Bài giảng Sinh lý máu và dịch thể

Môi trường sống ngày càng trở nên rất quan trọng đối với các lĩnh vực sinh học và xã hội học. Môi trường bên ngoài cơ thể (ngoại môi) của mọi sinh vật là thiên nhiên bao la, gồm các điều kiện và hoàn cảnh tự nhiên như không khí, thời tiết, khí hậu, ngày đêm... Đối với con người, ngoại môi còn bao gồm các yếu tố về xã hội. Yếu tố xã hội là do chính con người tạo ra, nhưng nó lại có ảnh hưởng trực tiếp trở lại con người.

Một số sinh vật, đặc biệt là kí sinh trùng, ngoại môi là cơ thể vật chủ. Trong lao động, con người còn coi môi trường lao động xung quanh mình như tàu ngầm, tàu thuỷ, hầm lò, công sự, nhà máy... là ngoại môi. Các yếu tố của ngoại môi luôn luôn biến đổi theo thời gian và không gian. Những thay đổi này là tác nhân kích thích lên cơ thể sinh vật và con người.

Môi trường bên trong cơ thể (nội môi) là môi trường sống của mọi tế bào, là chất dịch hoặc gián tiếp, hoặc trực tiếp nuôi tế bào. Nội môi có đặc tính là hằng định, hoặc thay đổi trong một phạm vi rất hẹp. Sự thay đổi của các yếu tố nội môi là nguyên nhân hay là hậu quả của nhiều cơ chế bệnh lý khác nhau. Vì vậy, việc xét nghiệm, kiểm tra tính hằng định của nội môi là rất cần thiết để giúp cho chẩn đoán, theo dõi điều trị và tiên lượng bệnh trong lâm sàng.

pdf 63 trang Bích Huyền 05/04/2025 320
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Sinh lý máu và dịch thể", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_sinh_ly_mau_va_dich_the.pdf

Nội dung text: Bài giảng Sinh lý máu và dịch thể

  1. BÀI GIẢNG: SINH LÝ MÁU VÀ DỊCH THỂ 1
  2. MỤC LỤC GIỚI THIỆU 3 BÀI 1: KHỐI LƯỢNG, THÀNH PHẦN VÀ CHỨC NĂNG SINH LÝ 5 CỦA MÁU BÀI 2: HỒNG CẦU 8 BÀI 3: NHÓM MÁU VÀ TRUYỀN MÁU 19 BÀI 4: BẠCH CẦU 26 BÀI 5: TIỂU CẦU 37 BÀI 6: CẦM MÁU VÀ ĐÔNG MÁU 39 BÀI 7: HUYẾT TƯƠNG 48 BÀI 8: CÁC DỊCH KHÁC CỦA CƠ THỂ 53 2
  3. GIỚI THIỆU Môi trường sống ngày càng trở nên rất quan trọng đối với các lĩnh vực sinh học và xã hội học. Môi trường bên ngoài cơ thể (ngoại môi) của mọi sinh vật là thiên nhiên bao la, gồm các điều kiện và hoàn cảnh tự nhiên như không khí, thời tiết, khí hậu, ngày đêm... Đối với con người, ngoại môi còn bao gồm các yếu tố về xã hội. Yếu tố xã hội là do chính con người tạo ra, nhưng nó lại có ảnh hưởng trực tiếp trở lại con người. Một số sinh vật, đặc biệt là kí sinh trùng, ngoại môi là cơ thể vật chủ. Trong lao động, con người còn coi môi trường lao động xung quanh mình như tàu ngầm, tàu thuỷ, hầm lò, công sự, nhà máy... là ngoại môi. Các yếu tố của ngoại môi luôn luôn biến đổi theo thời gian và không gian. Những thay đổi này là tác nhân kích thích lên cơ thể sinh vật và con người. Môi trường bên trong cơ thể (nội môi) là môi trường sống của mọi tế bào, là chất dịch hoặc gián tiếp, hoặc trực tiếp nuôi tế bào. Nội môi có đặc tính là hằng định, hoặc thay đổi trong một phạm vi rất hẹp. Sự thay đổi của các yếu tố nội môi là nguyên nhân hay là hậu quả của nhiều cơ chế bệnh lý khác nhau. Vì vậy, việc xét nghiệm, kiểm tra tính hằng định của nội môi là rất cần thiết để giúp cho chẩn đoán, theo dõi điều trị và tiên lượng bệnh trong lâm sàng. Nội môi của cơ thể bao gồm máu, dịch gian bào, dịch bạch huyết, dịch não tuỷ, dịch nhãn cầu, tinh dịch, dịch trong cơ quan tiền đình và các thanh dịch. Trong các loại nội môi trên đây, máu là thành phần quan trọng nhất. Máu chứa đủ các vật chất cần thiết của cơ thể và cũng là nguồn gốc của nhiều dịch thể khác. Cho nên, nói đến nội môi là người ta thường nghĩ tới máu. Tuy vậy, khái niệm nội môi cũng chỉ là khái niệm tương đối. Ví dụ: máu là nội môi của cơ thể nhưng lại là ngoại môi của tế bào. Con người từ khi sinh ra đã bị những qui luật khắc nghiệt của tự nhiên và của xã hội chi phối. Để tồn tại và phát triển, con người phải luôn luôn thích nghi 3
  4. với mọi sự biến đổi của môi trường, phải cải tạo môi trường sống và cũng phải biết bảo vệ môi trường sống của mình. Điều này có nghĩa là con người là một thể thống nhất và thống nhất với môi trường sống. 4
  5. BÀI 1: KHỐI LƯỢNG, THÀNH PHẦN VÀ CHỨC NĂNG SINH LÝ CỦA MÁU. 1. KHỐI LƯỢNG. Máu là tổ chức lỏng, lưu thông trong hệ tuần hoàn. Trong 1 kg thể trọng, có 75 - 80ml máu. Trẻ sơ sinh có 100ml máu /kg cân nặng, sau đó khối lượng máu giảm dần. Từ 2 -3 tuổi trở đi khối lượng máu lại tăng dần lên, rồi giảm dần cho đến tuổi trưởng thành thì hằng định. Một người trưởng thành, bình thường máu chiếm 7 - 9% trọng lượng cơ thể. Một người nặng 50kg có khoảng 4 lớt máu. Người ta có thể xác định khối lượng máu chính xác bằng nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp tiêm các chất có màu vào máu, chất này ít bị lọc ra khỏi thận, phân huỷ nhanh và không độc hại hoặc dựng các chất đồng vị phóng xạ đánh dấu hồng cầu. Khối lượng máu tăng lên sau khi ăn, uống, khi mang thai, khi truyền dịch... Khối lượng máu giảm khi cơ thể ra nhiều mồ hôi, nôn mửa, ỉa chảy, chấn thương có chảy máu bên trong hoặc bên ngoài cơ thể ... Nếu khối lượng máu tăng lên trong cơ thể, dịch từ máu sẽ vào khoảng gian bào của da và các mô, sau đó nước được bài xuất dần theo nước tiểu. Nếu khối lượng máu giảm trong cơ thể, dịch từ khoảng gian bào vào máu làm cho khối lượng máu tăng lên. Trong nhiều trường hợp mất máu cấp diễn (mất máu ở các tạng lớn, các xương lớn, mất máu đường động mạch...) khối lượng máu bị giảm đột ngột, cơ thể không có khả năng tự bù trừ; nếu không cấp cứu kịp thời, cơ thể sẽ không sống được. 2. THÀNH PHẦN Máu gồm hai thành phần: thể hữu hình (huyết cầu) và huyết tương. Các thể hữu hình của máu là hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, chiếm 43 - 45% tổng số máu, chỉ số này được gọi là hematocrit. Hồng cầu là thành phần chiếm chủ yếu trong thể hữu hình. Huyết tương chiếm 55 - 57% tổng số máu. Huyết tương chứa 5
  6. nước, protein, các chất điện giải, các hợp chất hữu cơ và vô cơ, các hocmon, các vitamin, các chất trung gian hoá học, các sản phẩm chuyển hoá ... Huyết tương chứa toàn bộ các chất cần thiết cho cơ thể và toàn bộ các chất cần được thải ra ngoài. Huyết tương bị lấy mất fibrinogen thì được gọi là huyết thanh. 3. CHỨC NĂNG SINH LÝ CỦA MÁU Máu có rất nhiều chức năng, dưới đây là những chức năng cơ bản của máu: 3.1. Chức năng dinh dưỡng Máu mang trong mình toàn bộ các chất dinh dưỡng để nuôi cơ thể. Các chất dinh dưỡng được đưa từ ngoài vào qua đường tiêu hoá. Ngoài ra bạch cầu còn vào lòng ống tiêu hoá nhận các chất dinh dưỡng theo kiểu "ẩm bào" và "thực bào", rồi lại vào lòng mạch mang thêm một phần các chất dinh dưỡng cho máu. 3.2. Chức năng bảo vệ Máu có khả năng bảo vệ cơ thể khỏi bị nhiễm trùng nhờ cơ chế thực bào, ẩm bào và cơ chế miễn dịch dịch thể, miễn dịch tế bào. Máu cũng có khả năng tham gia vào cơ chế tự cầm máu, tránh mất máu cho cơ thể khi bị tổn thương mạch máu có chảy máu. 3.3. Chức năng hô hấp Máu mang 0xy từ phổi tới tế bào và mô, đồng thời máu mang cacbonic từ tế bào và mô tới phổi. 3.4. Chức năng đào thải Máu mang các chất sau chuyển hoá, chất độc, chất lạ tới các cơ quan đào thải (thận, bộ máy tiêu hoá, phổi, da) để thải ra ngoài. 3.5. Chức năng điều hồ thân nhiệt Máu mang nhiệt ở phần "lõi" của cơ thể ra ngoài để thải vào môi trường hoặc giữ nhiệt cho cơ thể nhờ cơ chế co mạch da. 3.6. Chức năng điều hồ các chức phận cơ thể 6
  7. Bằng sự điều hồ tính hằng định nội môi, máu đã tham gia vào điều hồ toàn bộ các chức phận cơ thể bằng cơ chế thần kinh và thần kinh - thể dịch. 4. ĐẶC TÍNH CỦA MÁU Máu có tính hằng định. Tính hằng định của máu được đánh giá qua các chỉ số sinh lý, sinh hoá của máu. Các chỉ số này, trong điều kiện sinh lý bình thường là rất ít thay đổi hoặc chỉ thay đổi trong một phạm vi rất hẹp. Vì vậy chúng được coi như là một hằng số. Kiểm tra các chỉ số sinh lý, sinh hoá của máu là một việc làm vô cùng quan trọng và rất cần thiết để đánh giá những rối loạn chức năng của cơ thể. BÀI 2: 7
  8. HỒNG CẦU 1. HÌNH DÁNG VÀ KÍCH THƯỚC Hồng cầu trưởng thành, lưu thông trong máu là tế bào không có nhân. Ở điều kiện tự nhiên, nó có hình đĩa lõm hai mặt, đường kính khoảng 7,2m, bề dày ở ngoại vi là 2,2m, ở trung tâm là 1m. Thể tích một hồng cầu là 83m3 (83femtolit). Nhờ có tính đàn hồi tốt mà hồng cầu dễ dàng thay đổi hình dạng khi đi qua các mao mạch. Diện tích bề mặt hồng cầu lớn (do có hai mặt lõm), vì vậy khi hồng cầu biến dạng màng hồng cầu không bị căng và vỡ ra. Nếu tính diện tích toàn bộ màng hồng cầu trong cơ thể cộng lại, có thể lên đến 3000m2. 2. THÀNH PHẦN Tỷ lệ thành phần của hồng cầu: % Các thành phần 67,00 Nước 28,00 Hemoglobin 0,30 Lipid các loại (lecitin, cholesterol) 2,00 Những chất khác có chứa nitơ (enzym, protein, glutation) 0,02 Urê 1,20 Các chất vô cơ (K+) Hồng cầu có một cấu trúc đặc biệt với nhiều thành phần khác nhau. Nó gồm một nền do protein và lipid tạo nên. Đa số lipid đều kết hợp với protein tạo thành lipoprotein. Trong nền còn có glucose, clorua, phosphat... Nền và màng chiếm 2 -5% trọng lượng hồng cầu. Giữa các mắt của nền có hemoglobin. Hai thành phần quan trọng nhất của hồng cầu được nghiên cứu nhiều đó là màng hồng 8
  9. cầu và hemoglobin. Màng hồng cầu mang nhiều kháng nguyên nhóm máu. Hemoglobin là thành phần quan trọng trong sự vận chuyển khí của máu. 3. SỐ LƯỢNG Người trưởng thành, ở máu ngoại vi có 3,8 x 1012 hồng cầu/lớt (đối với nữ); 4,2 x1012 hồng cầu/lớt (đối với nam). Trẻ mới sinh, ở ngày đầu số lượng hồng cầu rất cao (5,0 x1012 hồng cầu/lớt). Sau đó, do hiện tượng tan máu, số lượng hồng cầu giảm dần. Trẻ em dưới 15 tuổi có số lượng hồng cầu thấp hơn người trưởng thành 0,1 - 0,2 x 1012 hồng cầu/lớt. Số lượng hồng cầu ổn định ở tuổi trưởng thành. Số lượng hồng cầu tăng lên sau bữa ăn, khi lao động thể lực, sống ở trên núi cao 700 - 1000m, khi ra nhiều mồ hôi, đái nhiều, ỉa chảy, bỏng mất huyết tương, trong bệnh đa hồng cầu, bệnh tim bẩm sinh.... Số lượng hồng cầu giảm lúc ngủ, khi uống nhiều nước, cuối kỳ hành kinh, sau đẻ, đói lâu ngày, ở nơi có phân áp oxy cao, các loại bệnh thiếu máu, suy tuỷ, nhiễm độc, chảy máu trong, chảy máu do vết thương... 4. QUÁ TRÌNH SINH HỒNG CẦU 4.1. Nguồn gốc và các giai đoạn phát triển của hồng cầu Những tuần đầu của thai nhi hồng cầu có nhân được lá thai giữa sản xuất. Từ tháng thứ hai trở đi gan, lách, sau đó là hạch bạch huyết cũng sản xuất ra hồng cầu có nhân. Từ tháng thứ 5 của kỳ phát triển thai, tuỷ xương bắt đầu sản xuất hồng cầu và từ đó trở đi, tuỷ xương là nơi duy nhất sinh ra hồng cầu. Sau tuổi 20 các tuỷ xương dài bị mỡ hoá, còn tuỷ xương xốp như xương sống, xương sườn, xương ức, xương chậu sản xuất hồng cầu. Vì vậy tuổi già dễ bị thiếu máu hơn. Tế bào tuỷ xương là tế bào gốc vạn năng có khả năng duy trì nguồn cung cấp tế bào gốc và phát triển thành tế bào gốc biệt hoá để tạo ra các dòng khác nhau của tế bào máu (theo thuyết một nguồn gốc). Tế bào gốc biệt hoá sinh ra hồng cầu được gọi là đơn vị tạo cụm của dòng hồng cầu: C.F.U.E (Colony 9
  10. forming unit erythrocyt). Sau đó các tế bào dòng hồng cầu trải qua các giai đoạn sau đây: Tiền nguyên hồng cầu (proerythoblast) Nguyên hồng cầu ưa kiềm( normoblast ưa kiềm) Nguyên hồng cầu đa sắc (normoblast đa sắc) Nguyên hồng cầu (normoblast) Hồng cầu lưới (reficulocyt) Hồng cầu trưởng thành (erythrocyt) Nhân của nguyên hồng cầu mất đi khi nồng độ hemoglobin trong bào tương cao > 34%. Hồng cầu chính thức không có nhân xuyên mạch rời bỏ tuỷ xương vào hệ tuần hoàn chung. Hồng cầu lưới cũng có khả năng vào máu như hồng cầu trưởng thành nhưng tỷ lệ rất thấp chỉ chiếm 1% tổng số lượng hồng cầu ở máu ngoại vi, khoảng 1-2 ngày sau hồng cầu lưới trở thành hồng cầu trưởng thành. Hồng cầu sống trong máu khoảng 120 ngày (người da trắng), gần 120 ngày (người Việt). Hệ thống enzym nội bào hồng cầu luôn luôn tổng hợp ATP từ glucose để duy trì tính đàn hồi của màng tế bào, duy trì vận chuyển ion qua màng, giữ cho sắt luôn luôn có hố trị 2, đồng thời ngăn cản sự oxy hoá protein trong hồng cầu. Trong quá trình sống, hệ thống enzym giảm dần, hồng cầu già cỗi, màng hồng cầu kém bền và dễ vỡ. Một phần hồng cầu tự huỷ trong máu, còn đại bộ phận hồng cầu bị huỷ trong tổ chức võng - nội mô của lách, gan, tuỷ xương. Hemoglobin được giải 10