sách và bị lãng quên loại tương tác nhưng nội dung thông tin và tiềm đi bởi tình trạng khẩn cấp hoặc các dự án hành năng học tập là hiện tại hôm nay chứ không có tiền động cấp bách và bị coi là quá tốn kém, không phù lệ. Trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng này, các hợp hoặc quá dài. trường đại học và cơ sở đào tạo đang mở rộng vai Sự phục hưng cho tính chuyên nghiệp mới - lấy trò truyền thống của mình là nơi để mọi người đến người bệnh làm trọng tâm và dựa vào làm việc tập thu nhận thông tin (v.d. tham khảo sách trong thư thể nhóm - đã được bàn luận nhiều, nhưng thiếu sự viện hoặc lên lớp nghe các giảng viên chuyên môn) lãnh đạo, khuyến khích, và thẩm quyền để thực để tổng hợp các hình thức học tập mới tốt hơn những hiện lời hứa. Một vài nỗ lực để xác định lại vai trò bó buộc của lớp học. Thế hệ học viên mới cần năng và trách nhiệm tương lai của cán bộ chuyên môn y lực để xử lý khối lượng thông tin lớn để rút ra và tế vẫn quẩn quanh giữa cái gọi là chủ nghĩa cục bộ tổng hợp kiến thức cần thiết cho việc ra quyết định cứng nhắc làm những nỗ lực đó không thành hiện để điều trị và cho quần thể. Những diễn biến này thực. Đã có sự vận động mạnh mẽ cho các nhóm tạo ra cơ hội mới cho những phương pháp, công cụ hành nghề chuyên môn cụ thể, nhưng không có một và ý nghĩa của công tác đào tạo. chiến lược tổng thể cho một cộng đồng cán bộ Chưa từng bao giờ vấn đề sức khỏe nổi bật của chuyên môn y tế quy mô lớn hơn để làm việc cùng công chúng nói chung và sức khỏe toàn cầu nói nhau nhằm đáp ứng nhu cầu sức khỏe của cá nhân riêng lại tạo ra một môi trường thuận lợi để thay đổi và quần thể. Đã có một vài nỗ lực đầy ý nghĩa gần đến thế. Sức khỏe ảnh hưởng những vấn đề toàn cầu đây để cố gắng giải quyết các yếu điểm này nhưng thúc bách nhất của thời đại chúng ta: phát triển kinh chúng vẫn còn chưa đủ. tế xã hội, an ninh quốc gia và an toàn con người, và phong trào toàn cầu vì quyền con người. Giờ đây Các cơ hội mới chúng ta hiểu rằng sức khỏe tốt không chỉ là kết quả Các cơ hội đang mở ra cho một thời kỳ cải cách mà còn là một điều kiện cho phát triển, an ninh và mới để hình thành giáo dục chuyên môn cho thế kỷ các quyền. Đồng thời, việc tiếp cận được chăm sóc 21 được thúc đẩy bằng việc học tập lẫn nhau nhờ có y tế chất lượng cao với bảo đảm tài chính cho mọi sự tương hỗ lẫn nhau trong y tế, thay đổi trong người đã trở thành một trong những ưu tiên chính trị phương pháp giáo dục, vấn đề sức khỏe nổi bật của đối nội chủ yếu trên toàn thế giới. công chúng, và nhận thức ngày càng tăng về tính Đánh giá và quy hoạch lại đầy đủ và chính thức nhất thiết phải thay đổi. Điều nghịch lý là dù có việc đào tạo cán bộ chuyên môn y tế phải được đảm những khác biệt rõ ràng, sự tương hỗ lẫn nhau trong bảo để đáp ứng mong muốn của những nhà cải cách y tế vẫn gia tăng và các cơ hội cho việc học tập lẫn ở thế kỷ trước. Một đánh giá như thế nhất thiết phải nhau và chia sẻ tiến bộ đã được mở rộng nhiều. Sự mang tính toàn cầu và đa ngành, xuyên suốt các di chuyển mang tính toàn cầu của con người, tác quốc gia và khu vực. Cải cách cho thế kỷ 21 là đúng nhân gây bệnh, công nghệ, tài chính, thông tin, và lúc vì sự nhất thiết phải liên kết các năng lực tri thức làm thành nền tảng cho thuyên chuyển quốc chuyên môn với bối cảnh đang thay đổi, sự tham gia tế các nguy cơ và cơ hội sức khỏe, và những giao ngày càng tăng của công chúng trong y tế, và sự lưu xuyên biên giới quốc gia cũng đang gia tăng. tương thuộc toàn cầu, kể cả mong muốn chia sẻ về Chúng ta ngày càng tương thuộc với nhau về các bình đẳng trong sức khỏe. Tạp chí Y tế Công cộng, 1.2011, Số 17 (17) 9
  7. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Công tác của Ủy ban cấp phát bằng cấp chính thức. Mặc dù định nghĩa Ủy ban về đào tạo cán bộ chuyên môn y tế cho này không bao gồm hầu hết các nhân viên y tế cộng thế kỷ 21 được thành lập tháng 1 năm 2010. Sáng đồng và tuyến dưới và đã có sự gia tăng đáng kể các kiến độc lập này được lãnh đạo bởi một nhóm đa loại hình nghề nghiệp hoặc chuyên môn mới, chúng dạng gồm 20 ủy viên trên khắp thế giới đã thông tôi chú trọng chủ yếu vào chuyên môn truyền thống qua một quan điểm mang tính toàn cầu nhằm tăng với sự nhấn mạnh đặc biệt đối với y khoa, điều cường công tác y tế bằng việc khuyến nghị những dưỡng - hộ sinh, và y tế công cộng (YTCC). Những đổi mới trong giảng dạy và các cơ sở đào tạo để hỗ phân tích và khuyến nghị của chúng tôi là dành cho trợ một thế hệ mới các cán bộ chuyên môn y tế - tất cả các chuyên ngành y tế. Tuy nhiên phân định những người sẽ được trang bị tốt nhất để giải quyết giữa các chuyên ngành y tế không được phác họa rõ các thách thức hiện tại và tương lai trong y tế. ràng, tất cả đều phụ thuộc vào quá trình đào tạo Webappendix/Phụ lục trang 1-5 liệt kê tên các nhằm phát triển kiến thức, kỹ năng và các giá trị để thành viên của Ủy ban và các cơ quan tư vấn của cải thiện sức khỏe cho người bệnh và quần thể. Vì Ủy ban. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu, thảo luận vậy, có sự liên kết cơ bản giữa một mặt là đào tạo và tham vấn trong 1 năm. Thời gian có hạn đã ảnh chuyên môn và mặt khác là tình trạng sức khỏe. Ví hưởng tới quy mô và chiều sâu của các cuộc tham lý do này nên Ủy ban đã xây dựng một khung nhằm vấn, thu thập và phân tích dữ liệu. Mục tiêu của mục đích để hiểu rõ hơn các tương tác phức hợp giữa chúng tôi là xây dựng một tầm nhìn mới với các hai hệ thống: giáo dục đào tạo và y tế (hình 3). khuyến nghị thực tiễn về các hành động cụ thể có thể tạo ra các bước cho việc chuyển đổi đào tạo cán bộ chuyên môn y tế ở tất cả các nước cả giàu lẫn nghèo. Công việc của Ủy ban là nhằm đánh dấu 100 năm kỷ niệm của báo cáo Flexner năm 1910 - một báo cáo đã phát triển mạnh mẽ công tác đào tạo y khoa trên khắp thế giới. Khung khái niệm thống nhất Ủy ban bắt đầu công việc bằng xác định mục tiêu về nghiên cứu của mình - đào tạo cán bộ chuyên môn y tế. Sự phân chia lao động hiện tại giữa các chuyên ngành y tế khác nhau là một sự xây Hình 3. Khung khái niệm hệ thống. dựng mang tính xã hội có kết quả từ các tiến trình lịch sử phức tạp xung quanh các tiến bộ khoa học, phát triển công nghệ, quan hệ kinh tế, quan tâm Ngược lại với các khung khác, trong đó quần thể chính trị, và các hình thái giá trị văn hóa và niềm là ngoại sinh đối với hệ thống y tế hoặc giáo dục, tin. Bản tính năng động của các ranh giới nghề quan điểm của chúng tôi coi quần thể là nền tảng nghiệp được nhấn mạnh bởi những đấu tranh liên và là động lực của các hệ thống này. Con người tạo tục giữa các nhóm chuyên môn khác để phân định ra các nhu cầu cả trong giáo dục và y tế, và ngược các lĩnh vực hoạt động tương ứng. Việc phân chia lại có thể được chuyển thành yêu cầu đòi hỏi về các lao động ở bất cứ thời điểm cụ thể nào và trong bất dịch vụ giáo dục và y tế. Việc cung cấp các dịch vụ kỳ xã hội cụ thể nào thường là kết quả của các tác giáo dục tạo nguồn cung cấp lực lượng lao động động xã hội này nhiều hơn bất cứ thuộc tính cố hữu được đào tạo đáp ứng yêu cầu về cán bộ chuyên nào của công việc liên quan đến y tế. môn làm việc trong hệ thống y tế. Tất nhiên con Phần lớn trong báo cáo này chúng tôi tiếp tục đề người ta không chỉ là người hưởng dịch vụ mà còn cập các chuyên ngành y tế theo cách quy ước. là người đồng đào tạo thực sự của của chính giáo Chúng tôi chú trọng vào cán bộ y tế đã hoàn thành dục và y tế. giáo dục đại học - chủ yếu từ các trường đại học Trong phương pháp tiếp cận hệ thống này, tính hoặc các cơ sở đào tạo bậc cao khác được pháp luật tương thuộc của ngành y tế và giáo dục là rất lớn. cho phép chứng nhận thành quả học tập bằng việc Sự cân bằng giữa hai hệ thống mang tính thiết yếu 10 Tạp chí Y tế Công cộng, 1.2011, Số 17 (17)
  8. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | cho hiệu suất, hiệu quả và công bằng. Mỗi quốc gia bậc cao khác tạo ra các bằng chứng về những thiếu có một lịch sử của riêng mình, và những gia tài của sót của hệ thống y tế và về những giải pháp tiềm quá khứ định hình cả hiện tại và tương lai. Có hai năng. Thông qua chức năng giáo dục đào tạo của đầu mối cơ bản trong khung này. Thứ nhất là thị mình, các cơ sở đào tạo ra các cán bộ chuyên môn trường lao động chi phối sự phù hợp hay không phù có thể thực hiện đổi thay trong các tổ chức là nơi họ hợp giữa cung và cầu về cán bộ chuyên môn y tế, làm việc. và thứ hai là năng lực yếu kém của nhiều quần thể, Ngoài các mối liên kết của thị trường lao động, đặc biệt là nhóm người nghèo, để chuyển các nhu hệ thống giáo dục và y tế cùng có chung một điểm cầu về giáo dục và y tế thành các đòi hỏi hiệu quả được người ta nghĩ đến như là một tiểu hệ thống cho những dịch vụ về y tế và giáo dục tương ứng. chung - gọi là tiểu hệ thống đào tạo cán bộ chuyên Trong hoàn cảnh tối ưu, có sự cân bằng giữa các nhu môn y tế. Trong khi tại một vài nước các trường đào cầu của quần thể, các đòi hỏi của hệ thống y tế về tạo cán bộ chuyên môn y tế ở dưới quyền quản lý cán bộ chuyên môn, và sự cung ứng những cán bộ của Bộ y tế thì ở các nước khác chúng lại thuộc đó của hệ thống giáo dục đào tạo. Các cơ sở giáo quyền của Bộ giáo dục. Không kể đến vấn đề hành dục đào tạo sẽ cho biết được đào tạo được bao nhiêu chính này thì tiểu hệ thống giáo dục đào tạo cán bộ và loại hình cán bộ nào được đào tạo. Lý tưởng nhất chuyên môn y tế có tính năng động của riêng mình là họ làm như thế để đáp ứng lại các dấu hiệu thị nhờ có vị trí ở giữa hai hệ thống xã hội chủ yếu. Suy trường lao động được các cơ sở y tế đưa ra và các cho cùng thì khoảng không gian chăm sóc y tế cũng dấu hiệu này cần đáp ứng đúng đắn nhu cầu của là khoảng không gian giáo dục đào tạo, trong đó có quần thể. đào tạo tại chức các cán bộ chuyên môn tương lai. Tuy nhiên, trong thực tế thị trường lao động cho Liên kết giữa các hệ thống giáo dục và y tế cán bộ chuyên môn y tế thường có những đặc điểm cũng phải đề cập đến các mô hình cung cấp dịch vụ tạo nên bởi nhiều sự mất cân đối, trong đó quan và các mô hình đó sẽ xác định cơ cấu nhân sự của trọng nhất là sự cung ứng không đầy đủ, thất nghiệp nhân viên y tế và phạm vi thay đổi công việc. Ngoài và thiếu việc làm - những điều này có thể lượng hoá các khía cạnh về quản lý, cũng có phạm trù chính được (làm việc không toàn thời gian) hoặc định tính trị vì cán bộ chuyên môn y tế không thể hoạt động hoá (sử dụng các kỹ năng không ở mức tối ưu). Để cô lập mà thường được tổ chức thành các nhóm có tránh những mất cân đối này, hệ thống giáo dục đào chung quyền lợi. Hơn nữa, các chính phủ thường tạo phải đáp ứng được các yêu cầu của hệ thống y luôn có ảnh hưởng đối với việc cung cấp cán bộ tế. Tuy nhiên, nguyên lý này không có hàm ý về vị chuyên môn y tế để đáp ứng với tình huống chính trí thứ yếu của hệ thống giáo dục đào tạo. Chúng ta trị hơn so với tính phù hợp của thị trường hoặc thực thấy các cơ sở giáo dục có vai trò thiết yếu để thay tế về dịch tễ học. Cuối cùng, các thị trường lao động đổi hệ thống y tế. Thông qua vai trò nghiên cứu và dành cho cán bộ chuyên môn y tế không chỉ có trong lãnh đạo, các trường đại học và các cơ sở giáo dục nước và cả trên phạm vi toàn cầu. Những cán bộ với những phẩm chất được quốc tế công nhận thì cũng xảy ra việc di cư ngày càng tăng. Sau khi định rõ các mối liên kết giữa các lĩnh vực y tế và giáo dục đào tạo, khung của chúng tôi xác định được 3 khía cạnh chủ yếu của giáo dục: Quy hoạch cơ sở đào tạo (cụ thể hoá cơ cấu và chức năng của hệ thống giáo dục đào tạo), quy hoạch giảng dạy (chú trọng vào các tiến trình), và kết quả đầu ra của giáo dục đào tạo (liên quan đến các kết quả mong muốn; (Hình 4). Các khía cạnh về cả quy hoạch cơ sở đào tạo và giảng dạy đã được trình bày trong những báo cáo gốc của thế kỷ 20, trong đó tìm câu trả lời không chỉ cho câu hỏi về việc dạy gì và Hình 4. Các cấu phần chủ chốt của hệ thống dạy như thế nào mà còn cho việc dạy ở đâu - có giáo dục đào tạo. nghĩa là loại hình tổ chức cần thực hiện chương trình Tạp chí Y tế Công cộng, 1.2011, Số 17 (17) 11
  9. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | giảng dạy. Tuy nhiên, ngược lại với các báo cáo bày với 4 chữ C (trong tiếng Anh): (1) tiêu chuẩn để khoảng một thế kỷ trước đây, chúng tôi coi các cơ tuyển chọn sinh viên vào học, bao gồm cả các biến sở đào tạo không chỉ là các tổ chức riêng lẻ mà còn số thành công như thành tích học tập trước kia và là cấu phần của một mạng lưới các tổ chức liên quan các biến số quy thuộc như nguồn gốc xã hội, nguồn với nhau thực hiện các chức năng đa dạng của một gốc chủng tộc hoặc dân tộc, giới tính, và quốc tịch; hệ thống giáo dục đào tạo. (2) năng lực, như được xác định trong quá trình thiết Bằng việc áp dụng phù hợp khung khái niệm kế chương trình giảng dạy; (3) các kênh/phương được xây dựng lúc đầu nhằm để hiểu hoạt động của thức giảng dạy - chúng tôi định nghĩa là một loạt các hệ thống y tế, chúng ta có thể nghĩ về 4 chức năng phương pháp lên lớp, công nghệ giảng dạy, và thiết yếu cũng có thể áp dụng cho hệ thống giáo phương thức truyền thông; và (4) con đường nghề dục đào tạo: (1) quản lý và quản trị bao gồm các nghiệp - là các lựa chọn mà những người đã tốt công cụ như quy chuẩn và chính sách, bằng chứng nghiệp ra trường có thể có khi đã hoàn thành việc cho việc ra quyết định, và đánh giá thực hiện công học tập chuyên môn vì đó là những kết quả mà họ việc nhằm đưa ra hướng dẫn chiến lược cho các cấu đã đạt được về mặt kiến thức và kỹ năng, quá trình phần khác nhau của hệ thống giáo dục đào tạo; (2) xã hội hoá chuyên môn mà họ đã được tiếp cận khi tài chính, bao gồm phân bổ toàn thể các nguồn lực còn là sinh viên, và những nhận thức của họ về các cho các cơ sở giáo dục từ các nguồn kể cả công và cơ hội tại những thị trường lao động trong và ngoài tư, và các phương thức cụ thể cho việc định rõ các nước (hình 4). dòng nguồn lực cho mỗi tổ chức giáo dục với các Những cơ cấu khác nhau về quy hoạch cơ sở đào khuyến khích tiếp theo; (3) tạo nguồn, quan trọng tạo và giảng dạy sẽ dẫn đến các kết quả đầu ra của nhất là phát triển đội ngũ giảng dạy; và (4) cung giáo dục đào tạo khác nhau. Trong đánh giá hoạt cấp dịch vụ, liên quan đến việc thực tế cung cấp động của bất kỳ hệ thống nào thì việc làm cho các dịch vụ giáo dục đào tạo như phản ánh được quy kết quả mong đợi được rõ ràng trở thành một thành hoạch giảng dạy. phần thiết yếu. Đối với Ủy ban của chúng tôi, hai Cách thức cơ cấu 4 chức năng trên đã làm rõ cấp kết quả đầu ra đã được đề xuất cho hệ thống đào tạo độ hệ thống được biểu thị trong Hình 4. Trong một cán bộ chuyên môn y tế - học tập để chuyển đổi và hệ thống, các tổ chức riêng lẻ sẽ khác biệt nhau tùy tính tương hỗ lẫn nhau trong giáo dục đào tạo. Học theo chủ quyền (v.d. công lập, tư nhân không lợi tập đổi mới là kết quả đầu ra được đề xuất cho việc nhuận và tư nhân có lợi nhuận), tình trạng phụ thuộc cải tiến trong quy hoạch giảng dạy; tính tương thuộc (v.d. độc lập, thành phần của một tổ hợp khoa học trong giáo dục cần bắt nguồn từ những cải cách của sức khoẻ, hoặc thành phần của một trường đại học cơ sở đào tạo (hình 4). Vì những vấn đề này là tổng hợp) và cơ cấu nội tại (v.d. là khoa hay không những khái niệm chỉ đạo cho những khuyến nghị là khoa). Các khía cạnh này đều quan trọng trong của chúng tôi cho nên chúng sẽ được bàn luận trong quy hoạch cơ sở đào tạo. Cấp độ toàn cầu cũng quan phần cuối của báo cáo này. trọng không kém. Chức năng quản lý cần được thực Thành phần cuối cùng trong khung của chúng hiện ở cấp quốc gia cần có đối tác toàn cầu, đặc biệt tôi, như thể hiện trong hình 4, đề cập tới vấn đề là về các định nghĩa có tính chất quy chuẩn về các tất cả các khía cạnh của hệ thống giáo dục đào tạo năng lực chủ chốt phổ biến mà tất cả các cán bộ có ảnh hưởng sâu sắc từ tình hình ở trong nước cũng chuyên môn y tế ở mỗi nước cần có. Một sự phát như trên toàn cầu. Mặc dù nhiều sự tương đồng có triển đang nổi lên trên bình diện toàn cầu liên quan thể được chia sẻ trên bình diện toàn cầu, vẫn có đến các hình thức tổ chức mới như mạng lưới và những sự đặc trưng và phong phú ở trong nước. Sự quan hệ đối tác đã tận dụng ưu thế của công nghệ đa dạng như vậy đã tạo ra những cơ hội để chia sẻ thông tin và truyền thông. việc giáo dục đào tạo giữa các nước ở mọi mức độ Để có một hiệu quả tích cực đối với hoạt động phát triển kinh tế. của hệ thống y tế và cuối cùng là các kết quả đầu ra về sức khoẻ đối với người bệnh và các quần thể, Số liệu và phương pháp các cơ sở giáo dục đào tạo phải được quy hoạch để Khung khái niệm được sử dụng để hướng dẫn tạo ra một tiến trình giảng dạy tối ưu. Quy hoạch nghiên cứu, tham vấn và viết báo cáo của Ủy ban. giảng dạy bao gồm những vấn đề có thể được trình Trang 6 -10 của Webappendix đưa ra số liệu và 12 Tạp chí Y tế Công cộng, 1.2011, Số 17 (17)
  10. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | phương pháp chi tiết cho công việc này. Dữ liệu những phỏng đoán của chúng tôi dựa trên các phân bao gồm bản tổng kết các xuất bản phẩm, ước tính loại chính của khung khái niệm. Việc phân tích quy định lượng, các nghiên cứu trường hợp định tính, và hoạch cơ sở đào tạo chủ yếu dựa vào số liệu định các bài viết nghiên cứu và được bổ sung bằng các lượng nhằm trình bày một phân tích toàn cầu về các tham vấn với các chuyên gia và cán bộ chuyên môn cơ sở đào tạo, sinh viên tốt nghiệp ra trường và trẻ. Chúng tôi đã tìm kiếm tất cả các bài viết được cung cấp tài chính, sau đó là các chức năng quản công bố có liệt kê trên PubMed và Medline phù hợp lý chủ chốt như kiểm định chất lượng, hệ thống với giáo dục đại học trong y khoa, điều dưỡng và y giảng dạy chuyên môn, phát triển đội ngũ giảng tế công cộng. Các cơ sở giáo dục Y khoa đại học dạy, và cộng tác trong chia sẻ học tập. Sau đó được tập hợp bằng việc kết hợp hai cơ sở dữ liệu chủ chúng tôi xem xét quy hoạch giảng dạy, chú trọng yếu: Quỹ vì sự tiến bộ của Giáo dục và Nghiên cứu vào mục đích, nội dung, phương pháp, và kết quả Y khoa quốc tế (FAIMER) và Avicenna, được cập đầu ra của quá trình học tập. Các thách thức được nhật với số liệu gần đây nhất của khu vực và quốc phân loại dựa vào 4 chữ C (tiếng Anh) đã được giải gia. Chúng tôi ước tính số cơ sở giáo dục y tế công thích trong khung khái niệm: tiêu chuẩn tuyển chọn cộng từ các website liên quan đến các khu vực, sinh viên nhập học, năng lực, kênh/phương thức nhưng số cơ sở điều dưỡng - hộ sinh không có số liệu giảng dạy, và con đường thăng tiến nghề nghiệp. để so sánh quốc tế. Do định nghĩa chưa rõ ràng, ước Trong tiểu phần cuối cùng chúng tôi đi xuyên suốt tính về các cơ sở y tế công cộng và điều dưỡng chưa khía cạnh cơ sở đào tạo và giảng dạy bằng việc được hoàn thiện. xem xét những thách thức về khả năng thích ứng ở Số lượng sinh viên tốt nghiệp y khoa và điều trong nước với một thế giới toàn cầu hoá mang tính dưỡng - hộ sinh được trích dẫn từ cả hai báo cáo trực tương hỗ lẫn nhau. Với sự đa dạng lớn của các hệ tiếp (v.d. từ Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thống y tế và giáo dục đào tạo, chúng tôi đề cập tới - OECD) và các ước tính luân chuyển hàng năm từ vấn đề là làm thế nào mà quy hoạch giảng dạy và mô hình nguồn điều dưỡng do TCYTTG báo cáo. cơ sở đào tạo có thể đạt hiệu quả trong những bối Chúng tôi không ước tính số lượng sinh viên tốt cảnh đa dạng trong khi đồng thời tận dụng sức nghiệp YTCC vì những hạn chế số liệu và khái mạnh của kho tàng và giao lưu kiến thức cũng như niệm. Ước tính tài chính được tính toán thông qua các nguồn lực khác trên toàn cầu? các phương pháp tiếp cận vi mô và vĩ mô. Phương pháp tiếp cận vi mô để ước tính cung cấp tài chính cho giáo dục đào tạo y khoa và điều dưỡng dựa trên Một thế kỷ của cải cách chi phí đơn vị của giáo dục đại học nhân với số sinh Để nắm bắt được những phát triển mang tính viên tốt nghiệp. Chúng tôi đã so sánh các kết quả lịch sử trong thế kỷ vừa qua, chúng tôi xác định có này với phương pháp vĩ mô được sử dụng để tính 3 thế hệ của cải cách (hình 5). Chúng tôi nhận thấy toán phần đóng góp của tài chính giáo dục đại học rằng, cũng như tất cả các cách phân loại khác, cách dành cho giáo dục y khoa và điều dưỡng. Mặc dù này làm đơn giản hoá thực tế đa chiều, và vì thế không được chính xác, độ hội tụ của hai phương việc phân loại của chúng tôi là rộng mở và phần nào pháp tiếp cận vi mô và vĩ mô cho ta một số đảm bảo mang tính bắt buộc. Tuy nhiên có các thông tin từ rằng phạm vi rộng trong ước tính của chúng tôi là việc phân tích lịch sử và chúng tôi tin rằng các phân thiết thực. loại này có giá trị tìm tòi. Cụm từ thế hệ mang ý nghĩa là sự phát triển này không phải là sự kế tiếp tuyến tính của những cải cách rõ ràng. Thay vào đó, các thành phần của từng thế hệ tồn tại theo thứ tự Phần 2 trước sau, có một hình thái thay đổi phức hợp và năng động. Thế hệ đầu tiên bắt đầu từ đầu thế kỷ Các kết quả chính 20 thấm nhuần với chương trình giảng dạy dựa trên Các kết quả chính của Ủy ban được trình bày cơ sở khoa học. Khoảng giữa thế kỷ, thế hệ thứ hai trong 4 tiểu phần. Tiểu phần thứ nhất mô tả những áp dụng những đổi mới giảng dạy dựa trên vấn đề. cải cách giáo dục của một thế kỷ được nhóm lại Thế hệ thứ ba đang cần thiết hiện nay phải nên dựa thành 3 thế hệ. Hai tiểu phần tiếp theo trình bày trên hệ thống. Tạp chí Y tế Công cộng, 1.2011, Số 17 (17) 13