Bắt nạt qua mạng ở học sinh trung học phổ thông và một số yếu tố liên quan

Mối liên quan giữa hiện tượng bắt nạt qua mạng (cyber bullying) và các yếu tố dân số học, một số đặc điểm cá nhân của vị thành niên được phân tích từ số liệu thu được của 1609 học sinh trung học phổ thông thuộc 6 trường tại Hà Nội, Thừa Thiên - Huế và Cần Thơ. Nghiên cứu điều tra cắt ngang, sử dụng có cập nhật, điều chỉnh thang đo của Putchin và Hinduja về bắt nạt qua mạng; cô lập xã hội (social isolation), thời gian chơi game online.

Số liệu thu được thông qua bộ câu hỏi tự điền khuyết danh. Tỷ lệ học sinh bị bắt nạt qua mạng trong 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu là 13,5%. Học sinh nam có xu hướng bị bắt nạt qua mạng nhiều hơn học sinh nữ. Học sinh ở Thành phố trải nghiệm bị bắt nạt qua mạng nhiều hơn học sinh nông thôn. Học sinh được bạn bè yêu mến hơn có xu hướng ít bị bắt nạt hơn học sinh ít được yêu mến. Học sinh dành nhiều thời gian chơi game online cũng bị bắt nạt nhiều hơn các học sinh khác

pdf 8 trang Bích Huyền 01/04/2025 80
Bạn đang xem tài liệu "Bắt nạt qua mạng ở học sinh trung học phổ thông và một số yếu tố liên quan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfbat_nat_qua_mang_o_hoc_sinh_trung_hoc_pho_thong_va_mot_so_ye.pdf

Nội dung text: Bắt nạt qua mạng ở học sinh trung học phổ thông và một số yếu tố liên quan

  1. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC BẮT NẠT QUA MẠNG Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Phạm Thị Thu Ba¹, Trần Quỳnh Anh² ¹Vụ Công tác Học sinh - Sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo, ²Viện Đào tạo Y học Dự phòng & Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội Mối liên quan giữa hiện tượng bắt nạt qua mạng (cyber bullying) và các yếu tố dân số học, một số đặc điểm cá nhân của vị thành niên được phân tích từ số liệu thu được của 1609 học sinh trung học phổ thông thuộc 6 trường tại Hà Nội, Thừa Thiên - Huế và Cần Thơ. Nghiên cứu điều tra cắt ngang, sử dụng có cập nhật, điều chỉnh thang đo của Putchin và Hinduja về bắt nạt qua mạng; cô lập xã hội (social isolation), thời gian chơi game online. Số liệu thu được thông qua bộ câu hỏi tự điền khuyết danh. Tỷ lệ học sinh bị bắt nạt qua mạng trong 30 ngày trước thời điểm nghiên cứu là 13,5%. Học sinh nam có xu hướng bị bắt nạt qua mạng nhiều hơn học sinh nữ. Học sinh ở thành phố trải nghiệm bị bắt nạt qua mạng nhiều hơn học sinh nông thôn. Học sinh được bạn bè yêu mến hơn có xu hướng ít bị bắt nạt hơn học sinh ít được yêu mến. Học sinh dành nhiều thời gian chơi game online cũng bị bắt nạt nhiều hơn các học sinh khác. Từ khóa: Bắt nạt qua mạng, học sinh, học sinh trung học phổ thông, cô lập xã hội, mức độ yêu mến I. ĐẶT VẤN ĐỀ nghệ, bắt nạt đã chuyển từ hình thức truyền Bắt nạt học đường là một vấn đề về hành thống sang hình thức bắt nạt qua mạng, trong vi của vị thành niên, làm ảnh hưởng đến đó mạng internet chính là công cụ để tương thành tích học tập và sức khỏe tâm thần của tác, cho phép vị thành niên ẩn danh, vượt qua cả nạn nhân và người bắt nạt [1; 2]. Bắt nạt sự quản lý của người lớn thực hiện một số là một hành vi tấn công một cách có chủ hành vi không đúng [7]. Bắt nạt qua mạng định, lặp lại và liên quan đến sự không cân được định nghĩa là sử dụng công nghệ thông bằng về quyền lực giữa người bắt nạt và nạn tin mạng để tấn công, quấy rối, đe dọa hoặc nhân [3]. Có nhiều hình thức bắt nạt như: bắt làm hại người khác có chủ định và có tính lặp nạt về thể chất, bắt nạt về lời nói, bắt nạt về lại [8]. Các hình thức bắt nạt qua mạng gồm quan hệ hay xã hội và bắt nạt qua mạng [4]. gửi tin nhắn điện thoại, email, mạng xã hội, Bắt nạt thể chất (ví dụ: đấm, đá, đạp ) và qua website, tin nhắn điện tử hoặc hình ảnh/ bắt nạt về lời nói (ví dụ: gọi tên, trêu chọc video gửi qua điện thoại, đưa thông tin ác ý, một cách ác ý) là hình thức bắt nạt trực tiếp. bôi nhọ, đưa các nội dung, hình ảnh, đoạn Bắt nạt về quan hệ xã hội (ví dụ: cô lập về xã phim gây ảnh hưởng xấu, làm nhục người hội và lan truyền các tin đồn) là hình thức bắt khác mà không có sự đồng ý [9]. Không giống nạt gián tiếp [5; 6]. như bắt nạt theo các hình thức trước kia, Ngày nay, cùng với sự phát triển của công người bị bắt nạt qua mạng có thể bị bắt nạt bất cứ nơi nào, lúc nào và không hạn chế số Địa chỉ liên hệ: Trần Quỳnh Anh, Viện Đào tạo Y học Dự lượng người tham gia bắt nạt, do những nội phòng & Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội dung gây tổn thương có thể được gửi tới Email: tqa74@yahoo.com.vn Ngày nhận: 11/8/2016 nhiều người trong khoảng thời gian rất ngắn Ngày được chấp thuận: 28/12/2016 [10; 11]. TCNCYH 104 (6) - 2016 35
  2. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Một nhiên cứu trên 3,.767 học sinh trung nhiên từ 6 trường tham gia nghiên cứu. Tổng học tại Mỹ cho thấy có 11% học sinh bị bắt nạt số học sinh tham gia là 1.609, tỷ lệ hoàn thành qua mạng internet, 7% học sinh vừa bắt nạt phiếu hỏi là 98,4% trong đó: 12 học sinh từ bạn khác đồng thời bị bắt nạt, và 4% bắt nạt chối tham gia trả lời, 27 học sinh không hoàn các bạn qua mạng ít nhất một lần trong vòng thành phiếu trả lời. vài tháng trước thời điểm nghiên cứu [9]. Hơn 2. Phương pháp một nửa số bị bắt nạt không biết danh tính người bắt nạt mình. Bắt nạt qua mạng được Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang. cho rằng có thể dẫn đến những hậu quả Công cụ nghiên cứu không mong muốn như trầm cảm và tự tử [7]. Bộ câu hỏi tự điền khuyết danh, gồm có Nghiên cứu cho thấy rằng trường học và bạn các mục hỏi sau: bè đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới - Các câu hỏi về đặc trưng cá nhân: giới hành vi bắt nạt của vị thành niên, ví dụ như (nam, nữ), khối lớp (10, 11 và 12), vị trí địa lý được bạn bè yêu mến giúp giảm hành vi bắt của trường học (nông thôn, thành thị). nạt và có nhiều bạn thân liên quan đến giảm - Bị bắt nạt qua mạng (cyber bullying nguy cơ bị bắt nạt [12]. victimization). Các câu hỏi đo lường trải Hầu hết các nghiên cứu về bắt nạt qua nghiệm bị bắt nạt qua mạng trong 30 ngày mạng được tiến hành ở châu Âu, Úc và Bắc trước thời điểm nghiên cứu. Mỹ. Nghiên cứu về bắt nạt học đường tại Việt - Thang đo bắt nạt gồm 9 câu hỏi được Nam chưa có nhiều, đặc biệt là các nghiên Patchin và Hinduja xây dựng và sử dụng tại cứu chỉ ra mối liên hệ giữa các yếu tố tuổi, Mỹ với độ tin cậy Cronbach alpha là 0,74 [8]. giới, các yếu tố liên quan đến nhà trường và Nghiên cứu này tổng hợp một số câu hỏi từ các đặc điểm cá nhân và hành vi bắt nạt, đặc thang đo của Patchin và Hinduja, bổ sung một biệt là bắt nạt qua mạng internet. Do đó, số câu hỏi. Học sinh trả lời 6 câu hỏi về bị bắt nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu: nạt qua mạng [4]. 1. Xác định tỷ lệ học sinh trung học phổ Khái niệm bị bắt nạt được giải thích rõ cho thông bị bắt nạt qua mạng và các hình thức học sinh tham gia nghiên cứu trước khi trả lời bắt nạt qua mạng; bảng hỏi. Câu trả lời bao gồm: ‘không bao 2. Mô tả một số yếu tố liên quan với tỷ lệ giờ’, ‘1 - 2 lần’, ‘2-3 lần’, ‘1 lần mỗi tuần’ và bắt nạt qua mạng trong học sinh trung học ‘vài lần mỗi tuần’. Nghiên cứu trước gợi ý rằng phổ thông. điểm cắt là ‘2 - 3 lần’ [5]. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Mức độ được bạn bè yêu mến. Học sinh trả lời về mức độ được yêu mến trong nhóm 1. Đối tượng bạn theo 5 mức của thang đo Likert từ 1 (rất Sáu trường trung học phổ thông tại Hà Nội, thấp) tới 5 (rất cao). Thừa Thiên – Huế và Cần Thơ được lựa chọn Cô lập xã hội được đo lường bởi câu hỏi có chủ đích. Tại mỗi trường, lựa chọn ngẫu ‘Bạn có một hay nhiều bạn thân để bạn có thể nhiên hai lớp trong mỗi khối lớp 10, 11 và 12. chia sẻ các vấn đề của mình?” với 4 phương Tổng số 1.648 học sinh được lựa chọn ngẫu án trả lời ‘không’, ‘chỉ một’, ‘vài bạn’ và ‘nhiều’. 36 TCNCYH 104 (6) - 2016
  3. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Phương án trả lời ‘không’ được coi là bị cô lập 3. Đạo đức nghiên cứu xã hội và ba phương án còn lại được coi là Nghiên cứu được sự chấp thuận của Hội không bị cô lập [13]. đồng đạo đức nghiên cứu Đại học Công nghệ Bảng hỏi được thiết kế bằng tiếng Anh và Queensland-Australia (số EC00171 ngày 10 được dịch sang tiếng Việt thông qua quy trình tháng 1 năm 2012) và Đại học Y tế Công cộng dịch xuôi và dịch ngược. Học sinh đồng ý Hà Nội (Quyết định số 044/2011-YTCC-HĐĐĐ tham gia nghiên cứu trả lời bảng hỏi trong lớp ngày 9 tháng 11 năm 2011). với sự giám sát của người nghiên cứu và III. KẾT QUẢ không có sự tham gia của giáo viên. 1. Đối tượng tham gia nghiên cứu Xử lý số liệu Mẫu thu được gồm 781 (48,5%) học sinh Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS nam và 828 (51,5%) học sinh nữ. Độ tuổi từ 21.0. Các kết quả nghiên cứu trình bày dưới 16 tới 19 (TB = 17,03, SD = 0,83) trong đó dạng số lượng và tỷ lệ %. Tỷ suất chênh OR Odd 99,5% là 16 đến 18 tuổi. Hầu hết học sinh Ratio) và 95% khoảng tin cậy (CI: Confidence tham gia nghiên cứu là dân tộc Kinh và 63% Interval) được dùng để đo lường mối liên quan, không theo tôn giáo. Gần một nửa (48,7%) ở sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. thành phố. 2. Các hình thức bị bắt nạt qua mạng Bảng 1. Các hình thức bị bắt nạt qua mạng (n = 874) Nam Nữ Tổng số Hình thức bị bắt nạt qua mạng p n (%) n (%) n (%) Tôi bị gọi bằng tên lóng, bị làm trò cười, trêu 281 171 (21,9) 110 (9,60) 0,000 ghẹo trên mạng hoặc bằng điện thoại (17,5)*** Tôi nhận được tin nhắn/ hình ảnh khiếm nhã 72 (9,2) 51 (6,2) 123 (7,6)* 0,021 Tôi bị cô lập hoặc tách biệt khỏi nhóm bạn 73 (9,3) 79 (9,5) 152 (9,4) 0,894 trên mạng Tôi bị đặt điều, bị rêu rao những điều không 86 (11,0) 66 (8,0) 152 (9,4)* 0,037 đúng sự thật trên mạng hoặc bằng điện thoại Tin nhắn/ hình ảnh/ đoạn phim về tôi bị đưa 80 (10,2) 33 (4,0) 113 (7,0)*** 0,000 lên mạng Tôi bị đe dọa trên mạng hoặc bằng điện thoại 35 (4,5) 18 (2,2) 53 (3,3)* 0,010 * p < ,05; ** p < ,01; *** p < ,001 Có 6 hình thức bắt nạt qua mạng được báo cáo thông qua bảng hỏi, bao gồm bị gọi bằng tên lóng, bị làm trò cười, trêu ghẹo; nhận được tin nhắn khiếm nhã; bị cô lập, tách biệt khỏi nhóm bạn; bị đặt điều, rêu rao những điều không đúng; tin nhắn, hình ảnh cá nhân bị đưa lên mạng và TCNCYH 104 (6) - 2016 37
  4. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC bị đe dọa. Bị gọi bằng tên lóng, bị làm trò cười, trêu ghẹo trên mạng hoặc bằng điện thoại là hình thức bắt nạt phổ biến nhất (17,5%), bị đe dọa trên mạng hoặc bằng điện thoại là hình thức ít phổ biến nhất (3,3%). Học sinh nam bị bắt nạt nhiều hơn học sinh nữ ở hầu hết các hình thức bắt nạt, trừ bị cô lập hoặc tách biệt khỏi nhóm bạn trên mạng. 3. Tỷ lệ bị bắt nạt qua mạng Bảng 2. Tỷ lệ phần trăm học sinh bị bắt nạt qua mạng theo giới, đặc điểm trường, lớp (n = 217) n % p 10 65 12,5 Khối 11 73 13,6 0,65 12 79 14,4 Nông thôn 83 10,3 Địa điểm trường 0,00 Thành thị 134 16,6 Hà Nội 73 13,8 Tỉnh/Thành phố Thừa Thiên – Huế 50 9,1 0,00 Cần Thơ 94 17,7 Hầu hết các nghiên cứu đều tính tỷ lệ bị bắt nạt qua mạng khi đối tượng nghiên cứu trải nghiệm các hành vi bắt nạt có tính lặp lại (nhiều hơn hoặc 2 lần/ tháng). Trong nghiên cứu này, những học sinh trả lời ‘từ 2 - 3 lần tháng’ và nhiều hơn hoặc ‘chỉ một lần’ cho ít nhất hai hành vi bắt nạt được coi là bị bắt nạt qua mạng. Trong tổng số học sinh tham gia nghiên cứu, 13,5% học sinh báo cáo đã bị bắt nạt qua mạng trong tháng trước thời điểm nghiên cứu. Tỷ lệ bị bắt nạt qua mạng của học sinh thành thị cao hơn học sinh nông thôn (16,6% so với 10,3%). Tỷ lệ này không có sự khác biệt giữa các khối lớp. Bảng 3. Tỷ lệ phần trăm học sinh bị bắt nạt qua mạng theo đặc điểm tính cách học sinh (n = 217) n % p Nam 136 17,4 Giới 0,00 Nữ 81 9,8 < 2 64 14,7 Số bạn thân 0,38 ≥ 2 153 13,0 Thấp/ Trung bình 137 15,1 Mức độ yêu mến 0,03 Cao/ Rất cao 80 11,4 < 1 giờ 69 9,3 Thời gian chơi game online 1-3 giờ 70 13,9 0,00 > = 3 giờ 76 21,2 38 TCNCYH 104 (6) - 2016
  5. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 3 cho thấy tỷ lệ bị bắt nạt qua mạng có sự khác biệt đáng kể giữa nam và nữ, trong đó học sinh nam (17,4%) bị bắt nạt nhiều hơn học sinh nữ (9,8%). Học sinh được yêu mến nhiều hơn báo cáo ít bị bắt nạt qua mạng hơn những học sinh ít được yêu mến (11,4% và 15,4% ). Học sinh sử dụng nhiều thời gian chơi game online cũng bị bắt nạt nhiều hơn các học sinh khác, đặc biệt nhóm học sinh chơi game ‘trên 3 giờ/ ngày’ có tỷ lệ báo cáo bị bắt nạt qua mạng là 21,2%. 4. Một số yếu tố liên quan tới bị bắt nạt qua mạng Bảng 4. Các yếu tố liên quan tới bị bắt nạt qua mạng Bị bắt nạt qua mạng OR/β 95%CI Nữ (Ref) Giới Nam 1,78*** 1,31 - 2,40 Nông thôn (Ref) Địa điểm trường Thành thị 1.58** 1,17 - 2,13 Cao/ Rất cao (Ref) Mức độ được yêu mến Thấp/ Rất thấp 1,51** 1,11 - 2,03 < 1 giờ (Ref) Thời gian chơi game online 1 - 3 giờ/ngày 1,44* 1,01-2,06 ≥ 3 giờ/ngày 2,34*** 1,56-3,22 * p < ,05; ** p < ,01; *** p < ,001. Phân tích hồi quy được áp dụng để phân tích các yếu tố liên quan với việc bị bắt nạt qua mạng. Bảng 4 cho thấy so với học sinh nữ, học sinh nam có nguy cơ bị bắt nạt qua mạng nhiều hơn (OR = 1,78). Học sinh ở các trường khu vực thành thị có nguy cơ bị bắt nạt qua mạng nhiều hơn so với học sinh ở nông thôn (OR = 1,58). Học sinh có mức độ yêu mến thấp hoặc trung bình có nguy cơ bị bắt nạt hơn so với học sinh có mức độ yêu mến cao hoặc rất cao trong nhóm bạn (OR = 1,51). Học sinh có thời gian chơi game online là từ 3 giờ/ngày trở lên có nguy cơ bị bắt nạng qua mạng cao hơn 2,34 lần (OR = 2,34) so với nhóm chơi game online dưới 1 giờ/ngày. IV. BÀN LUẬN học phổ thông tại Việt Nam báo cáo bị bắt nạt Bắt nạt qua mạng ở lứa tuổi trẻ là một xu qua mạng trong 30 ngày trước thời điểm hướng đang gia tăng và nhận được nhiều sự nghiên cứu là khá cao (13,5%). Kết quả này là quan tâm của cộng đồng. Nghiên cứu của bằng chứng cho thấy rằng bắt nạt qua mạng chúng tôi là một trong những nghiên cứu đầu là một vấn đề của vị thành niên cần được tiên tại Việt Nam về chủ đề này. Kết quả quan tâm ở Việt Nam. Tỷ lệ bị bắt nạt qua nghiên cứu cho thấy rằng, tỷ lệ học sinh trung mạng tại nghiên cứu này so với những nghiên TCNCYH 104 (6) - 2016 39
  6. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC cứu thực hiện ở một số quốc gia khác là Nghiên cứu cũng cho thấy rằng học sinh không hoàn toàn tương đương do việc sử có mức độ được yêu mến thấp có nhiều nguy dụng các thang đo nghiên cứu khác nhau [7; cơ bị bắt nạt qua mạng hơn. Kết quả này cũng 8]. Tuy nhiên, hình thức bắt nạt qua mạng là tương tự một số nghiên cứu khác [16]. Điều tương đồng so với một số nghiên cứu trước này có thể giải thích bởi những học sinh có đây, bao gồm bị gọi bằng tên lóng, bị làm trò mức độ yêu mến thấp thường có ít bạn và có cười, trêu ghẹo, nhận được tin nhắn khiếm thể bị cô lập nên dễ bị bắt nạt qua mạng hơn nhã, bị cô lập, tách biệt khỏi nhóm bạn; bị đặt những học sinh khác. Cuối cùng, thời gian điều, rêu rao những điều không đúng, tin chơi game online của học sinh có liên quan nhắn, hình ảnh cá nhân bị đưa lên mạng và bị chặt chẽ với tỷ lệ báo cáo về bị bắt nạt qua đe dọa [14]. Bị gọi bằng tên lóng, bị làm trò mạng, trong đó những học sinh chơi game cười, trêu ghẹo trên mạng hoặc bằng điện trên 3 giờ một ngày có nguy cơ cao hơn thoại là hình thức bắt nạt phổ biến nhất những học sinh chơi dưới 1 giờ một ngày. (17,5%). Điều này có thể giải thích bởi việc Sự khác biệt này có thể là do học sinh chơi trêu đùa nhau được coi là bình thường và khá game online nhiều hơn có nhiều cơ hội tiếp phổ biến trong vị thành niên ở Việt Nam. Tuy cận, sử dụng công nghệ thông tin hơn so với nhiên, việc thực hiện hành vi có chủ định và học sinh khác. lặp lại sẽ vô tình gây ảnh hưởng và có tác Nghiên cứu có một số hạn chế. Thứ nhất, động xấu đến người bị bắt nạt. thiết kế nghiên cứu là cắt ngang với cách lấy Nghiên cứu của chúng tôi cũng đã tìm thấy mẫu thuận tiện, do vậy kết quả này không đại một số yếu tố liên quan với hiện tượng bắt nạt diện cho tất cả học sinh. Thứ hai, số liệu được qua mạng ở học sinh trung học phổ thông. lấy dựa vào bảng hỏi tự trả lời của học sinh có Trước hết là yếu tố giới, học sinh nam có thể không hoàn toàn khách quan. Thứ ba, nguy cơ bị bắt nạt cao hơn so với học sinh nữ thang đo chú trọng vào đối tượng bị bắt nạt trong hầu hết các hình thức bắt nạt mạng. Kết qua mạng đã bỏ sót các đối tượng bắt nạt bạn quả này đồng nhất với một số nghiên cứu khác, và vừa bắt nạt và bị bắt nạt qua mạng. trước đây về bắt nạt qua mạng [7; 9; 14; 15]. V. KẾT LUẬN Sự khác biệt giới này cũng đồng nhất với các kết quả nghiên cứu về bắt nạt học đường [16]. Nghiên cứu đã tìm ra tỷ lệ bị bắt nạt qua Sự khác biệt về giới tính khi bị bắt nạt qua mạng trong học sinh trung học tại Việt Nam mạng có thể do nhiều yếu tố, trong đó có đặc (13,5%) và 6 hình thức bắt nạt qua mạng điểm tâm sinh lý của giới. Học sinh nam chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối thường hiếu động, nghịch hơn học sinh nữ. liên quan giữa hành vi bắt nạt và các yếu tố Yếu tố tiếp theo là sự khác biệt giữa học sinh như giới, nông thôn và thành thị, mức độ ở nông thôn và thành thị về tỷ lệ báo cáo bị được yêu mến, và thời gian chơi game online. bắt nạt qua mạng. Sự cao hơn đáng kể về tỷ Kết quả này là các gợi ý cho các chương trình lệ bị bắt nạt qua mạng của học sinh thành thị can thiệp đưa ra các giải pháp phù hợp để có thể được giải thích bởi học sinh thành thị hạn chế xu hướng bắt nạt mạng trong học có nhiều cơ hội tiếp cận, sử dụng công nghệ sinh, hạn chế tối đa tác động không mong thông tin hơn so với học sinh ở nông thôn. muốn của hiện tượng này đối với sức khỏe 40 TCNCYH 104 (6) - 2016
  7. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC thể chất và tinh thần của học sinh. 8. Patchin J.W. and Hinduja S (2010). Cyberbullying and self-esteem. Journal of Lời cảm ơn School Health, 80(12), 614 – 621. Nghiên cứu được thực hiện với sự hỗ trợ 9. Kowalski R.M. and Limber S.P (2007). kinh phí của Chương trình học bổng phát triển Electronic Bullying Among Middle School Stu- Úc. dents. Journal of Adolescent Health, 41(6), S22 - S30. TÀI LIỆU THAM KHẢO 10. Mason K.L (2008). Cyberbullying: A 1. Hong J.S. and Espelage D.L (2012). A Preliminary Assessment for School Personnel. review of research on bullying and peer vic- Psychology in the schools, 45(4), 323. timization in school: An ecological system 11. Hinduja S. and Patchin J.W (2009). analysis. Aggression and Violent Behavior, 17 Bullying beyond the schoolyard : preventing (4), 311 - 322. and responding to cyberbullying. Thousand 2. Gini G. and Pozzoli T. (2009). Associa- tion between bullying and psychosomatic Oaks, California SAGE. problems: A meta-analysis. Pediatrics, 123(3), 12. Gradinger P., Strohmeier D. and 1059 - 1065. Spiel C. (2009). Traditional bullying and cy- 3. Rudatsikira E., Mataya R.H., Siziya S berbullying: Identification of risk groups for et al (2008). Association between bullying vic- adjustment problems. Zeitschrift für Psycholo- timization and physical fighting among Filipino gie/Journal of Psychology, 217(4), 205 - 213. adolescents: Results from the Global School- 13. Hall-Lande J.A., Eisenberg M.A., Based Health Survey. The Indian Journal of Christenson S.L et al (2007). Social isolation, Pediatrics, 75(12), 1243 - 1247. psychological health, and protective factors 4. Solberg M.E. and Olweus D (2003). in adolescence. Adolescence, Prevalence estimation of school bullying with 42(166), 265 - 286. the Olweus Bully/Victim Questionnaire. Ag- gressive Behavior, 29(3), 239 - 268. 14. Patchin J.W. and Hinduja S (2006). 5. Wang J., Iannotti R.J., and Nansel T.R Bullies Move Beyond the Schoolyard: A Pre- (2009). School bullying among adolescents in liminary Look at Cyberbullying. Youth Violence the United States: physical, verbal, relational, and Juvenile Justice, 4(2), 148 - 169. and cyber. Journal of Adolescent Health, 45 15. Li Q. (2010). Cyberbullying in High (4), 368 - 375. Schools: A Study of Students' Behaviors and 6. Rigby K. (2006). Implications of bullying Beliefs about This New Phenomenon. Journal in schools for aggression between nations. of Aggression, Maltreatment & Trauma, 19(4), Journal of Peace Education, 3(2), 175 – 185. 372 - 392. 7. Ang R.P. and Goh D.H (2010). Cyber- bullying among adolescents: The role of affec- 16. Rigby K (2007). Bullying in Schools tive and cognitive empathy and gender. Child and What to Do about It: Revised and Up- Psychiatry and Human Development, 41(4), dated. Portland: International Specialized 387 - 397. Book Services. TCNCYH 104 (6) - 2016 41
  8. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Summary CYBER BULLYING AMONG HIGH SCHOOL STUDENTS AND SOME RELATED FACTORS This study focused on the associations between cyber bullying, demographic factors and ado- lescents’ characteristics. Data were collected from 1.609 high school students in 6 high schools in Hanoi, Thua Thien - Hue and Can Tho. Anonymous, self-reported questionnaires included the revised Patchin and Hinduja Bully/Victim Questionnaires, social isolation and school connected- ness, and estimated time for computer games were applied in this study. The results showed that the prevalence of students being cyberbullied in the last 30 days was 13.5%. Boys were more likely to be involved in cyber bullying and urban school students were more likely to be cyber victims. Having more peer popularity was associated with less victimization for cyber bullying, while students addicted to computer games were more likely suffered from cyber bullying than than other students. Key words: Cyber bullying; students, high school students; Social isolation; Verbal bully- ing; Peer popularity 42 TCNCYH 104 (6) - 2016