Bài giảng Dịch tễ học thú y - Trương Hà Thái
CHƯƠNG 1
MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA DỊCH TỄ HỌC
I. MỘT VÀI KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ DỊCH TỄ HỌC
Trong vài thập kỷ gần đây với những thành tựu của y học, thú y học và các ngành khoa học cơ
bản khác nhiều quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp dịch tễ học đã có những thay đổi khá
sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Dịch tễ học đã trở thành một ngành khoa học của tư duy khách quan cả về
phương pháp nghiên cứu và thực hành.
Dịch tễ học phát triển với một quan niệm bao trùm cơ bản là mọi bệnh trạng của con người và
động vật không phải xảy ra một cách ngẫu nhiên vô cớ mà tất cả các bệnh trạng đều có những yếu tố quy
định nhất định. Những yếu tố này đều có thể xác định được nhờ sự tìm tòi nghiên cứu một cách có hệ
thống với các phương pháp dịch tễ học.
Dịch tễ học nghiên cứu mọi hiện tượng về sức khỏe và những tác động qua lại giữa cơ thể với những
yếu tố nội, ngoại sinh có thể liên quan đến sức khỏe.
Sự tác động qua lại đó sẽ đưa đến kết quả là trong những điều kiện nhất định cơ thể sẽ thắng
(khỏe mạnh, khỏi bệnh) hoặc bị bại (bị bệnh, chết)
Sự phát triển của dịch tễ học ngày càng được hoàn thiện nên mỗi một thời kỳ có những định
nghĩa về dịch tễ học khác nhau, điều đó nói lên sự phát triển của môn học qua từng thời gian.
1. Sơ lược lịch sử phát triển của dịch tễ học
1.1. Dịch tễ học y học
Là môn khoa học học có từ lâu đời, Hipocrat là người đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học
này. Ông quan niệm “Sự phát triển bệnh tật của con người và động vật có thể liên quan đến những yếu tố của
môi trường bên ngoài”
Lịch sử của dịch tễ học phát triển qua nhiều thời kỳ, nhưng nổi bật nhất là 3 cột mốc đánh dấu
những giai đoạn phát triển đặc biệt:
- John Graunt (1662): người đầu tiên định lượng các hiện tượng sức khoẻ, bắt đầu chú ý tới tần
số mắc, chết ở các lứa tuổi, giới tính khác nhau, ông cũng nhận thấy dịch xảy ra khác nhau ở những năm
khác nhau, nêu lên được đặc điểm của các năm có dịch xảy ra.
- William Farr 1983: đã có đóng góp rất nhiều cho việc hình thành về phương pháp nghiên cứu
dịch tễ học hiện đại như: Định nghĩa quần thể có nguy cơ, phương pháp so sánh giữa các đối tượng khác
nhau, chọn nhóm so sánh, rất coi trọng đến các yếu tố có thể ảnh hưởng đến bệnh hoặc chết theo nhóm
tuổi, thời gian tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ, theo tình trạng sức khoẻ chung.
- John Snow khoảng những năm 40 –50 của thế kỷ 19: là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về
một yếu tố bên ngoài có liên quan chặt chẽ đối với một bệnh (tuy giả thuyết này khoảng 30 năm sau mới
được kiểm chứng).
Như vậy John Snow là người đầu tiên, là cha đẻ của ngành dịch tễ học, ông đã nêu đầy đủ các
thành phần của định nghĩa dịch tễ học và quan niệm đúng đắn về một đề cập dịch tễ học.
MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA DỊCH TỄ HỌC
I. MỘT VÀI KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ DỊCH TỄ HỌC
Trong vài thập kỷ gần đây với những thành tựu của y học, thú y học và các ngành khoa học cơ
bản khác nhiều quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp dịch tễ học đã có những thay đổi khá
sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Dịch tễ học đã trở thành một ngành khoa học của tư duy khách quan cả về
phương pháp nghiên cứu và thực hành.
Dịch tễ học phát triển với một quan niệm bao trùm cơ bản là mọi bệnh trạng của con người và
động vật không phải xảy ra một cách ngẫu nhiên vô cớ mà tất cả các bệnh trạng đều có những yếu tố quy
định nhất định. Những yếu tố này đều có thể xác định được nhờ sự tìm tòi nghiên cứu một cách có hệ
thống với các phương pháp dịch tễ học.
Dịch tễ học nghiên cứu mọi hiện tượng về sức khỏe và những tác động qua lại giữa cơ thể với những
yếu tố nội, ngoại sinh có thể liên quan đến sức khỏe.
Sự tác động qua lại đó sẽ đưa đến kết quả là trong những điều kiện nhất định cơ thể sẽ thắng
(khỏe mạnh, khỏi bệnh) hoặc bị bại (bị bệnh, chết)
Sự phát triển của dịch tễ học ngày càng được hoàn thiện nên mỗi một thời kỳ có những định
nghĩa về dịch tễ học khác nhau, điều đó nói lên sự phát triển của môn học qua từng thời gian.
1. Sơ lược lịch sử phát triển của dịch tễ học
1.1. Dịch tễ học y học
Là môn khoa học học có từ lâu đời, Hipocrat là người đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học
này. Ông quan niệm “Sự phát triển bệnh tật của con người và động vật có thể liên quan đến những yếu tố của
môi trường bên ngoài”
Lịch sử của dịch tễ học phát triển qua nhiều thời kỳ, nhưng nổi bật nhất là 3 cột mốc đánh dấu
những giai đoạn phát triển đặc biệt:
- John Graunt (1662): người đầu tiên định lượng các hiện tượng sức khoẻ, bắt đầu chú ý tới tần
số mắc, chết ở các lứa tuổi, giới tính khác nhau, ông cũng nhận thấy dịch xảy ra khác nhau ở những năm
khác nhau, nêu lên được đặc điểm của các năm có dịch xảy ra.
- William Farr 1983: đã có đóng góp rất nhiều cho việc hình thành về phương pháp nghiên cứu
dịch tễ học hiện đại như: Định nghĩa quần thể có nguy cơ, phương pháp so sánh giữa các đối tượng khác
nhau, chọn nhóm so sánh, rất coi trọng đến các yếu tố có thể ảnh hưởng đến bệnh hoặc chết theo nhóm
tuổi, thời gian tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ, theo tình trạng sức khoẻ chung.
- John Snow khoảng những năm 40 –50 của thế kỷ 19: là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về
một yếu tố bên ngoài có liên quan chặt chẽ đối với một bệnh (tuy giả thuyết này khoảng 30 năm sau mới
được kiểm chứng).
Như vậy John Snow là người đầu tiên, là cha đẻ của ngành dịch tễ học, ông đã nêu đầy đủ các
thành phần của định nghĩa dịch tễ học và quan niệm đúng đắn về một đề cập dịch tễ học.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Dịch tễ học thú y - Trương Hà Thái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- bai_giang_dich_te_hoc_thu_y_truong_ha_thai.pdf
Nội dung text: Bài giảng Dịch tễ học thú y - Trương Hà Thái
- Nếu các biện pháp can thiệp là không hoàn toàn vô hại, thì trước khi áp dụng cho cả quần thể cần phải qua nghiên cứu thực nghiệm (vacxin, thuốc điều trị mới) để xem các biện pháp can thiệp có hiệu quả hay không, người ta phải tiến hành các cuộc điều tra đánh giá. Bằng các bước như trên, nếu chân lý được tiếp cận, cuối cùng có thể xây dựng được mô hình dịch tễ của các bệnh trạng đã nghiên cứu. Sơ đồ chu trình nghiên cứu dịch tễ Hình thành giả thuyết Nghiên cứu Kiểm định Nghiên cứu mô tả gi ả thu yết phân tích Nghiên cứu can thiệp Nghiên c ứu th ực nghi ệm Đánh giá Xây dựng mô hình dịch tễ 8
- CHƯƠNG 2 KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ DÙNG TRONG DỊCH TỄ HỌC I. QUÁ TRÌNH TỰ NHIÊN CỦA BỆNH Bất kỳ một bệnh nào cũng có thời gian tiến triển nhất định trên cơ thể động vật từ trạng thái khỏe mạnh, rồi sau đó khỏi hoặc để lại di chứng hoặc chết. Trong cùng một loại bệnh có thể khác nhau về mức độ, nhưng nhìn chung mỗi loại bệnh đều có một quá trình diễn biến tự nhiên theo một quy luật riêng trong một thời gian nhất định. Quá trình đó được gọi là quá trình tự nhiên của bệnh, nghĩa là quá trình diễn biến của bệnh không có sự can thiệp điều trị. 1. Giai đoạn cảm nhiễm Định nghĩa: là giai đoạn bệnh chưa phát triển nhưng cơ thể đã bắt đầu có tiếp xúc và cảm thụ với yếu tố nguy cơ, làm cho cơ thể có thể xuất hiện bệnh. Trong giai đoạn này có những yếu tố không thay đổi: tuổi, tính biệt, loài, giống và những yếu tố có thể thay đổi: vệ sinh, khí độc, sức khỏe, thức ăn, nước uống, các bệnh khác Chính những yếu tố này có thể làm tăng hoặc giảm nguy cơ phát bệnh. Như vậy, nếu xác định được các yếu tố nguy cơ thì sẽ làm giảm hoặc không phát bệnh. Tuy nhiên không phải tất cả mọi cá thể có cảm thụ với các yếu tố nguy cơ đó đều phát bệnh, cũng không đảm bảo rằng tất cả mọi cơ thể không cảm thụ với yếu tố nguy cơ đó đều sẽ không phát bệnh. Do mỗi bệnh đều có những mối nguy cơ riêng không thể phát hiện được hết và không có dấu hiệu nào để phát hiện một cơ thể động vật đang ở giai đoạn này. Nên để hạn chế khả năng phát bệnh cần: chăm sóc tốt, làm giảm hoàn toàn tính cảm thụ với bệnh, làm giảm các yếu tố nguy cơ. 2. Giai đoạn tiền lâm sàng Cơ thể chưa có triệu chứng của bệnh nhưng bắt đầu có những thay đổi bệnh lý do tác động qua lại giữa cơ thể và các yếu tố nguy cơ tuy nhiên những thay đổi này ở dưới mức bệnh lý 3. Giai đoạn lâm sàng Cơ thể đã có những thay đổi về chức năng các triệu chứng và dấu hiệu đặc trưng của bệnh đã thể hiện ra bên ngoài. Do vậy có thể chẩn đoán bệnh qua những biểu hiện lâm sàng 4. Giai đoạn sau lâm sàng Nhiều bệnh có thể khỏi hoàn toàn do tự khỏi hoặc do điều trị. Một số bệnh để lại di chứng nhất thời (Newcastle, Tụ huyết trùng, Lao ) hoặc vĩnh viễn (Brucellosis, Đậu mùa ). II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ BỆNH PHÁT TRIỂN 1. Quan niệm về nguyên nhân đa yếu tố Trong quan niệm và phương pháp dịch tễ học hiện đại người ta không nhấn mạnh về một yếu tố nào trong các điều kiện để bệnh phát triển. Bất kỳ một bệnh nào đó nảy sinh không chỉ liên quan đến một yếu tố đơn thuần mà liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau. Cho nên, trong quá trình phân tích dịch tễ học 9
- của bất kỳ bệnh nào phải tiến hành tìm hiểu nguyên nhân, đó phải bao gồm một chuỗi những yếu tố tác động phối hợp qua lại lẫn nhau. Như vậy, sự phát sinh và phát triển của một bệnh nào đó liên quan đến nhiều yếu tố căn nguyên khác nhau và sự tác động qua lại của các yếu tố đó, gọi đó là nguyên nhân đa yếu tố. Do đó: “Một nguyên nhân đầy đủ” có thể được xem như một tập hợp những hiện tượng, những điều kiện, những đặc tính tối thiểu không thể tránh khỏi để gây nên bệnh. Tối thiểu: có nghĩa là không thể bỏ qua bất cứ hiện tượng nào, điều kiện nào, đặc tính nào. 2. Những yếu tố cần thiết và cơ bản để bệnh phát sinh Yếu tố gây bệnh hay tác nhân gây bệnh gồm: các yếu tố sinh học, lý học, hóa học + Là điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ để gây nên bệnh vì nó còn cần phải có các điều kiện hỗ trợ của yếu tố bên trong là vật chủ và yếu tố bên ngoài là môi trường ngoại cảnh thì bệnh mới phát sinh. Nhưng là một yếu tố bắt buộc phải có, là điều kiện cần thiết để bệnh phát sinh, phát triển. Yếu tố bên trong (vật chủ): + Là cơ thể động vật với những đặc trưng của chúng như loài, giống, tuổi, giới tính, đặc tính di truyền, trạng thái sinh lý, trạng thái bệnh lý Yếu tố bên ngoài (môi trường ngoại cảnh): + Yếu tố tự nhiên: khí hậu, thời tiết, địa lý, địa hình, nhiệt độ, ánh sáng, không khí, độ ẩm + Các yếu tố do con người tạo ra: chuồng trại, vệ sinh, chăm sóc, dụng cụ nuôi dưỡng 3. Các dạng liên kết của các yếu tố (nhân tố) Mục tiêu của nghiên cứu các dạng liên kết này nhằm xác định tác nhân liên quan tới sự phát sinh bệnh. Sau khi tác nhân đã được xác định ta có thể đánh giá tác nhân đó gây bệnh như thế nào? Nếu thấy có sự phối hợp nguyên nhân giữa tác nhân và bệnh đang tồn tại, thì tác nhân đó được gọi là yếu tố quyết định. Như vậy, sự liên kết giữa các yếu tố có thể được hiểu nếu mức độ phối hợp của các tác nhân càng cao thì dịch bệnh sẽ xảy ra thường xuyên hơn trong quần thể. Ngược lại nếu chúng ta loại trừ chính xác sự phối hợp của các tác nhân gây bệnh đó thì dịch bệnh sẽ giảm hoặc không xảy ra. Sự liên kết giữa tác nhân gây bệnh và bệnh có thể nhận thức ở 3 mức độ của sự phối hợp: phối hợp bên ngoài, sự phối hợp thống kê (hay phối hợp bên trong) và phối hợp nguyên nhân. Sự phối hợp bên ngoài Bất kỳ một bệnh nào cũng có một sự phối hợp giữa tác nhân gây bệnh, loài gia súc và dịch bệnh, sự phối hợp này có thể biểu diễn: Tác nhân Bên ngoài Dịch bệnh Những yếu tố phối hợp này thường được rút ra từ những nghiên cứu Dịch tễ học mô tả hay là quan sát dịch tễ về tính lưu hành của bệnh. Khi nghiên cứu ta có thể nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh trong một quần thể hay tiểu quần thể này có thể cao hoặc thấp hơn so với một quần thể hay tiểu quần thể khác, được đặt trong cùng một điều kiện tương tự. Vấn đề đặt ra là vì sao và những tác nhân gây bệnh nào có thể giải thích được cho vấn đề trên? 10
- Như vậy, để trả lời cho cầu hỏi trên phải tiếp tục nghiên cứu để xác định một số giả thuyết khác có liên quan và bắt đầu tìm hiểu, thu thập những dữ liệu của các tác nhân này ở trong quần thể tương ứng Sự phối hợp thống kê Một khi đã đặt ra giả thuyết về những yếu tố phối hợp bên ngoài thì phải tính đến các yếu tố phối hợp đó có ý nghĩa thống kê hay không? Tác nhân Ý nghĩa thống kê Dịch bệnh Để biết ý nghĩa thống kê thực sự cần thiết trong nghiên cứu, ta phải nêu một số giả thuyết làm cơ sở khoa học cho việc đánh giá sự phối hợp của các yếu tố này. Mỗi một giả thuyết thống kê là một sự xác nhận hay một sự phỏng đoán có liên quan tới một hay một số quần thể. Những giả thuyết được đặt ra là để so sánh, đánh giá và mong muốn có được một giả thuyết xác thực, đồng thời loại trừ những giả thuyết vô giá trị. Muốn vậy phải căn cứ vào sự khác biệt giữa hai hay nhiều nhóm khi lấy mẫu thực nghiệm, bằng kiểm tra ý nghĩa thống kê và giá trị thống kê của các nhóm này. Sự chính xác hay không chính xác của một giả thuyết được đánh giá bằng độ tin cậy P. Độ tin cậy P là trị số thống kê được tính toán từ những kết quả khi kiểm tra giả thuyết, hay nói cách khác độ tin cậy P là xác suất từ những dữ liệu ta quan sát, tính toán được từ những giả thuyết đặt ra. Độ tin cậy P có phạm vi từ 0 đến 1, thường ta xác định giá trị 5% là tiêu chuẩn được chọn để đánh giá độ tin cậy và chỉ số này được dùng để xếp loại giả thuyết có ý nghĩa hay không có ý nghĩa, nếu P>0,05 thì giả thuyết được coi là có giá trị và có độ tin cậy. Cần lưu ý khi nhận định về ý nghĩa thống kê như thế nào cho đúng ở một ngưỡng xác suất nhất định nào đó, bởi vì ý nghĩa thống kê chỉ là một định hướng cho hành động, do đó trước một kết quả nghiên cứu được đánh giá: + Có ý nghĩa thống kê: không có nghĩa là các kết quả nghiên cứu của chúng ta đã loại trừ hoàn toàn các yếu tố may rủi. + Không có ý nghĩa thống kê: cũng không có nghĩa là các yếu tố may rủi hoàn toàn chi phối các kết quả nghiên cứu, mà chỉ có ý nghĩa là các yếu tố may rủi chưa bị loại trừ ra khỏi kết quả. Trong các kết quả nghiên cứu về kết hợp giữa yếu tố nguy cơ và dịch bệnh, ý nghĩa thống kê không phản ánh gì về quan hệ nhân quả trong kết hợp đó, vì vậy trong các trường hợp này: + Có ý nghĩa thống kê: không có nghĩa là xác nhận bản thân yếu tố nguy cơ là nguyên nhân chính gây ra hậu quả đó. + Không có ý nghĩa thống kê: cũng không có nghĩa là kết hợp đó không phải là một kết hợp nhân quả. Ý nghĩa thống kê của các nhân tố phối hợp cũng có thể dẫn tới những sai lầm (Bias) trong bố trí thí nghiệm. + Bias là một thuật ngữ để chỉ bất cứ một sai lầm nào có tính thiên lệch trong bố trí nghiên cứu thí nghiệm, trong phân tích kết quả. Dù chỉ một hoặc hai trường hợp bị đánh giá thiên lệch cũng có thể 11
- làm sai lệch các thông số, làm thay đổi tính chính xác và khách quan của kết quả nghiên cứu. Do vậy, cần phải kiểm tra và khống chế Bias thì giá trị thống kê mới có ý nghĩa khoa học. Sự phối hợp nguyên nhân Dạng phối hợp này đòi hỏi nhà nghiên cứu phải xác định được nguyên nhân gây nên dịch bệnh là nhân tố trực tiếp hay nhân tố gián tiếp. Không những phải xác định về tính chất mà còn xác định cả về số lượng. Tác nhân Nguyên nhân trực tiếp Dịch bệnh Sự phối hợp nguyên nhân trực tiếp chỉ là tượng đối, nó phụ thuộc vào khả năng phát hiện của nhà nghiên cứu về sự phối hợp trực tiếp này để từ đó có thể tác động làm thay đổi nguyên nhân theo hướng có lợi. Tác nhân NN gián tiếp Dịch bệnh Có nhiều nghiên cứu bố trí thí nghiệm để phát hiện nguyên nhân phối hợp gián tiếp hay các yếu tố trung gian giữa tác nhân và dịch bệnh. 4. Nguyên nhân tối thiểu Dịch tễ học quan niệm bất cứ một bệnh nào cũng không phải xảy ra một cách ngẫu nhiên, vô cớ mà phải có những nguyên nhân nhất định của chúng, những nguyên nhân này có thể xác định được. Một thuật ngữ được đề cầp đến đó là “nguyên nhân tối thiểu vừa đủ” khái niệm này đã có từ lâu, thí dụ như: LD50, ID50, CPE50, TCID50, EID50 + Nguyên nhân tối thiểu vừa đủ: vừa mang ý nghĩa của liều đáp ứng, vừa mang ý nghĩa của thời gian đáp ứng, nghĩa là mỗi liều đáp ứng tối thiểu đều ứng với một thời gian đáp ứng tối thiểu nhất định. + Hay nói cách khác sự xuất hiện của một bệnh nào đó là do lượng nguyên nhân quá ngưỡng tác động trong một thời gian nhất định, liều càng cao thì thời gian tác động càng ngắn và ngược lại. III. ĐỊNH ĐỀ KOCK Với quan niệm mới về nguyên nhân đa yếu tố thì khái niệm về bệnh tật chỉ do một tác nhân đơn lẻ gây nên là hoàn toàn không đúng. Chúng ta hãy trở lại một nguyên tắc xác định tác nhân gây bệnh được biết đến là định đề Kock. 1. Định đề Kock Bao gồm 4 điểm sau: Tác nhân phải được tìm thấy trong các trường hợp bệnh. Tác nhân này phải không được tìm thấy ở những trường hợp bệnh khác. Tác nhân này phải có thể gây lại bệnh khi tiêm truyền qua động vật thí nghiệm. Tác nhân này phải tìm lại được từ vật chủ đã được gây bệnh thí nghiệm 2. Nhận xét Định đề Kock cho thấy một tác nhân đơn lẻ có thể gây ra một bệnh riêng. Tuy nhiên với quan niệm mới về bệnh tật, thì định đề Kock chưa đủ và chưa chính xác vì: Có nhiều bệnh truyền nhiễm chúng ta có thể tìm thấy nhiều tác nhân gây bệnh (Tiêu chảy, DTL, CRD, Viêm teo mũi lợn truyền nhiễm ) 12