Bài giảng Phần bệnh sản khoa - Nguyễn Văn Thanh

A.  MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP TRONG THỜI GIAN GIA SÚC MANG THAI

BỆNH BẠI LIỆT TRƯỚC KHI ĐẺ ( Praplegia Gravidarum)

  1. Khái niệm về bệnh: Bại liệt trước khi đẻ là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản trong thời gian mang thai. Đặc điểm của bệnh là gây ra hiện tượng con vật mất khả năng vận động chỉ nằm bẹp một chỗ
  2. Nguyên nhân gây bệnh: Nguyên nhân chính gây ra bệnh đó là sự thiếu hụt khoáng đặc biệt là canxi và phôt pho, hiện tượng này xảy ra khi:

Do khẩu phần thức ăn thiếu  khoáng can xi và phốt pho

+ Do gia súc mẹ bị nuôi nhốt lâu ngày trong chuồng ít được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời ảnh hưởng tới quá trình

                                        Ánh sáng mắt trời

7Dehydrocolesterol                                                       Vitamin D3

(tiền vi ta min D3 có sẵn ở trên da của động vật)

Chính vitamin D3 là chất xúc tác cho quá trình hấp thu Can xi và Phôt pho, thiếu Vitamin D3 thì quá trình hấp thu Ca và P bị cản trở 

+ Do tỷ lệ Ca và P không hợp lý hàm lượng P quá cao

+ Do giá súc mẹ bị viêm ruột do đó không hấp thu đuợc Ca và P bởi vì Ca và P chủ yếu được hấp thu qua niêm mạc ruột non

Tất cả các nguên nhân trên làm cho hàm lượng Ca và P trong máu của con mẹ bị giảm thấp không đủ cung cấp cho việc hình thành và hoàn thiện bộ xương của bào thai. Để đáp ứng cho việc hình thành, hoàn thiện bộ xương của các bào thai con mẹ buộc phải rút Ca và P từ xương mình từ đó làm thay đổi cấu tạo tổ chức của xương gia mẹ đặc biệt là khung xương chậu và chi sau từ đó gây ra bại liệt

3. Triệu chứng: Con vật ăn rở (thích ăn những thức ăn mà ngày bình thường nó không ăn) như đá sỏi đất cát, vật gặm đất cát vôi vữa trên nền chuồng, xung quanh tường. Thường lúc đầu vật đi lại khó khăn đi cà nhắc đi thậm thọt sau đó nằm xuống và không đứng dậy được, cũng có truờng hợp vật đang đi lại bình thường đột nhiên hét lên rồi nằm xuống mất hoàn toàn khả năng vận động. Khi vật nằm xuống trong thời gian đầu vật còn tự trở mình đuợc các hoạt động về hô hấp, tuần hoàn, tiêu hoá còn diễn ra bình thường một thời gia sau sẽ kế phát một số bệnh như viêm phổi, viêm dạ dày và ruột nếu năm lâu sẽ dẫn đến tình trạng thối loét da thịt. Hậu quả của bệnh này thường dẫn đến hiện tượng đẻ khó do khung xoang chậu bị biến dạng

doc 43 trang thiennv 11/11/2022 3760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Phần bệnh sản khoa - Nguyễn Văn Thanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docbai_giang_phan_benh_san_khoa_nguyen_van_thanh.doc

Nội dung text: Bài giảng Phần bệnh sản khoa - Nguyễn Văn Thanh

  1. BỆNH RẶN ĐẺ QUÁ MẠNH (Hypedynamia Utery) 1. Khaí niệm về bệnh Đây là bệnh thường sảy ra trong thời gian gia súc sinh đẻ với đặc điểm là những cơn co bóp của tử cung, cơn rặn của con mẹ quá mạnh 2. Nguyên nhân + Do chiều hướng tư thế của thai không bình thường + Do lượng hormone kích đẻ Oxytocine của cơ thể tiết ra quá nhiều + Do sử dụng thuốc kích đẻ không đúng thời điểm hoặc quá liều 3. Triệu chứng + Con vật rặn rất mạnh dạng chân, cong đuuôi, cong lưng, nghiến răng, mím môi mà rặn, khoảng cách giữa hai lần rặn rất ngắn thậm chí tử cung co bóp liên tục, nếu chiều hướng tư thế của bào thai bình thường thì bào thai được đẩy ra khỏi cơ thể mẹ rất nhanh, ngược lại có thể dẫn đến hiện tượng xuất huyết, rách, thủng, vỡ tử cung. Trường hợp bào thai đã được đẩy ra ngoài mà cơ thể vẫn rặn mạnh thì có thể dẫn tới hiện tượng âm đạo lộn ra ngoài tử cung lộn bít tất 4. Điều trị + Cố đinh gia súc ở nơi yên tĩnh ở tư thế đầu thấp đuôi cao nhằm giảm áp lực xoang chậu + Giảm và ức chế hiện tượng co bóp của tử cung: - Với ngựa cho uống Chloralhydrat 25-30gr, trâu bò cho uống rượu trắng 300 - 500ml - Gây tê lõm khum đuôi bằng Novocain 3 % BỆNH SÁT NHAU (Retensio Placentae) 1. Khaí niệm về bệnh Trong quá trình sinh đẻ bình thường sau khi sổ thai một thời gian nhất định phụ thuộc vào từng loài gia súc ngựa 20-60 phút, bò 2-4 giờ thường không quá 12 giờ, lợn 10-60 phút, dê cừu 30 phút đến 2 giờ nhau thai sẽ được đẩy ra khỏi cơ thể mẹ, qua thời gian kể trên mà nhau thai không được đẩy ra khỏi cơ thể mẹ thì gọi là bệnh sát nhau Tùy vào mức độ của bệnh người ta phân ra các thể sau: 10
  2. + Thể sát nhau hoàn toàn: toàn bộ hệ thống nhau thai con còn dính với niêm mạc tử cung cơ thể mẹ + Thể sát nhau không hoàn toàn: phía sừng tử cung không chứa bào thai ở gia súc đơn thai và phía ừng tử cung chứa ít bào thai ổ gia súc đa thai nhau thai con đã tách khỏi niêm mạc tử cung, phía còn lại nhau thai con còn dính chặt với niêm mạc tử cung cơ thể mẹ + Thể sát nhau từng phần: Một phần của màng nhung và một số ít núm nhau con còn dính với niêm mạc tử cung, còn đa phần mang thai đã tách khỏi niêm mạc tử cung cở thể mẹ 2. Nguyên nhân + Sau khi sổ thai sức rặn của con mẹ quá yếu cơ tử cung co bóp quá yếu không đủ sức đẩy nhau thai ra ngoài trường hợp này sảy ra khi trong thời gian có thai gia súc mẹ ít được vận động, thức ăn không đầy đủ, thai quá to với động vật đơn thai hoặc quá nhiều thai với động vật đa thai, dịch thai quá nhiều tử cung dãn quá độ làm giảm đàn tính và co bóp + Do nhau mẹ và nhau con dính chặt vào nhau trường hợp này sảy ra khi viêm màng thai, viêm nội mạc tử cung làm cho nhau mẹ và nhau con dính chặt vào nhau mặc dù con vật rặn mạnh tử cung co bóp tốt nhưng nhau con vẫn không thể tách khỏi núm nhau mẹ. đặc biệt đối với loài nhai lại do mối liên hệ giữa nhau mẹ và nhau con theo hình thức cài răng lược rất chặt chẽ do đó sau khi sổ thai chỉ cần bất kỳ một nghuyên nhân nào đó làm giảm sức rặn của con mẹ đều dẫn tới sát nhau 3. Triệu chứng # Ở bò: Sau thời gian sổ thai quá 12 giờ mà nhau thai vẫn không được đảy ra ngoài, chỉ có cuống nhau (dây rốn) hoặc một ít núm nhau con được đẩy ra ngoài treo lòng thòng ở mép âm môn, con vật tỏ ra khó chịu luôn cong lưng cong đuôi để rặn, nếu để lâu không can thiệp nhau thai sẽ bị thối giữa, phân huỷ trong tử cung. Từ cơ quan sinh dục luôn được thải ra ngoài một hỗn dịch bao gồm dịch thai, niêm dịch, và các tế bào núm nhau bị phân huỷ và có mùi hôi thối khó chịu, cơ thể dễ lâm vào tình trạng huyết nhiễm trùng hoặc huyết nhiễm độc con vật sốt cao, bỏ ăn, chướng bụng đầy hơi # Ở lợn 11
  3. + Lợn mẹ không yên tĩnh, hơi đau đớn, lợn khát nước, lợn mẹ rặn,nhiệt độ tăng, từ cơ quan sinh dục của lợn luôn thải ra ngoài một hỗn dịch mầu nâu 4. Điều trị + Dùng phương pháp bảo tồn: Dùng dung dịch sát trùng ở nồng độ thích hợp rửa sạch bộ phận sinh dục bên ngoài. Tiêm Oxytocine tiêm dưới da 5-8 ml vào dưới da để kích thích tử cung co bóp đẩy nhau thai ra ngoài, hàng ngày thụt rửa tử cung bằng dung dịch sát trùng ngày một lần. Sau khi thụt rửa cần kích thích cho dung dịch sát trùng ra ngoài hết và đưa kháng sinh Streptomycine, Penicilline, Neomycin, Tetramycine vào tử cung Chú ý: Phương pháp bảo tồn dùng cho lợn và cho trâu bò trước 24 giờ + Phương pháp dùng thủ thuật bóc nhau: - Hộ lý: cố định gia súc ở nơi sạch sẽ thoáng mát, rửa sạch bộ phận sinh dục bên ngoài bằng dung dịch sát trùng nhe, thụt nước muối ấm 3% 2-3 lít vào tử cung nhằm kích thích sự tách rời giữa núm nhau con và núm nhau mẹ - Một tay nắm cuống nhau kéo nhẹ, tay còn lại đưa trực tiếp vào tử cung tìm núm nhau mẹ, ngón tay trỏ và ngón giữa cố định núm nhau mẹ, ngón cái xoa nhẹ trên bề mặt núm nhau mẹ lật núm nhau con ra, tiến hành bóc từ ngoài vào trong, từ rên xuống dưới, bóc xong tiến hành thụt rửa tử cung bằng dung dịch sát trùng, sau khi thụt rửa cần kích thích cho dung dịch sát trùng ra ngoài hết và đưa kháng sinh Streptomycine, Penicilline, Neomycin, Tetramycine vào tử cung # Chú ý : Khi tiến hành bóc nhau phải hết sức cẩn thận tránh bóc nhầm núm nhau mẹ + Phân biệt núm nhau mẹ và núm nhau con - Núm nhau mẹ: Mọc từ niêm mạc tử cung dày có chân đế (có thể kẹp tay được) -Núm nhau con: Mọc từ màng thai, mỏng không kẹp tay được + Phân biệt chỗ bóc rồi và chỗ chưa bóc - Chỗ bóc rồi sở thấy bề mặt núm nhau mẹ cảm giác nháp như sờ vào râu - Chỗ chưa bóc sở thấy màng ối có cảm giác nhẵn bóng 12
  4. C. BỆNH TRONG THỜI GIAN SAU KHI ĐẺ BỆNH VIÊM TỬ CUNG (METRITIS) 1. Khái niệm về bệnh: Đây là quá trình bệnh lý thường sảy ra ở gia súc cái sinh sản. Bệnh thường sảy ra trong thời gian sau khi đẻ. Đặc điểm của bệnh là quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp ( các tầng) của tử cung gây ra hiện tuợng rối loạn sinh sản ở cơ thể cái làm ảnh hưởng lớn thậm chí làm mất khả năng sinh sản của gia súc cái 2. Nguyên nhân : + Do trong qúa trình sinh đẻ đặc biệt các trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hay dụng cụ làm xây xát niêm mạc đường sinh dục cái + Do kế phat từ một số bệnh như sát nhau không can thiệp kịp thời làm cho nhau thai bị phân huỷ thối rữa trong tử cung gây hiện tượng nhiễm trùng tử cung + Do công tác vệ sinh trước, trong và sau khi đẻ không đảm bảo như nơi sinh, nền chuồng, dụng cụ đõ đẻ không vô trùng Tất cả những nguyên nhân trên tạo điều kiện cho các tập đoàn vi khuẩn xâm nhập từ bên ngoài vào tử cung rồi xâm nhập qua những vết trầy sước của niêm mạc tử cung, chúng sinh sôi nẩy nở tăng cường về số lượng và độc lực gây viêm. Các vi khuẩn thường gặp rong bệnh viêm tử cung là Streptococcus, Staphylococcus, E.coli. 3. Phân loại các thể viêm tử cung Tuỳ vào vị chí tác động của quá trình viêm đối với tử cung người ta chia ra 3 thể viêm khác nhau + Viêm nội mạc tử cung (Endometritis) đó là quá trình viêm sảy ra ở trong lớp niêm mạc của tử cung đây là thể viêm nhẹ nhất trong các thể viêm tử cung + Viêm cơ tử cung (Myometritis Puerperalis) đó là quá trình viêm sảy ra ở lớp cơ tử cung , có nghĩa là quá trình viêm đã xuyên qua lớp niêm mạc của tử cung đi vào phá huỷ tầng giũa (lớp cơ vòng và cơ dọc của tử cung) đây là thể viêm tương đối nặng trong các thể viêm tử cung + Viêm tương mạc tử cung (Perymetritis Puerperalis) đó là quá trình viêm sảy ra ở lớp lớp ngoài cùng (lớp tương mạc của tử cung) đây là thể viêm nặng nhất và khó điều trị nhất trong các thể viêm tử cung Để chẩn đoán phân biệt các thể viêm tử cung người ta dựa vào những triệu chứng điển hình ở cục bộ và toàn thân. Việc chẩn đoán phân biệt các thể viêm tử cung có một ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng những phác đồ điều trị thích hợp với 13
  5. từng thể viêm nhằm đạt kết quả điều rị cao: thời gian điều trị ngắn, chi phí cho điều trị thấp đặc biệt là đảm bảo khả năng sinh sản cho gia súc cái CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT CÁC THỂ VIÊM TỬ CUNG CÁC TRIỆU CHỨNG VIÊM NỘI MẠC VIÊM CƠ VIÊM TƯƠNG MẠC Sốt (0 C) Sốt nhẹ Sốt cao Sốt rất cao Dịch viêm - Mầu Trắng, xám Hồng, nâu đỏ Nâu rỉ sắt - Mùi Tanh Tanh thối Thối khắm Phản ứng đau Đau nhẹ Đau rõ Rất đau kèm Theo Triệu chứng viêm phúc mạc Phản ứng co nhỏ của tử \Giảm nhẹ Yếu ớt Mất hẳn cung Phương pháp điều trị 1 hoặc 2 3 hoặc 4 3 hoặc 4 4. Các phương pháp điều trị bệnh viêm tử cung + Phương pháp 1: Thụt rửa tử cung bằng dung dịch Rivanol 0,1% hay thuốc tím 0,1% ngày 1 lần sau khi thụt rửa đợi hay kích thích cho dung dịch thụt rửa đẩy ra hết ra ngoài hết, dùng Neomycin 12mg/kg thể trọng thụt vào tử cung ngày 1 lần liệu trình điều trị từ 3-5 ngày + Phương pháp 2: Dùng PGF2 hay các dẫn xuất của nó như Etrumat, Oestrophan, Prosolvin, tiêm dưới da 2ml (25mg) tiêm 1 lần sau đó thụt vào tử cung 200ml dung dịch Lugol thụt ngày 1 lần liệu trình điều trị từ 3-5 ngày + Phương pháp 3 : Oxyticin 6ml tiêm dưới da, Lugol 200ml, Neomycin 12mg/kg thể trọng thụt tử cung, Ampenicilline 3-5gr tiêm bắp hay tĩnh mạch tai ngày 1 lần liệu trình điều trị từ 3-5 ngày + Phương pháp 4: Dùng PGF2 hay các dẫn xuất của nó tiêm dưới da 2ml (25mg) tiêm 1 lần, Lugol 200ml, Neomycin 12mg/kg thể trọng thụt vào tử cung, Ampenicilline 3-5gr tiêm bắp hay tĩnh mạch tai ngày 1 lần liệu trình điều trị từ 3-5 ngày 14
  6. Lưu ý: Phương pháp 1 chỉ dùng điều trị bệnh viêm nội mạc tử cung tử cung còn các thể viêm khác như viêm cơ hay viêm tương mạc tử cung lúc này sự co bóp của tử cung là rất yếu hoặc bị mất hoàn toàn do đó tuyệt đối không thụt rửa vì nếu thụt rửa thì dung dịch thụt rửa và các chất bẩn không được đẩy hết ra ngoài mà nó sẽ tích lại tại các vết loét sâu trên thành tử cung làm cho bệnh càng nặng thêm đặc biệt là dễ dẫn tới tình trạng rối loạn sinh sản. Các công trình nghiên cứu đã chứng minh được rằng phương pháp dùng PGF2 điều trị bệnh viêm tử cung cho kết quả điều trị cao thời gian điều trị ngắn, gia súc cái chóng hồi phục khả năng sinh sản bởi vì PGF2 tạo ra những cơn co bóp nhẹ nhàng đẩy hết các dịch viêm và chất bẩn ra ngoài đông thời PGF2 có tác dụng làm nhanh chóng hồi phục cơ tử cung. Ngoài ra PGF2 còn có tác dụng phá vỡ thể vàng kích thích nang trứng phát triển làm gia súc cái động dục trở lại, Lugol có chứa nguyên tố Iod có tác dụng sát trùng đồng thời thông qua niêm mạc tử cung cơ thể hấp thu được nguyên tố Iod có tác dụng kích thích cơ tử cung hồi phục nhanh chóng và giúp cho buồng trứng hoạt động, noãn bao phát triển làm xuất hiện lại chu kỳ động dục BỆNH LIỆT NHẸ SAU ĐẺ (PERESIS PUERPEPRALIS) SỐT SỮA (COMA PUERPEPRALÍS) 1. Khái niệm về bệnh: Đây là quá trình bệnh lý thường sảy ra ở gia súc cái sinh sản đặc biệt là bò sũa cao sản trong thời gian cho sữa với sản lượng cao nhất. Đặc điểm của bệnh là bệnh sảy ra một cách đột ngột và nhanh chóng gây lên tình trạng tê liệt lưỡi, hầu, tứ chi gây rối loạn tất cả các phản xạ có và không điều kiện 2. Nguyên nhân bệnh: Cho đến nay những nguyên nhân gây ra bệnh nói chung chưa được xác định một cách rõ ràng người ta thấy rằng điều kiện để sảy ra bệnh là: + Do gia súc được sử dụng những thức ăn có thành phần dinh dưỡng cao trong thời gian có thai kỳ cuối + Gia súc bị nuôi nhốt lâu trong chuồng Nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng: Nguyên nhân chính gây ra bệnh là do sự giảm can xi huyết một cách đột ngột, xuất hiện khi có một lượng máu lớn tập trung ở bầu vú khi mà hàm lượng can xi trong sữa cao 15
  7. + Có ý kiến cho rằng hiện tượng giảm can xi huyết là do kết quả của sự rối loạn chức năng hoạt động của tuyến phó giáp trạng do tuyến này bị xung huyết trong thời gian sinh đẻ + Cũng có những ý kiến cho rằng đó là do vỏ tuyến thượng thận hoạt động kém hay do tuyến tụy hoạt động quá mạnh 3. Triệu chứng Bệnh phát sinh một cách đột ngột và tiến triển một cách nhanh chóng từ khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên đến khi xuất hiện triệu chứng điển hình không quá 12 giờ. Con vật đang hoạt động bình thường đột nhiên bỏ ăn, ngừng nhai lại, sau đó con vật ở trong tình trạng không yên tĩnh, chân đi loạng choạng đi thụt lùi có hiện tượng rung toàn bộ hệ thống cơ vân sau đó mất hoàn toàn nhu động dạ cỏ cũng như các phản xạ đại tiểu tiện. Khám qua trực tràng thấy bàng quang sưng to chứa đầy nước tiểu, nhiệt độ hạ dần xuống tới 35 - 36 o C. đầu gốc sừng, gốc tai, da, tứ chi lạnh giá, lưỡi và hầu bị liệt, nước bọt tích đầy trong miệng nên thở khò khè, con vật luôn thè lưỡi ra ngoài và để nước rãi chảy tự do Cuối cùng con vật bị liệt 2 chân sau không đứng lên được, con vật năm với tư thế đặc biệt, nằm phủ phục đầu gục xuống đất 4 chân thu vào bụng khi cầm mõm nhấc lên và bỏ ra thì đầu quẹo về một bên ngực hoạc nằm với tư thế đầu cổ vai và lưng tạo thành đường cong chữ S. Con vật ở trong tình trạng hôn mê mất hết cảm giác đồng tử mắt mở rộng rọi ánh ánh sáng vào mắt con vật không có phản xạ chớp mắt, dùng kim chích vào da con vật không có phản xạ đau. Nếu không phát hiện và điều rị kịp thời con vật sẽ chết trong vòng thời gian rất ngắn 4. Phương pháp điều trị Phương pháp điều trị đặc hiệu bệnh này là bơm không khí vào trong tuyến vú bằng bình song liên cầu thông qua lỗ đầu vú bằng kim thông vú theo trình tự như sau Trước hết nhanh chóng vắt kiệt sữa rồi chọn kim thông vú thích hợp sau đó bơm không khí vào tuyến vú bằng bình song liên cầu, bơm đến khi nào da lá vú căng lên khi búng vào có âm kim khí là được cần chú ý là không bơm căng quá sẽ dẫn đến vỡ lá vú, nhưng nếu bơm non quá sẽ không có tác dụng điều trị, sau khi bơm đủ không khí thì rút kim ra và dùng băng xô quấn chặt đầu vú lại để không khí lọt ra ngoài. Sau khoảng 1 giờ thì mở dây buộc ra. Thường sau khi bơm không khí vào khoảng 16
  8. 30 phút con vật sẽ dần khỏi bệnh, các phản xạ và cảm giác bắt đầu dần hồi phục, thân nhiệt tăng dần, con vật có thể tự đứng lên được * Nhiều tác giả cho rằng cơ chế của việc bơm không khí vào tuyến vú để điều trị bệnh sốt sữa là: khi bị giảm can xi huyết một cách đột ngột làm tê liệt tất cả các đầu mút giây thần kinh cảm giác đặc biệt ở tuyến vú khi bơm không khí vào không khí sẽ nhanh chóng lan toả ra toàn bộ lá vú làm thức tỉnh toàn bộ các giây thần kinh cảm giác trở lại hoạt động và ngay lập tức các kích thích được truyền về vỏ đại não làm cho con vật hưng phấn trở lại hơn nữa khi bơm không khí vào còn có tác dụng làm tăng huyết áp hạn chế sự giảm can xi huyết Chú ý: Trong quá trình điều trị nếu có cho vật uống thuốc điều trị những triệu chứng kế phát như chướng hơi dạ cỏ thì cần chú ý rằng do lưỡi và hầu bị liệt thuốc rất dễ rơi vào phổi làm cho con vật bị sặc và ngạt thở và khi con vật đứng dậy cần đỡ cho vật đi vài bước để tránh hiện tượng ngã đột ngột BỆNH TỬ CUNG LỘN BÍT TẤT (Inversio et Prolapsus Utery) 1. Khái niệm về bệnh: Đây là quá trình bệnh lý thường sảy ra ở gia súc cái sinh sản trong thời gian sau khi sổ thai. Đặc điểm của bệnh là thành của tử cung bị lộn tráI trở lại và đẩy ra khỏi mép âm môn 2. Nguyên nhân bệnh: + Con vật bị nuôI nhốt lâu trong chuồng mà nền chuồng quá thấp về phía đuôi + Do chế độ chăm sóc nuôi dưỡng gia súc có thai không hợp lý đặc biệt khẩu phần thức ăn không đầy đủ thiếu vitamin đặc biệt là vitamin nhóm B. Do con vật đã già yếu và những yếu tố khác làm cho con vật bị suy dinh dưỡng + Bào thai quá to với gia súc đơn thai và quá nhiều thai với gia súc đa thai, áp lực xoang bụng xoang chậu quá cao nhất là khi vật nằm lâu trên nền chuồng quá thấp về phía đuôi + Do đường sinh dục bị khô mà con vật lại rặn đẻ quá mạnh hay kéo thai quá nhanh + Do hậu quả của việc dùng thuốc kích đẻ không đúng chỉ định quá liều + Do kế phát từ bệnh bại liệt sau khi đẻ 3. Triệu chứng: 17
  9. Phần tử cung lộn ra ngoài mầu hồng to bằng quả bóng, cái xô, mầu hồng ở loàI nhai lại nhìn rõ hệ thống nhau mẹ trên niêm mạc tử cung đôi chỗ còn dính cả núm nhau con,ở ngựa xuất hiện nhiều mao quản, ở lợn phần tử cung lộn ra ngoàI chông giống như một khúc ruột già. Con mẹ tỏ vẻ đâu đớn rặn liên tục bộ phận tử cung lộn ra ngoài ngày một to lên. Do sự cọ sát của đuôi và sự tiếp xúc với môi trường ngoại cảnh bên ngoài bộ phận tử cung bị dính các chất bẩn như phân rác, nước, tiểu, đất cát, niêm mạc tử cung bị sây sát, bị nhiễm khuẩn và bị viêm thể tích phần tử cung lộn ra ngoài tăng cao và từ bộ phận tử cung lộn ra ngoài luôn thải ra ngoài một hỗn dịch bao gồm niêm dịch dịch rỉ viêm và các tổ chức hoại tử, nếu để lâu không can thiệp kịp thời sẽ dẫn đến hiện tượng nhiễm trùng huyết, con vật lâm vào tình trạng huyết nhiễm độc hay huyết nhiễm trùng và có thể tử vong trong vòng 4-5 ngày 4. Điều trị + Nguyên lý của việc điều trị bệnh tử cung ra ngoài là nhanh chóng đưa phần tử cung lộn ra ngoài trở về vị trí cũ sau khi đã vô trùng cẩn thận và đề phòng tái phát + Hộ lý để vậy ở nơi yên tĩnh với tư thế đầu thấp đuôi cao, buộc đuôi con vật sang một bên, riêng ở lợn cần thiết phảI treo ngược llợn để khi tiến hành thủ thuật dược dễ dàng + Dùng các dung dịch sát trùng ở nồng độ thích hợp như thuốc tím 0,1%, Axít Boríc 3%, H2O2, NaCl 5%, Rivanol 0,1%, Tanin 1% rửa sạch bộ phận tử cung lộn ra ngoài, ở loàI nhai lại phảI bóc hết những núm nhau con, sau đó tiến hành thắt những mạch máu bị đứt, khâu những chố bị rách bị thủng rồi dùng các loại kháng sinh dạng mỡ bôi lên phần âm đạo lộn ra ngoài rồi tiến hành dùng dầu thực vật sát lên phần tử cung lộn ra ngoài sau đó dùng thủ thuật đưa phần tử cung lộn ra ngoài trở về vị trí cũ cần chú ý khi làm thủ thuật phải hết sức thận trọng tránh làm xây sát làm rách làm thủng niêm mạc tử cung + Cố định đề phòng tái phát: ức chế hiện tượng rặn bằng các phương pháp sau: với bò cho uống riệu trắng, ngựa cho uống Chloralhydrat, phong bế lõm khum đuuôi bằng Novocain 8-10ml. Khâu 2/3 phía trên âm môn bằng chỉ bản to mềm để nguyên 5-7 ngày khi giá súc không còn phản xạ răn thì tiên hành cắt chỉ 18
  10. BỆNH Ở TUYẾN VÚ I. PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN BỆNH Ở TUYẾN VÚ 1. Phương pháp chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào những biến đổi trên lâm sàng ở cục bộ tuyến vú cũng như những biến đổi trên toàn thân con vật để xác định bệnh của tuyến vú thông qua việc quan sát tình trạng chung của cơ thể cũng như cục bộ tuyến vú (hình dáng, độ cân đối, độ cứng, mềm, sự nguyên vẹn của da lá vú ) tiến hành sờ nắn cẩn thận tuyến vú thông qua cảm giác của da tay người khám cũng như phản ứng của con vật để xác định bệnh, ngoài ra cần kết hợp với việc điều tra, phỏng vấn người trực tiếp chăn nuôi về điều kiện thức ăn chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, phương pháp khai thác sữa, lứa đẻ, thời gian xuất hiện bệnh.Tất cả các thông tin trên được tổng hợp phân tích giúp cho việc chẩn đoán bệnh ở tuyến vú. Phương pháp lâm sàng đơn giản dễ làm, nhưng nó chỉ có thể phát hiện được bệnh khi đã có triệu chứng lâm sàng nó rất khó chẩn đoán phát hiện được những thể bệnh vừa mới xuất hiện 2. Phương pháp chẩn đoán thí nghiệm: Dựa trên những thay đổi về tính chất lý học, hóa học, sinh vật học của sữa để chẩn đoán bệnh của tuyến vú. Bằng phươong pháp chẩn đoán rhí nghiệm cho phép phát hiện sớm hiện tượng viêm vú a. Xác định tính chất lý học của sữa + Quan sát bằng mắt thường: Vắt sữa vào lòng bàn tay hay vào ống nghiệm rồi quan sát nếu trong sữa có những cục lợn cợn hay mảnh tổ chức chết thì lá vú đó bi viêm + Vắt sữa qua miếng vải mầu đen hay màu xanh rồi quan sát nếu trên bề mặt vải có những cục lợn cợn hay mảnh tổ chức chết thì lá vú đó bi viêm + Đun sôi sữa trong ống nghiệm: sau khi đun sôi nếu sữa biến mầu hoặc đông vón thành cục lắng xuống dưới thì lá vú đó bị viêm b. Xác định độ tăng của men Catalaza và Peroxydaza Tuỳ vào mức độ viêm của tuyến vú mà hàm lượng 2 men trên trong sữa tăng nhièu hay ít. 2 men trên là do quá trình phân huỷ tế bào tổ chức giải phóng ra. Trên cơ sở phản ứng Catalaza 2H2O2 peroydaza 2H2O + 2O 19
  11. Do phản ứng giải phóng ra nguyên tử oxy nên trong sữa có bọt khí nổi lên tuỳ theo mức độ tăng của 2 mên trên nhiều ít mà lượng bọt khí nổi lên nhiều ít khác nhau. Người ta có thể sử dụng cá chất chỉ thị mầu để xác định sự có mặt của 2 men trên các chất chỉ thị mầu thưoừng là + Pyramidon từ mầu trắng chuyển thành mầu tím + Ben Zidin từ mầu đen thành mầu xanh + Phenohftalein từ mầu trắng chuyển thành mầu hồng c. Xác định độ tăng của PH sữa: Khi lá vú bị viêm sẽ có quá rình phân huỷ tế bào tổ chức làm thay đổi PH của sữa Phân huỷ Protein Axit Amin làm cho môi trường toan tính PH giảm Vi khuẩn Ta có thể dùng giấy quỳ hoặc dùng máy đo PH để xác định PH của sữa hay dùng các chất chỉ thị mầu + Bromothymol Bleu khi kết hợp với sữa nếu có - Mầu vàng thì PH sữa là toan tính - Mầu xanh lá mạ PH sữa là trung tính - Mầu xanh lá cây PH sữa là kiềm tính + Phenol Red khi kết hợp với sữa nếu có - Mầu vàng gạch PH sữa là toan tính - Mầu hơi vàng PH sữa là trung tính - Mầu đỏ thẫm PH sữa là kiềm tính c. Xác định số lượng bạch cầu, tế bào nhu mô trong sữa - Dùng phương phap ly tâm sữa lấy cặn xem kính phát hiện số lượng bạch cầu và tế bào nhu mô trong sữa nhiều hay ít - Phương pháp CMT (Califormia Mastitis Test) cho sữa tác dụng với dung dịch CMT là một dung dich có tính kiềm có tác dụng dính kết các tế bào nhu mô trong sữa lại với nhau tuỳ thuộc vào mức độ gắn kết của các tế bào nhu mô ở mức +, ++, +++, ++++, mà người ta đánh giá được mức độ viêm vú 20