Bài giảng Huyết áp giả và bệnh ung thư
Huyết áp trong cơ thể con người phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chứ không chỉ phụ thuộc vào tim mạch. Từ cổ xưa, Đông y đã biết rằng khí của Lục phủ, Ngũ tạng đều chạy ra ống tay, do vậy Đông y mới có bắt mạch ở hai bên cổ tay để định bệnh.
Ngày nay nhờ có máy đo huyết áp của Tây y, Khí công Y đạo đã sử dụng nó để định bệnh, xác định được hư- thực, hàn- nhiệt, biểu- lý của con người thay cho bắt mạch của Đông y và có độ chính xác cao.
KCY Đ cũng đã xác định được huyết áp của con người phụ thuộc vào TinhKhí- Thần, ví dụ như huyết áp của một người hàng ngày bình thường, nhưng khi giận dữ huyết áp có thể tăng cao gây ra đứt mạch máu não; lại nữa có người bị huyết áp cao, uống thuốc giảm huyết áp đều đặn hàng ngày, huyết áp nằm trong tiêu chuẩn, nhưng sau một buổi ăn tiệc về no say về, huyết áp tăng cao gây đột tử .... Tất cả các trường hợp đó KCY Đ gọi là huyết áp giả.
Tây y không có khái niệm huyết áp giả. Nhưng chính huyết áp giả đã làm cho Tây y chẩn đoán sai lầm và đã không có cách nào chữa dứt hẳn căn bệnh cao huyết áp, cuối cùng gây ra nhiều biến chứng dẫn đến tử vong bất ngờ.
Một trong những căn bệnh nan y hiện nay là bệnh ung thư. Như chúng ta đã biết, các tế bào trong cơ thể cần hai yếu tố máu và oxy để nuôi dưỡng. Bổ máu do ăn uống, tăng oxy cho máu bằng cách tập thở Khí công.
Muốn biết có đủ khí và huyết hay không thì dùng máy đo khí huyết mà chúng ta thường gọi là máy đo huyết áp sẽ biết, khi so sánh với lứa tuổi của mình
File đính kèm:
bai_giang_huyet_ap_gia_va_benh_ung_thu.pdf
Nội dung text: Bài giảng Huyết áp giả và bệnh ung thư
- 1 Mục lục LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................. 2 Chương 1. HUYẾT ÁP GIẢ ...................................................................................... 3 1.1. Thế nào là huyết áp thật và huyết áp giả ............................................................................... 4 1.2. Thử nghiệm huyết áp giả trên từng huyệt ............................................................................ 6 1.2.1. Công dụng của từng huyệt ................................................................................................ 8 1.2.2. Cách phối hợp huyệt ......................................................................................................... 11 1.3. Sự thay đổi huyết áp qua Tinh- Khí- Thần .......................................................................... 12 1.3.1. Yếu tố do Tinh .................................................................................................................. 12 1.3.2. Yếu tố Khí ....................................................................................................................... 13 1.3.3. Yếu tố Thần .................................................................................................................. 14 1.4. Day bấm huyệt để điều chỉnh huyết áp theo chứng bệnh ........................................................ 15 Chương 2. MỘT SỐ BỆNH ÁN CHỮA BỆNH DO HUYẾT ÁP GIẢ ............ 30 2.1. Tây y chẩn đoán stroke nhẹ, đứt một sợi thần kinh nhỏ trên đầu ........................................ 30 2.2. Cấp cứu huyết áp cao bằng châm nặn máu ............................................................................. 32 2.3. Chuột rút cổ chân và vai .......................................................................................................... 34 2.4. Tim đập chậm và mất nhịp ...................................................................................................... 35 2.5. Cột sống bị lủng lỗ làm dò tủy cần phải mổ để tránh tê liệt.................................................... 36 2.6. Chóng mặt, yếu sức, mệt, hay quên, bác sĩ không tìm ra nguyên nhân .................................. 40 2.7. Đau thần kinh khớp hàm ......................................................................................................... 41 2.8. Gan thiếu máu, nguyên nhân của nhiều loại bệnh nan y ......................................................... 42 Chương 3. BỆNH UNG THƯ ................................................................................... 44 3.1. Khái lược về ung thư theo Y học hiện đại .............................................................................. 44 3.2. Nguyên nhân ung thư và nguyên tắc chữa ung thư theo KCYĐ. ............................................ 45 3.2.1. Nguyên nhân ................................................................................................................... 45 3.2.2. Nguyên tắc chữa theo KCYĐ .......................................................................................... 47 Chương 4. MỘT SỐ BỆNH ÁN VÀ ĐIỆN THƯ HƯỚNG DẪN ......................... 48 CHỮA UNG THƯ THEO KCYĐ ............................................................................ 48 4.1. Bệnh Tâm thần hoảng sợ do cách chữa dồn dập không đồng bộ của Tây y ........................... 48 4.2. Khám bệnh bằng máy đo huyết áp tìm ra được bệnh ung thư máu ......................................... 50 4.3. Ung thư sọ não, di căn của ung thư phổi do hút nhiều thuốc lá .............................................. 54 4.4. Chữa ung thư Phổi kết ............................................................................................................. 59 4. 5. Chữa ung thư vòm họng ......................................................................................................... 60 4.6. U xơ tử cung ác tính, u sọ não đi đứng mất thăng bằng .......................................................... 62 4.7. Một trường hợp bị 2 bệnh ung thư .......................................................................................... 67 4.8. Hậu qủa thiếu khí huyết, huyết áp thấp, bị ung thư Bao tử đã cắt 4/5, sinh biến chứng ......... 71 4.9. Hỏi cách định bệnh và cách chữa bệnh ung thư tử cung di căn có nhiều bướu hạch trong ổ bụng. ............................................................................................................................................... 74 4.10. Hỏi cách chữa Phổi có bướu phát triển nhanh, có cách gì ngăn chặn sự phát triển của nó .. 78 4.11. Những kết qủa kỳ diệu của phương pháp tập thở Khí công để chữa những bệnh nan y ....... 80 Phụ lục 1. CÁC BÀI THUỐC ĐÔNG Y, CÂY THUỐC TRỊ UNG THƯ ........... 96 P1.1. Quế Chi, Phục Linh tán chữa ung thư Bao tử và ruột ........................................................... 96 P1.2. Một số bài thuốc điều trị ung thư sau phẫu thuật ............................................................... 109 P1.3. Bài thuốc Nam điều trị ung thư ........................................................................................... 110 P1.4. Cách dùng cây Nha Đam chữa bệnh Ung Thư ................................................................... 112 P1.5. Những cây thuốc ở Việt Nam có tác dụng chống ung thư .................................................. 117 Phụ lục 2. MỘT HY VỌNG MỚI CHO NHỮNG NGƯỜI BỊ BỆNH UNG THƯ: ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BẰNG SINH TỐ D. ............................ 129 Phụ lục 3. CÁCH PHÒNG CHỐNG UNG THƯ ................................................. 132 1
- 2 Phụ lục 4. CÁCH ĐỀ PHÒNG BỆNH UNG THƯ MÁU VÀ CÁCH CHỮA PHỐI HỢP GIỮA TÂY Y VÀ ĐÔNG Y- KHÍ CÔNG ....................................... 135 A-Tổng quát về bệnh ung thư máu ............................................................................................... 135 B- Nguyên nhân ung thư máu ...................................................................................................... 137 C- Dấu hiệu của bệnh ung thư máu .............................................................................................. 139 D- Xét nghiệm các loại ung thư máu ........................................................................................... 139 E- Phân loại bệnh ung thư máu .................................................................................................... 140 F- Điều trị theo Tây Y .................................................................................................................. 143 Phương pháp điều trị tùy thuộc vào từng loại của bệnh bạch cầu: ............................................... 143 G- Điều trị theo Đông Y – Khí công ............................................................................................ 147 Phụ lục 5. CHỮA UNG THƯ BẰNG ĐIỀU CHỈNH ĂN UỐNG ....................... 157 1. Một số những món ăn thuốc tiêu biểu: ..................................................................................... 157 2. Một nữ khoa học đã tự chữa lành bệnh ung thư bằng ăn uống ............................................... 158 Phụ lục 6. BẢNG HUYẾT ÁP TIÊU CHUẨN THEO TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI WHO .............................................................................................................. 162 LỜI NÓI ĐẦU Huyết áp trong cơ thể con người phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chứ không chỉ phụ thuộc vào tim mạch. Từ cổ xưa, Đông y đã biết rằng khí của Lục phủ, Ngũ tạng đều chạy ra ống tay, do vậy Đông y mới có bắt mạch ở hai bên cổ tay để định bệnh. Ngày nay nhờ có máy đo huyết áp của Tây y, Khí công Y đạo đã sử dụng nó để định bệnh, xác định được hư- thực, hàn- nhiệt, biểu- lý của con người thay cho bắt mạch của Đông y và có độ chính xác cao. KCY Đ cũng đã xác định được huyết áp của con người phụ thuộc vào Tinh- Khí- Thần, ví dụ như huyết áp của một người hàng ngày bình thường, nhưng khi giận dữ huyết áp có thể tăng cao gây ra đứt mạch máu não; lại nữa có người bị huyết áp cao, uống thuốc giảm huyết áp đều đặn hàng ngày, huyết áp nằm trong tiêu chuẩn, nhưng sau một buổi ăn tiệc về no say về, huyết áp tăng cao gây đột tử .... Tất cả các trường hợp đó KCY Đ gọi là huyết áp giả. Tây y không có khái niệm huyết áp giả. Nhưng chính huyết áp giả đã làm cho Tây y chẩn đoán sai lầm và đã không có cách nào chữa dứt hẳn căn bệnh cao huyết áp, cuối cùng gây ra nhiều biến chứng dẫn đến tử vong bất ngờ. Một trong những căn bệnh nan y hiện nay là bệnh ung thư. Như chúng ta đã biết, các tế bào trong cơ thể cần hai yếu tố máu và oxy để nuôi dưỡng. Bổ máu do ăn uống, tăng oxy cho máu bằng cách tập thở Khí công. Muốn biết có đủ khí và huyết hay không thì dùng máy đo khí huyết mà chúng ta thường gọi là máy đo huyết áp sẽ biết, khi so sánh với lứa tuổi của mình. Dấu hiệu tiền ung thư cũng sẽ biết khi đo huyết áp, thay vì huyết áp phải ở tuổi của người lớn, thì kết qủa đo huyết áp chỉ bằng huyết áp của một đứa trẻ. Ta có thể kiểm chứng được ở những người bị ung thư, huyết áp thật đều dưới 80mmHg khi so sánh với bảng huyết áp tiêu chuẩn của Khí công Y Đạo. Tập 2. HUYẾT ÁP GIẢ VÀ BỆNH UNG THƯ là cuốn sách được biên soạn tiếp theo của Tập 1. KHÁM ĐỊNH BỆNH BẰNG MÁY ĐO HUYẾT ÁP, nhằm hệ 2
- 3 thống hóa lại theo chủ đề của Khí Công Y Đạo Đỗ Đức Ngọc để giúp bạn đọc nắm bắt kiến thức dễ hơn cho việc tự học và tra cứu. Cuốn sách gồm gồm 4 chương và 5 phụ lục. Chương 1. Huyết áp giả. Chương 2. Một số bệnh án chữa bệnh do huyết áp giả. Chương 3. Bệnh ung thư. Chương 4. Một số bệnh án và điện thư hướng dẫn chữa ung thư theo KCY Đ. Phụ lục 1. Các bài thuốc, cây thuốc trị ung thư. Phụ lục 2. Một hy vọng mới cho những người điều trị ung thư: áp dụng phương pháp điều trị bằng sinh tố D. Phụ lục 3. Cách phòng chống ung thư. Phụ lục 4. Cách đề phòng bệnh ung thư máu và cách chữa phối hợp gữa Tây y và Đông y- Khí công. Phụ lục 5. Chữa ung thư bằng điều chỉnh ăn uống. Phụ lục 6. Bảng huyết áp tiêu chuẩn theo tổ chức Y tế Thế giới. Trong quá trình biên soạn, tác giả đã được Thầy Đỗ Đức Ngọc tận tình chỉ bảo. Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy Đỗ Đức Ngọc kính mến. Do trình độ còn hạn chế, nên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Mong bạn đọc góp ý để tác giả sửa chữa trong lần tái bản. Hà Nội, tháng 6 năm 2013 Vương Văn Liêu Chương 1. HUYẾT ÁP GIẢ Tây y không có khái niệm huyết áp giả. Nhưng chính huyết áp giả đã làm cho Tây y chẩn đoán sai lầm và đã không có cách nào chữa dứt hẳn căn bệnh cao huyết áp, cuối cùng gây ra nhiều biến chứng dẫn đến tử vong bất ngờ. Việc khám phá này thật ra không có gì mới mẻ, nó đã có sẵn trong lý thuyết Đông y về Khí và Huyết trong Bát cương: Âm-Dương, Hư-Thực, Hàn-Nhiệt, Biểu- Lý, được áp dụng hàng ngày trong chẩn bệnh và chữa bệnh, nhưng không ai học hiểu để chữa đúng, vì nó mơ hồ, không kiểm chứng được. Giống như giáo lý Phật Giáo, trước kia chưa có ánh sáng khoa học thì cũng không ai hiểu trong nước có vi trùng hay những vi sinh vật, nay nhờ kính hiển vi mới thấy đúng hay câu nói Tam thiên, Đại thiên thế giới cũng là mơ hồ, ngày nay khoa học chứng minh thấy có các vì tinh tú trong những giải ngân hà Galaxy khác nhau, có những sinh vật sống ở đó. Cũng nhờ vào khoa học, chúng ta có máy đo huyết áp. Nhưng Tây y chỉ biết cách sử dụng máy đo huyết áp để đo huyết áp tim mạch ở cánh tay trái, để biết huyết 3
- 4 áp cao hay thấp. Ngược lại, Đông y Khí công đã nhờ máy đo huyết áp của Tây y để khám phá ra cách đo áp lực khí huyết trong Tạng, Phủ, thay cho bắt mạch chẩn bệnh để tìm Âm-Dương, Hư-Thực, Hàn-Nhiệt, Biểu-Lý một cách đơn giản và áp dụng trong chữa bệnh có nhiều hiệu qủa không ngờ. 1.1. Thế nào là huyết áp thật và huyết áp giả 1. Đối với Tây y, chỉ có một loại huyết áp thật, không có huyết áp giả. Nhưng thực tế theo kinh nghiệm khám phá của môn Đông y Khí công, về ảnh hưởng của Tinh- Khí-Thần đã có ảnh hưởng làm thay đổi huyết áp, đa số những bệnh nhân bị bệnh huyết áp đều là huyết áp giả do sự xung khắc Ngũ hành, Tạng, Phủ làm xáo trộn gây ra bệnh. Tuy nhiên, nếu các bác sĩ chuyên khoa tim mạch chịu khó nghiên cứu, để ý những bệnh nhân bị bệnh tim mạch là huyết áp thực sự do bệnh của tim mạch gây ra, các bác sĩ đã chữa bằng thuốc hay bằng giải phẫu giúp bệnh nhân được ổn định huyết áp. Bỗng nhiên, bệnh nhân bị huyết áp tăng cao đột ngột gây tử vong, các bác sĩ đều bỏ qua không tìm hiểu nguyên nhân tại sao. Đông y Khí công gọi là huyết áp giả tạo, có nguyên nhân mà Đông y đã biết khi xét đến 3 yếu tố căn bản của Đông y là Tinh- Khí-Thần. 2. Có những trường hợp, Đông y chẩn bệnh một bệnh nhân khí huyết suy kém, nhưng dùng máy đo huyết áp vẫn bị bệnh cao huyết áp theo Tây y, phải uống thuốc. 3. Có những bệnh nhân huyết áp ở mức giới hạn, Tây y chưa cần phải cho uống thuốc, nhưng bỗng nhiên chết bất đắc kỳ tử do huyết áp tăng cao đột ngột trước khi chết mà Tây y không khám phá ra nguyên nhân, trường hợp này Đông y cũng đã biết trước. Cả 3 trường hợp trên Đông y đã biết nguyên nhân trước khi bệnh nhân chết, nhưng không có thể chứng minh được bằng lý thuyết Đông y vì Tây y thấy mơ hồ không thể chấp nhận. Ngày nay Đông y Khí công có thể chứng minh cho Tây y hiểu bằng máy đo huyết áp được áp dụng trên từng huyệt. Từ đó Tây y mới có thể tin huyệt là một điểm nhạy cảm trên đường kinh mạch là có thực vì nó đã ảnh hưởng đến sự thay đổi huyết áp khác nhau trên từng huyệt. Máy đo huyết áp của Tây y đem áp dụng thử nghiệm đo áp lực khí trên các huyệt lại có những kết qủa khác nhau, mặc dù vẫn để máy đo ở cánh tay. Tại sao có sự khác biệt ấy ?. Theo lý thuyết Đông y gọi là Ngũ Tạng khí, khi chúng hoạt động đúng chức năng để điều hòa khí đẩy huyết lưu thông khắp cơ thể thì chúng ta không bệnh tật. Nhưng khi khí Ngũ Tạng bị xáo trộn do nguyên nhân Tinh-Khí-Thần mà Khí công gọi là Tinh sai, Khí thiếu, Thần suy, thì khí riêng của những tạng như Can khí, Tâm khí, Tỳ 4
- 5 khí, Phế khí, Thận khí mất chức năng hòa hợp tạo ra áp lực khí từng vùng, chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ bị tắc nghẹt, chỗ được thông, không đồng đều gây sưng đau, nóng lạnh. Đông y bắt mạch tìm ra khí hay huyết ở Tạng hay Phủ nào hư hay thực, hàn hay nhiệt. Nhưng vì không có máy móc để chứng minh cho Tây y công nhận, vả lại các thầy thuốc bắt mạch chính xác ngày nay rất hiếm và hiện nay khoa học cũng chưa phát minh ra được máy bắt mạch hoàn chỉnh. Vì thế ngay cả một tên bệnh Tai biến Mạch Máu Não mà Đông y gọi là trúng gió cũng đã bị Tây y hiểu sai. Trúng phong ở đây là Can phong nội động thuộc khí của gan do Tinh-Khí-Thần làm gan bơm căng các ống máu tăng huyết áp vỡ mạch máu não, chứ không phải gió bên ngoài. Khi vỡ mạch máu não, ít nhất huyết áp lúc đó cao hơn 200/120mmHg mạch 90- 100, sau khi mạch máu não bị vỡ, huyết áp xuống thật thấp, có nghĩa là áp lực khí mất, bệnh nhân đã chết, nếu áp lực khí xuống trên trung bình 145-150/mmHg là bị đứt những mạch máu nhỏ, nếu huyết áp còn cao 180-190/mmHg bệnh nhân vẫn còn đang trong cơn hôn mê, không chữa kịp thời cho huyết áp hạ xuống, máu não sẽ tiếp tục xuất huyết cho đến khi não bị bầm máu nghẽn lưu thông, Tây y không chữa được thì gọi là não chết. Có nhiều người huyết áp tự nhiên vọt lên qúa cao do bội thực, ăn không tiêu, huyết áp đo cao hơn 200/100mmHg nhưng may mắn thoát chết nhờ những ống mạch máu nhỏ ở niêm mạc mũi vỡ ra, chảy máu mũi lênh láng khoảng 200cc máu là chỗ thoát của áp lực khí, sau đó huyết áp trở lại bình thường. Những số đo huyết áp này Tây y vẫn gọi là huyết áp thực sự của tim mạch, nên tìm cách chữa vào tim mạch mãi mà không thấy có kết qủa, nên phải mổ là giải pháp cuối cùng. Thực ra, các bệnh nhân đã được mổ và tin tưởng sẽ hết bệnh cao huyết áp, cuối cùng cũng vẫn bị tai biến, chết vì huyết áp giả của các loại khí trong Tạng, Phủ từ tim, gan, bao tử, phổi, thận . Trong những trường hợp cấp cứu, KCYĐ không chữa tim mạch mà tìm cách cho áp lực đẩy máu thoát ra lối khác như châm nặn máu ra sau tai ở huyệt Ế Phong, đầu ngón tay, đầu ngón chân( huyệt Thập tuyên) để giải tỏa áp lực trên não, bấm huyệt dẫn áp lực khí xuống đường tiêu tiểu. Nhìn biểu đồ huyết áp trên máy xuống bình thường, bệnh nhân tỉnh dần, máu trong não, máu ứ nghẹt trong cơ thể từ từ thoát ra theo mũi, miệng, chảy theo ống tiểu mầu nâu đen bầm khoảng 300-500cc lẫn trong nước tiểu, lúc đó bệnh nhân đã được cứu sống. Đông y Khí công gọi những trường hợp này là huyết áp giả, vì trước kia vẫn uống thuốc kiểm soát huyết áp lúc nào cũng ổn định, tự nhiên huyết áp tăng cao bất ngờ làm vỡ mạch máu não do nguyên nhân khác mà không phải do tim mạch. 5
- 6 1.2. Thử nghiệm huyết áp giả trên từng huyệt Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu công dụng của huyệt và vị trí huyệt để áp dụng trong việc khám phá cách chữa bệnh kỳ diệu của huyệt trong trường hợp cấp cứu những bệnh về huyết áp giả. Trước hết đo huyết áp thực ở hai cánh tay, có những trường hợp khác nhau xẩy ra sau đây: 1. Huyết áp tự nhiên ở hai tay bằng nhau dưới 140/90mmHg mạch 75 là người không bị bệnh huyết áp. 2. Huyết áp 2 tay cao bằng nhau 150/95mmHg là người có bệnh cao huyết áp, mà không uống thuốc chữa bệnh huyết áp. 3. Huyết áp tay bên trái thấp 140/90mmHg mạch 75, bên tay phải 150/90mmHg mạch 78 là bệnh nhân đang uống thuốc chữa cao huyết áp. 4. Huyết áp tay trái 135/90mmHg mạch 72, tay phải cao hơn nhiều 160/95mmHg, mạch 80, có dấu hiệu tê 5 ngón tay phải, đau cổ gáy tay vai phải, không dơ cánh tay lên được. Nếu chữa thuốc giảm đau hay giải phẫu thần kinh hay gân cổ tay, vai là chữa ngọn. Nguyên nhân chính là huyết áp cao, thần kinh ngoại biên bên tay phải bị co thắt làm đau. 5. Huyết áp tự nhiên ở một tay tốt như 120-130/80mmHg mạch 65-75, một tay qúa thấp dưói 100/65mmHg mạch 65. Bên nào thấp là nửa đầu bên đó bị đau thiên đầu thống, Tây y gọi là migraine, do tắc ống mạch dẫn máu ở sau tai lên nuôi não là huyệt Ế Phong. Bấm giữ huyệt này lâu trong thời gian đang đo huyết áp bên thấp, huyết áp nửa bên đầu sẽ tăng cao hơn 140/90mmHg, lúc đó mặt đỏ hồng, trán nóng ấm rịn mồ hôi, và đo lại huyết áp lên tự nhiên khoảng 110/80mmHg. Bấm huyệt Ế Phong một lần nữa cho huyết áp lên hơn 145/90mmHg, sau đó đo huyết áp tự nhiên ở cả 2 tay thấy xuống bằng nhau khoảng 110-115/80mmHg mạch 65-70. Như vậy huyết áp bất bình thường trước khi chưa điều chỉnh là huyết áp giả làm ra bệnh. 6. Đo huyết áp hai tay thấp dưới 110/70mmHg mạch 65 đối với Tây y là huyết áp tốt, nhưng bệnh nhân vẫn bị mệt, chóng mặt, rụng tóc, mất trí nhớ, kém ăn, mặt mất sắc không có thần, tinh thần suy nhược, hay phải chữa đau cổ, gáy, tay, vai kinh niên mà không khỏi. Đây là huyết áp giả, khi bấm huyệt điều hòa khí thông toàn thân, áp lực khí của Lục phủ, Ngũ Tạng chia đều, lúc đó huyết áp thực xuống ở cả 2 bên tay còn 95/60mmHg mạch 60, cần phải uống sirop bổ máu để huyết áp lên đúng và đủ mới tránh được những bệnh ung thư sọ não vì thiếu máu não và máu toàn thân. 7. Nếu huyết áp đo bình thường ở 2 tay thấp dưới 100/65mmHg mạch 65 là thiếu máu bẩm sinh, khi lớn tuổi huyết áp vẫn không lên do ăn uống kiêng khem, ăn chay, không có chất bổ máu, những người này thường hay bị bệnh ung thư, vì hồng cầu mất 6
- 7 dần, bạch cầu tăng. Nếu phụ nữ, thường ung thư vú sau di căn sang ung thư tử cung, đàn ông thường ung thư Phổi di căn sang gan hay Bao tử. 8. Những người có huyết áp 125/80mmHg mạch lúc nào cũng cao trên 110, Tây y cho rằng huyết áp tốt, chỉ có mạch hơi cao. Thực ra bệnh này do thiếu lượng máu trong cơ thể trầm trọng, huyết áp giả đã gạt bác sĩ. Huyết áp thật sự của loại người này là 95/65mmHg mạch 80. Nếu mạch 80 không đủ lực bơm máu tuần hoàn cho đủ một chu kỳ toàn thân, nên tim phải đập nhanh thêm 30 lần nữa trong một phút, làm huyết áp tăng giả lên thêm 30 mới được 125. Đông y Khí công lúc nào cũng điều chỉnh khí để tìm ra huyết áp thật sự, nên mới khám phá ra những căn bệnh nan y mà Tây y không giải quyết được. Có người bị những trường hợp này, trở thành bệnh Tâm thần, hoảng sợ, tim đập nhanh, hồi hộp, mất ngủ. Tây y chữa vào ngọn, dùng thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc trị điên suốt đời mà không chữa vào gốc bệnh nên bệnh càng ngày càng trầm trọng thêm. Trường hợp này Đông y Khí công cho dùng thuốc bổ máu, đủ máu nhịp tim sẽ chậm lại và huyết áp tăng dần cho đến mức tiêu chuẩn bình thường là khỏi bệnh. Để nghiên cứu sự thay đổi huyết áp khi tác động vào huyệt, ta xét đồ hình huyệt của Mạch Nhâm ( hình 1.1), để ý đoạn giao điểm của 2 bờ xương sườn giao nhau tại huyệt Trung Đình. Từ Trung Đình xuống rốn chia làm 8 đoạn đều nhau, có 8 huyệt : Huyệt ở mỏm xương ức là Cưu Vĩ, đến Cự Khuyết, Thượng Quản, Trung Quản, Kiến Lý, Hạ Quản, Thủy Phân và Thần Khuyết. 7
- 8 Hình 1.1. Đồ hình huyệt của mạch Nhâm Từ rốn là huyệt Thần Khuyết đến đỉnh xương mu là Khúc Cốt, chia làm 5 đoạn đều nhau. đoạn thứ nhất từ rốn xuống là huyệt Âm Giao, Thạch Môn, Quan Nguyên, Trung Cực. Huyệt Khí Hải chiếm 1 đoạn rưỡi, giữa Âm Giao và Thạch Môn. 1.2.1. Công dụng của từng huyệt 1. Huyệt CƯU VĨ : Là giao hội huyệt của Mạch Nhâm, Đốc để điều chỉnh tim phổi, chữa đau tức dưới tim nghẹn ngực khó thở, thư giãn ngực, định thần. Đo huyết áp ờ 2 tay khi chưa chữa bằng huyệt, tay nào cao hơn hết sẽ giữ máy đo thường trực ở tay đó, thí dụ tay bên phải cao là 220/120mmHg mạch 95. Sau dùng ngón tay cái bấm đè vào Cưu Vĩ rồi bấm máy, máy đo được 240/130mmHg mạch 95. 8
- 9 Cứ bấm tiếp trên huyệt, bệnh nhân được thư giãn ngực, định thần, lần thứ 2 huyết áp xuống 190/110mmHg mạch 90, bấm tiếp lần thứ 3 bệnh nhân hết bị nấc nghẹn, dưới tay mình nghe có khí và nước từ lồng ngực chảy xuống kêu rọc rọc, huyết áp xuống 160/90mmHg, tiếp tục lần thứ 4 huyết áp xuống 140/90mmHg mạch 80. Buông tay ra không bấm vào huyệt nào cả, đo huyết áp tự nhiên trên tay xuống còn 130/85mmHg mạch 80. Nghĩa là huyết áp ở tay đo tự nhiên thấp hơn huyết áp ở tay lúc bấm huyệt Cưu Vĩ. Trường hợp này Tây y không thể giải thích được, như huyết áp đo được ở tay lên tới 220-240/140mmHg mạch 120 mà không chết, vì huyết áp này là áp lực lồng ngực dẫn ra mạch ở tay chứ không phải là áp lực của tim dẫn ra mạch ở tay. 2. Huyệt CỰ KHUYẾT : Là huyệt giao hội của tim với Bao tử, có công hiệu thông hòa ngăn nghẹn ở cách mô, giúp điều hòa tiêu hóa trung tiêu, chữa khí của tim suy, tỉnh thần, khí huyết suy nhược do huyết áp thấp. Khi đo huyết áp ở 2 tay hay nhìn ở biểu đồ huyết áp trên máy trong phòng cấp cứu thấy huyết áp thiếu dưới 105/65mmHg mạch 75. Khi bấm đè giữ vào huyệt này, huyết áp lên từ từ đến mức 135-140/85-90 mạch 75 thì buông ra. Nếu buông tay không bấm huyệt, đo lại huyết áp vẫn ổn định thì không cần bấm nữa. Đó là huyết áp thực của bệnh nhân. 3. Huyệt THƯỢNG QUẢN : Là huyệt giao hội của lá mía, Bao tử, ruột non. Có chức năng tiêu đàm ngăn nghẹn, hóa đàm tiêu thấp trọc, thông chức năng hoạt động của Tỳ Vị, làm tỉnh thần. Khi đo huyết áp tự nhiên ở tay 190/100mmHg mạch 90, do đờm dãi trong lồng ngực ngăn nghẹn vì thức ăn trong Bao tử không tiêu hóa thành đàm ứ đọng ở cách mô, khó thở khò khè. Bấm ngón tay cái vào huyệt này, nghe bụng sôi, hạ đàm, huyết áp lên tới 220/120mmHg mạch 100, thông vài lần nghe tiếng ọc ạch, ho sặc, khạc đàm, hay có khí, có nước chạy xuống bụng là đàm đã hạ, đo lại huyết áp xuống còn 140/90mmHg ở huyệt này, nhưng buông tay không bấm huyệt nữa, đo huyết áp thực ở tay bây giờ là 130/85mmHg mạch 75 4. Huyệt TRUNG QUẢN : Là giao hội huyệt của khí, Bao tử, Tam tiêu, Tiểu trường, dẫn thức ăn xuống ruột non để thu nạp chất bổ khí toàn thân. Khi đo huyết áp bình thường ở tay khoảng 160/100mmHg mạch 100, bấm huyệt này, nghe tiếng nước hay khí chạy xuống bụng và ruột, hơi thở mạnh hơn, bụng phồng xẹp được nhiều hơn, đều hơn. Lúc đó huyết áp xuống 120-130/80-90mmHg là lý tưởng, và nhìn vào nhịp thở đang thấp, có khi máy không chỉ vì dùng máy trợ thở 9
- 10 mà cơ thể bệnh nhân không thở, chỉ nghe tiếng xì xạch của máy, bệnh nhân không thở, nhưng khi bấm vào huyệt này, hơi thở bệnh nhân tăng lên, đều đặn hơn, giữ nhịp 18-20 hơi thở trong 1 phút. Như vậy huyệt này dùng để chỉnh giữ nhịp thở bệnh nhân được tự thở đều đặn. Khi buông tay ra khỏi huyệt, con số nhịp thở vẫn được duy trì, chứng tỏ thần của bệnh nhân được phục hồi, sẽ tỉnh ra khỏi cơn hôn mê rất nhanh. 5. Huyệt KIẾN LÝ : Là huyệt điều chỉnh Tỳ Vị, dẫn khí từ thượng tiêu xuống trung tiêu, từ trung tiêu thức ăn được điều chỉnh tiêu tích trệ ứ đọng xuống hạ tiêu. Đo huyết áp trước khi bấm vào huyệt này khoảng 180/100mmHg mạch 100 là ăn không tiêu, là huyết áp tăng giả tạo. Bấm huyệt này cho huyết áp xuống 120/80mmHg mạch 80 là lý tưởng. Buông tay, đo lại huyết áp xuống 120- 125/80mạch 75 là huyết áp thực của tim mạch được thư giãn không do sức ép của Bao tử ở lồng ngực nữa. 6. Huyệt HẠ QUẢN : Là huyệt giao hội của Tỳ (lá mía) có công dụng giúp Bao tử tiêu hóa, hấp thụ thức ăn thành chất bổ khí huyết, làm trống Bao tử tiêu hóa thức ăn. Đo huyết áp trước khi bấm huyệt này, khoảng 170-200/100-120mmHg mạch 80- 100 là Bao tử bị đầy không tiêu. Bấm huyệt giữ lâu, bệnh nhân thở sâu hơn, bụng có tiếng kêu ọc ọc, Bao tử bị đẩy thức ăn xuống dưới, nhịp thở mạnh hơn, có lực hơn. Đo lại huyết áp xuống còn 120/80mmHg là huyết áp thật của tim mạch. Có thể cùng lúc bấm cả hai huyệt Kiến Lý và Hạ Quản. để giùp nhịp thở đều 18 hơi và tăng biên độ hơi thở để máy vẽ ra hình sin đều và cao hơn, mới trở thành người khỏe mạnh. 7. Huyệt THỦY PHÂN : Là huyệt điều chỉnh chức năng của Thận và Tỳ, hai chức năng này tương phản không hòa hợp, Tỳ Vị ngăn chặn sự thoát nước của Thận làm ra sưng phù nê. Đo huyết áp trước khi bấm huyệt lên tới 200/120mmHg mạch 100, trong khi bấm huyệt, đo huyết áp xuống dần 120/80mmHg là lý tưởng, sau đó đo lại tự nhiên huyết áp thực của tim mạch bây giờ cũng khoảng 120/80 mạch 75. 8. Huyệt THẦN KHUYẾT : Là huyệt của Bao tử và ruột già, có chức năng làm ấm bụng do mất nhiệt, điều chỉnh trường vị, huyệt cấp cứu hồi dương cố thoát do mất máu mất nước vì tiêu chảy. 9. Huyệt ÂM GIAO : Là huyệt giao hội của Thận và Mạch Xung (của tim), có chức năng phân thanh trọc, cho xuất nước, xuất hàn lạnh ra khỏi cơ thể. 10

