Bài giảng Thể dục và phương pháp dạy học thể dục 2

Thể dục và phương pháp dạy học thể dục là môn học nghiên cứu những quy luật và những cơ sở chung nhất về phương pháp trong lĩnh vực thể dục thể thao (TDTT). Nhiệm vụ giảng dạy chủ yếu của môn Thể dục và phương pháp dạy học thể dục là: 
 1. Giúp cho sinh viên nắm được những cơ sở chung nhất về lý luận và phương pháp Giáo dục thể chất (GDTC), chủ yếu là dạy học động tác, rèn luyện thể lực và công tác GDTC trong nhà trường phổ thông. 
 2. Trên cơ sở đó, từng bước bồi dưỡng cho sinh viên năng lực vận dụng những kiến thức học được để phân tích, thực hiện những nhiệm vụ cụ thể có liên quan trong thực tiễn TDTT. 
 Bài giảng Thể dục và phương pháp dạy học thể dục 2 có thể được sử dụng cho cả người dạy và người học. Khi biên soạn bài giảng này chúng tôi bám sát đề cương chi tiết môn học, mục tiêu đào tạo giáo viên, đồng thời căn cứ vào nội dung chương trình thể dục và phương pháp dạy học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
pdf 48 trang Yến Nhi 06/04/2024 1040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Thể dục và phương pháp dạy học thể dục 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_the_duc_va_phuong_phap_day_hoc_the_duc_2.pdf

Nội dung text: Bài giảng Thể dục và phương pháp dạy học thể dục 2

  1. Hiệu quả sử dụng một loại quãng nghỉ nào đó không cố định, mà tùy theo quãng nghỉ và trình độ tập luyện thì hiệu quả của LVĐ cũng thay đổi. Từ quãng nghỉ vượt mức có thể trở thành quãng nghỉ đầy đủ hoặc quãng nghỉ ngắn. Như vậy, do quãng nghỉ khác nhau cũng tạo nên hiệu quả tác động khác nhau, do đó quãng nghỉ cũng là thành tố cơ bản của phương pháp GDTC. 2.1.2. Cách tiếp thu và định mức lượng vận động Ngoài vấn đề điều chỉnh lượng vận động và quãng nghỉ, cơ sở của các phương pháp GDTC còn là những cách thức hợp lý trong tiếp thu hành động vận động và hình thức định mức chúng (tổ chức và điều chỉnh). Nhìn chung, có hai cách thức tiếp thu động tác: Tiếp thu từng phần và tiếp thu toàn thể. Tùy theo đặc điểm động tác, trình độ chuẩn bị thể lực hiện tại của người tập và những điều kiện khác mà mỗi cách tiếp cận động tác đều là hợp lý. Trong giáo dục TCVĐ cũng tồn tại hai cách tác động - tác động chọn lọc và tác động tổng hợp tới các chức năng khác nhau của cơ thể. Căn cứ vào đặc điểm định mức hoạt động của người tập, thực tế các phương pháp GDTC chỉ gồm hai loại: Phương pháp bài tập định mức và các phương pháp trò chơi, thi đấu. 11
  2. Mỗi phương pháp đều có giá trị riêng, nhưng không có ý nghĩa duy nhất. Chỉ đạt được hiệu quả tập luyện khi biết khéo léo sử dụng tất cả các phương pháp kể trên phù hợp đặc điểm phương tiện, đặc điểm người tập và điều kiện buổi tập. 2.2. Phương pháp tập luyện có định mức chặt chẽ Đặc điểm của phương pháp này là hoạt động của người tập được tổ chức, quản lý và điều hành một cách chi tiết. Sự định mức thể hiện ở những điểm sau: - Định mức trước chương trình động tác (quy định trước thành phần các động tác, thứ tự lặp lại ) - Việc thực hiện lượng vận động và quãng nghỉ cũng được định trước. - Sử dụng các điều kiện bên ngoài, các dụng cụ tập luyện cũng được định trước ( kế hoạch, phương tiện, sân bãi, dụng cụ tập luyện ) Ý nghĩa của việc định mức là ở chỗ đảm bảo điều kiện tối ưu cho tiếp thu kỹ năng, kỹ xảo vận động mới và phát triển các tố chất thể lực. 2.2.1. Phương pháp tập luyện trong quá trình học động tác 2.2.1.1. Phương pháp phân đoạn (Phân chia hợp nhất). Thường được sử dụng trong trường hợp đối với động tác hoặc tổ hợp những động tác cần học có thể phân chia thành các phần tương đối độc lập mà không ảnh hưởng đến cấu trúc động tác và các bài tập có kỹ thuật khó, phức tạp. 2.2.1.2. Phương pháp tập luyện hoàn chỉnh (Nguyên vẹn). Trong trường hợp việc phân chia nhỏ động tác mà gây nên những tác động lớn đến cấu trúc động tác và các bài tập dễ đơn giản thường sử dụng phương pháp tập luyện hoàn chỉnh. Tuy nhiên đối với những động tác phức tạp vẫn có thể sử dụng phương pháp tập luyện nguyện vẹn, nhưng thường phải kết hợp với việc sử dụng các bài tập bổ trợ, dẫn dắt. 2.2.2. Các phương pháp tập luyện định mức lượng vận động và quãng nghỉ Các phương pháp này nhằm hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo vận động và phát triển các tố chất vận động. Căn cứ vào mục đích sử dụng và phụ thuộc vào đặc điểm định hướng và biến thiên các thông số bên ngoài của lượng vận động mà sử dụng cho hợp lý 12
  3. 2.2.2.1. Phương pháp tập luyện lặp lại ổn định theo chế độ lượng vận động liên tục và ngắt quãng Trong quá trình tập luyện lặp lại ổn định, động tác được lặp lại không có sự thay đổi đáng kể về cấu trúc và các thông số bên ngoài của lượng vận động. Phương pháp này được sử dụng trong giáo dục tất cả các tố chất vận động. a. Phương pháp tập luyện ổn định liên tục Đặc điểm của phương pháp này là không có sự thay đổi đáng kể về cấu trúc động tác, về lượng vận động và về các điều kiện để tiến hành tập luyện. Phương pháp này thường được sử dụng trong giáo dục sức bền. Một trong những phương pháp điển hình là phương pháp đồng đều (Ví dụ chạy Việt dã). b. Phương pháp tập luyện ổn định ngắt quãng Là phương pháp tập luyện lặp lại động tác với quãng nghỉ tương đối ổn định. Thời gian quãng nghỉ tùy thuộc vào mục đích tập luyện mà ta có thể chọn quãng nghỉ đầy đủ, quãng nghỉ ngắn hay quãng nghỉ vượt mức. Ví dụ: Trong giáo dục sức bền thường chú trọng quãng nghỉ ngắn. 2.2.2.2. Phương pháp tập luyện biến đổi theo chế độ lượng vận động liên tục và ngắt quãng Tùy từng trường hợp mà thay đổi các thông số vận động, thay đổi cách thức thực hiện động tác, thay đổi quãng nghỉ và các điều kiện bên ngoài. Bản chất của vấn đề là đặt ra những yêu cầu mới cao hơn để kích thích sự phát triển các chức năng cơ thể, đồng thời mở rộng tính linh hoạt của kỹ xảo vận động và hoàn thiện kỹ xảo vận động a. Phương pháp tập luyện biến đổi liên tục Chủ yếu áp dụng cho các bài tập có chu kỳ. Phương pháp điển hình của nhóm phương pháp này là bài tập biến tốc. b. Phương pháp tập luyện biến đổi ngắt quãng - Có thời gian nghỉ ngắn hay dài tùy theo bài tập. - Đặc điểm tiêu biểu của phương pháp này là luân phiên có hệ thống giữa lượng 13
  4. vận động và nghỉ ngơi. Trong đó lượng vận động và quãng nghỉ đều có thể thay đổi. 2.2.2.3. Phương pháp tập luyện tổng hợp Trên thực tế các phương pháp thường được kết hợp với nhau trong quá trình giáo dục thể chất thành phương pháp tổng hợp. Ví dụ: Chạy 100m lần 1 nghỉ 10 phút, lần 2 nghỉ 8 phút, lần 3 nghỉ 6 phút Có nhiều phương án để kết hợp; một số phương pháp điển hình sau: a. Phương pháp tập luyện lặp lại tăng tiến Có đặc điểm lặp lại lượng vận động trong mỗi lần tập nhưng lại tăng lượng vận động đó ở những lần tập sau. Ví dụ: Trọng lượng tạ không thay đổi trong một tổ nhưng lại được tăng lên ở tổ tập sau ( lần 1 cho gánh tạ 50kg trong 02 phút, lần hai 60kg trong 3 phút, lần ba 70kg 4 phút b. Phương pháp tập luyện lặp lại với quãng nghỉ giảm dần Có đặc điểm lượng vận động ổn định nhưng quãng nghỉ giảm dần làm biến đổi mạnh mẽ trong cơ thể khi thực hiện bài tập. Ví dụ: Chạy 4x100m; lần 1 nghỉ 12p, lần 2 -10p, lần 3- 8p, lần 4- 6p c. Phương pháp tập luyện vòng tròn Quá trình thực hiện các bài tập theo thứ tự từng nhóm với những bài tập đã được lựa chọn và hợp nhất lại thành bài tập liên hợp. Các bài tập được thực hiện theo từng trạm kế tiếp nhau theo dạng vòng tròn. Tại mỗi trạm, người tập thực hiện một loạt các bài tập nhất định. Số lần lặp lại ở mỗi trạm được xác định theo đặt điểm người tập, thông thường được lặp lại bằng 1/2 hay 1/3 đến 2/3 số lần lặp lại tối đa. Phương pháp này nhằm giáo dục các tố chất thể lực, thường sử dụng các bài tập có kỹ thuật đơn giản và người tập đã nắm vững kỹ thuật bài tập trước đó - Các dạng cơ bản của phương pháp tập luyện vòng tròn: + Theo phương pháp tập kéo dài liên tục: Phát triển sức bền chung. + Theo phương pháp giãn cách với quãng nghỉ ngắn: Phát triển sức bền tốc độ và sức mạnh bền. 14
  5. + Theo phương pháp giãn cách với quãng nghỉ đầy đủ: Phát triển sức mạnh và tốc độ. 2.3. Phương pháp trò chơi và phương pháp thi đấu 2.3.1. Phương pháp trò chơi Phương pháp trò chơi không nhất thiết phải gắng với một trò chơi cụ thể nào đó như bóng đá, bóng chuyền hoặc các trò chơi vận động đơn giản. Về nguyên tắc, phương pháp trò chơi có thể được sử dụng trong bất kỳ bài tập thể lực nào, tất nhiên chúng phải được tổ chức phù hợp với đặc điểm của phương pháp trò chơi. 2.3.1.1.Đặc điểm của phương pháp trò chơi - Tổ chức theo chủ đề: Hoạt động của người chơi được tổ chức tương ứng với chủ đề giả định hoặc có tính chất hình ảnh. - Phong phú về phương thức để đạt được mục đích: Hầu như bao giờ cũng có nhiều cách để chiến thắng được luật chơi cho phép. - Là một hoạt động độc lập, sáng tạo, có yêu cầu cao về sự nhanh trí, khéo léo của người chơi. - Tạo nên sự đua tranh căng thẳng giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm người và tạo nên cảm xúc mạnh mẽ (thể hiện rõ các phẩm chất cá nhân) Nhược điểm: Khả năng điều chỉnh lượng vận động bị hạn chế và việc chương trình hóa ở mức tương đối. 2.3.1.2.Ý nghĩa tác dụng Củng cố và hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo vận động, phát triển các tố chất thể lực, giáo dục tính kỷ luật, tính đồng đội và những phẩm chất khác. 2.3.2. Phương pháp thi đấu Trong giáo dục thể chất, phương pháp thi đấu được sử dụng dưới hai hình thức: - Hình thức tương đối đơn giản: Được sử dụng các dạng như đấu tập, thi thử (có thể sử dụng thi đấu ngay cả những bài tập riêng lẻ) nhằm kích thích hứng thú và tính tích cực của người tập. - Hình thức phát triển phức tạp: Được sử dụng như một hình thức tương đối độc 15
  6. lập như thi kiểm tra, các cuộc thi đấu thể thao chính thức 2.3.2.1. Đặc điểm cơ bản của phương pháp thi đấu - So sánh sức lực trong điều kiện đua tranh thứ bậc, vị trí để đạt được thành tích cao nhất. Yếu tố đua tranh trong thi đấu cũng như điều kiện tiến hành tổ chức cuộc thi sẽ tạo nên cảm xúc sinh lý đặc biệt làm tăng thêm tác dụng bài tập. Sự đua tranh giữa các cá nhân hoặc giữa tập thể diễn ra một cách gay gắt, vì vậy nó đòi hỏi phát huy tính tập thể, tính kỷ luật và sự nỗ lực ý chí cao độ. - Phương pháp thi đấu còn có đặc điểm chuẩn hóa đối tượng thi, quy tắc thi và phương thức đánh giá thành tích. - Hạn chế sự điều chỉnh lượng vận động. 2.3.2.2. Ý nghĩa tác dụng - Được sử dụng để giải quyết các nhiệm vụ khác nhau như: Phát triển các tố chất thể lực, củng cố và hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo vận động và năng lực thể hiện chúng trong những điều kiện phức tạp. - Có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục các phẩm chất đạo đức, ý chí, tinh thần trách nhiệm, đồng thời có sự ganh đua trong thi đấu dễ hình thành nên những nét tính cách ích kỷ, háo danh, hiếu thắng vì vậy phải có phương pháp giáo dục đúng đắn. 2.4. Phương pháp sử dụng lời nói và trực quan 2.4.1. Phương pháp sử dụng lời nói Bằng lời nói để truyền thụ kiến thức cho người học, kích thích tư duy và điều khiển việc thực hiện chúng. Phương pháp lời nói còn được sử dụng để phân tích, đánh giá kết quả và điều chỉnh hành vi người học. Phương pháp lời nói cũng rất cần thiết trong quá trình nhận thức, tự đánh giá, tự điều chỉnh hành động Do có chức năng đa dạng mà lời nói được sử dụng trong nhiều phương pháp khác nhau: Phân tích, giảng giải, chỉ thị, mệnh lệnh, đàm thoại 2.4.1.1. Đặc trưng của nhóm phương pháp này là phương pháp giảng giải 16
  7. Giảng giải là dùng lời nói để phân tích về nội dung cơ bản, trọng tâm, phương hướng chuyển động, phân tích các mấu chốt kỹ thuật, các mối quan hệ bên ngoài, các cử động liên tục qua đó hình thành biểu tượng chung về động tác, đi đến việc thực hiện hoàn chỉnh kỹ thuật TDTT. 2.4.1.2. Yêu cầu khi giảng giải Giảng giải là giúp học sinh quan sát một cách có mục đích, hiểu và nắm được từng phần kỹ thuật động tác, cho nên lời nói giảng giải phải ngắn gọn dễ hiểu, chuẩn xác về nội dung, chính xác về thuật ngữ, nhấn mạnh được điểm chủ yếu, khâu then chốt của kỹ thuật động tác và phải sinh động giàu hình tượng. 2.4.2. Phương pháp trực quan Quá trình nhận thức của con người = trực quan - tư duy - thực tiễn. Trực quan có hai loại: Trực quan trực tiếp và trực quan gián tiếp. Tùy từng trường hợp cụ thể trong GDTC mà sử dụng trực quan trực tiếp hoặc trực quan gián tiếp cho phù hợp. Đặc trưng của nhóm phương pháp này là phương pháp làm mẫu. Làm mẫu là giáo viên thực hiện động tác để học sinh quan sát, giúp các em thấy được kết cấu, hình dáng, đường đi và thứ tự các cử động của động tác. Phương pháp này giúp học sinh vừa quan sát vừa tư duy nhằm đạt được hiệu quả cao trong quá trình thực hiện động tác. Yêu cầu khi làm mẫu: - Động tác làm mẫu phải hoàn chỉnh, đẹp, chính xác vì mục đích làm mẫu là để học sinh xem rồi bắt chước làm theo. - Những động tác mới, phức tạp phải làm mẫu từ 2-3 lần: + Lần 1: Làm hoàn chỉnh toàn vẹn động tác để học sinh có biểu tượng chung về động tác đó. + Lần 2: Làm chậm, có thể kết hợp với giảng giải. + Lần 3: Thực hiện như lần 1. - Khi làm mẫu phải chọn vị trí thích hợp sao cho tất cả học sinh đều nhìn thấy 17
  8. các chi tiết của động tác. - Tùy theo động tác và đối tượng cụ thể mà chọn phương hướng làm mẫu cho phù hợp.(làm mẫu chếch, nghiêng, soi gương ) - Làm mẫu có thể kết hợp với giảng giải để nhắc nhở học sinh quan sát những khâu chủ yếu của động tác. - Khi làm mẫu không để học sinh quay mặt ngược hướng gió, hướng mặt trời hoặc hướng có những hoạt động khác. - Khi hướng dẫn thực hiện, giáo viên có thể dùng tín hiệu như vỗ tay, lời hô, còi để giúp học sinh hình thành cảm giác, nhịp điệu đúng. Câu hỏi ôn tập và thảo luận Câu 1. Chứng minh rằng lượng vận động và quãng nghỉ là các thành tố cơ bản của phương pháp GDTC. Câu 2. Trình bày các phương pháp tập luyện có định mức chặt chẽ? Hãy thiết kế một bài tập liên hợp trong phương pháp tập luyện vòng tròn. Câu 3. Thế nào là phương pháp trò chơi và phương pháp thi đấu? Đặc điểm và ý nghĩa tác dụng của chúng trong giảng dạy TDTT? Câu 4. Phương pháp sử dụng lời nói và trực quan trong giáo dục thể chất? Các phương pháp đặc trưng của chúng? Cau 5. Thiết kế sơ đồ các phương pháp GDTC. Chương 3. NGUYÊN TẮC GIẢNG DẠY TDTT 3.1. Nguyên tắc phát huy tính tích cực tự giác tập luyện 3.1.1. Khái niệm Tính tích cực của người tập TDTT thường thể hiện qua hoạt động tự giác, gắng sức nhằm hoàn thành những nhiệm vụ học tập, được bắt nguồn từ thái độ học tập tốt, cố gắng nắm được những KNKX cùng hiểu biết có liên quan phát triển thể chất và tinh thần. Tự giác được hiểu là tự ý thức của bản thân người học trước nhiệm vụ đặt ra, từ đó người học tập trung cao độ sức lực và ý chí để hoàn thành tốt nhiệm vụ. 3.1.2. Những yêu cầu để đảm bảo tính tự giác tích cực 18
  9. 3.1.2.1. Giáo dục thái độ tự giác và hứng thú bền vững đối với mục đích tập luyện chung cũng như các nhiệm vụ cụ thể của buổi tâp Động cơ tham gia tập luyện là tiền đề cần thiết để đảm bảo thái độ tự giác. Động cơ tập luyện rất đa dạng, ở mỗi lứa tuổi, mỗi người khác nhau và mỗi giai đoạn khác nhau thì cũng khác nhau, vì vậy phải xây dựng động cơ đúng đắn cho người học. Do đó giáo viên TDTT phải biết hình thành cho học sinh hiểu được ý nghĩa chân chính của hoạt động TDTT, hiểu được bản chất xã hội của TDTT và TDTT như một phương tiện để phát triển cân đối toàn diện cơ thể, củng cố và nâng cao sức khỏe của chính mình và của xã hội. Hứng thú là hình thức biểu hiện của động cơ, đó là sự tập trung tích cực sự chú ý và ý nghĩ về một đối tượng, một hoạt động nhất định. Chính vì vậy, hứng thú giữ một vai trò quan trọng trong tích cực, tự giác học tập của học sinh. Nên việc xây dựng hứng thú tập luyện cho học sinh là cơ sở vững chắc phát huy tính tự giác tích cực. Hứng thú biểu hiện dưới hai hình thức: - Hứng thú nhất thời: Biểu hiện thái độ tự giác tích cực trong buổi tập khi có các hình thức tập luyện hợp lý hấp dẫn. Xây dựng hứng thú nhất thời bằng các biện pháp sau: + Tiến hành buổi tập sinh động, có sức lôi cuốn bằng các hình thức tổ chức buổi tập hợp lý. + Tăng cường các cuộc thi đấu nhỏ và sử dụng phương pháp trò chơi. + Sử dụng các hình mẫu trực quan, hợp lý, đẹp để tăng tính nghệ thuật của kỹ thuật động tác. - Hứng thú bền vững: Biểu hiện trong suốt quá trình học tập. Vì vậy, trong quá trình GDTC phải xây dựng hứng thú bền vững cho học sinh, tức là làm cho học sinh hiểu được ý nghĩa, tác dụng của luyện tập TDTT. Điều đó sẽ tạo cho họ có thái độ tự giác tích cực trong suốt quá trình tập luyện. 3.1.2.2. Kích thích việc phân tích một cách có ý thức, việc kiểm tra và dùng sức hợp lý khi thực hiện các bài tập thể chất 19
  10. - Ý thức về sự thực hiện của người tập phải được quan tâm thường xuyên trong quá trình giảng dạy, có thể tiến hành các cuộc kiểm tra, đánh giá nhận xét kịp thời về ý thức của người tập, tạo cho người tập có sự động não trong quá trình tập luyện, suy nghĩ về nguyên nhân của những lần thực hiện tốt và những lần thực hiện chưa tốt. Khi động tác đã trở thành kỹ xảo thì vẫn không quên vai trò của ý thức người tập với sự thực hiện để tiếp tục nâng cao chất lượng bài tập. - Kết quả của tập luyện còn phụ thuộc vào sự tự đánh giá của người tập về những chỉ số không gian, thời gian, dùng sức khi thực hiện động tác. Vì vậy người dạy phải luôn luôn giáo dục người học năng lực tự đánh giá, kiểm tra, thông báo cho họ biết những thông số khách quan để họ so sánh và tự điều chỉnh hành vi vận động của mình. 3.1.2.3. Giáo dục tính tự chủ, sáng tạo cho học sinh - Tính tự chủ, sáng tạo là cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động vận động, vì vậy phải giáo dục cho học sinh những kỹ năng tự giải quyết các nhiệm vụ vận động và sử dụng một cách hợp lý các phương tiện, phương pháp GDTC. - Trong quá trình giảng dạy không chỉ dừng lại ở sự hoàn thành nhiệm vụ vận động mà phải hình thành cho học sinh phong cách thực hiện riêng tương xứng với khả năng của chính mình, hình thành động tác tốt nhất, đúng nhất nhưng ít tốn sức nhất. - Phải xây dựng mỗi giáo án TDTT là một giáo án hợp lý nhất về nội dung, hình thức, cách thức tiến hành nhằm tạo ra sự hứng thú cao cho học sinh. - Ngoài nhiệm vụ trên, thì GDTC còn được hiểu là một quá trình lao động căng thẳng và mệt mỏi diễn ra liên tục trong một thời gian dài, vì vậy đòi hỏi người học phải hình thành và nâng cao tinh thần bền bỉ, khắc phục khó khăn và tìm thấy niềm vui, niềm tin trong hoạt động, nhất là các bài tập phức tạp, đơn điệu. - Sự tự giác tích cực được nâng cao hơn nếu người dạy đánh giá đúng thành tích người học đạt được, có khen thưởng, động viên đúng lúc, phải xây dựng thành hệ thống tiêu chuẩn chuyên môn để đánh giá người tập. 3.2. Nguyên tắc trực quan trong tập luyện 20
  11. 3.2.1. Khái niệm Trực quan là sự tác động trực tiếp của thế giới khách quan vào các giác quan của con người. Trực quan có hai loại: Trực quan trực tiếp và trực quan gián tiếp - Trực quan trực tiếp là những tác động vào các giác quan làm cho ta có hình ảnh sống của hoạt động đó. Ví dụ: Làm mẫu động tác (thị phạm). - Trực quan gián tiếp là những tác động vào những giác quan không phải là những hình ảnh sống. Ví vụ: Quan sát tranh, ảnh, phim, mô hình Lời nói với ý nghĩa đầy đủ và phù hợp với kinh nghiệm của người tập cũng thuộc về trực quan gián tiếp. Mối quan hệ giữa trực quan trực tiếp và trực quan gián tiếp: Mỗi loại trực quan trong quá trình GDTC đều có tầm quan trọng đặc biệt. Trực quan trực tiếp là cơ sở cho trức quan gián tiếp, trực quan gián tiếp bổ sung cho trực quan trực tiếp chính xác hơn, dễ hiểu hơn khi chi tiết và cấu trúc động tác mà thông qua trực quan trực tiếp hoàn toàn không nhìn thấy. Ví dụ phim quay chậm để nhìn thấy những chi tiết kỹ thuật mà bình thường nhìn bằng mắt không thể thấy được. 3.2.2. Bản chất của nguyên tắc Muốn đảm bảo hiệu quả của GDTC thì nhất thiết phải sử dụng hai loại trực quan để người tập có biểu tượng vận động đúng. 3.2.3. Cơ sở của nguyên tắc - Căn cứ vào quy luật quá trình nhận thức (Trực quan - tư duy - thực tiễn) - Xuất phát từ nhiệm vụ của quá trình GDTC là cần phải phát triển tất cả các giác quan. 3.2.4. Trực quan là tiền đề để tiếp thu động tác Muốn tiếp thu động tác phải xây dựng đúng về biểu tượng động tác đó và biểu tượng động tác chỉ xuất hiện khi người tập được quan sát động tác. 21
  12. Để các loại trực quan tạo ra được tiền đề tiếp thu động tác, thường tiến hành theo hai cách: - Học các loại động tác mới trên cơ sở tiếp thu tốt động tác cũ và tuân thủ trình tự giảng dạy hợp lý. - Sử dụng tổng hợp các loại trực quan khác nhau. 3.2.5. Trực quan là điều kiện để hoàn thiện động tác Giai đoạn đầu cần phải sử dụng trực quan để xây dựng kỹ thuật động tác nhưng sang giai đoạn sau vẫn phải sử dụng trực quan để hoàn thiện chi tiết kỹ thuật động tác và xây dựng cảm giác chuyên môn của động tác. Ví dụ: Đối với những động tác khó, khi người học được quan sát các hình ảnh thông qua phim quay chậm sẽ nhìn được các chi tiết kỹ thuật động tác, trên cơ sở đó sẽ hoàn thiện được động tác một cách dễ dàng, đặc biệt xây dựng nhanh được cảm giác chuyên môn trong quá trình hoàn thiện động tác. Trong giai đoạn hoàn thiện kỹ thuật động tác thì trực quan gián tiếp nổi lên hàng đầu, vì trong giai đoạn này vai trò của cơ quan phân tích vận động và các cách thức đảm bảo trực quan tăng lên đáng kể. Các cơ quan cảm giác ngày càng phối hợp với nhau chặt chẽ để điều khiển hoàn chỉnh động tác. Song sự tác động lên nhiều giác quan cùng một lúc trong điều kiện vận động phức tạp không phải lúc nào cũng tốt, có khi sẽ gây ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy, trong thức tế phải hạn chế sự tác động vào nhiều giác quan cùng một lúc. 3.2.6. Những yêu cầu đảm bảo tính trực quan - Sử dụng phương tiện trực quan phù hợp với lứa tuổi. - Phải xác định rõ mục đích trực quan cho người học. - Bảo đảm tính tích cực, tự giác, tư duy của người học. - Tỉ lệ giữa trực quan trực tiếp với trực quan gián tiếp phải phù hợp với từng giai đoạn giảng dạy. - Hình ảnh trực quan phải tác động tốt vào tất cả các giác quan. 3.3. Nguyên tắc vừa sức và cá biệt hóa 22