Bài giảng Vovinam – Việt Võ Đạo

1. Tên học phần: Vovinam – Việt Võ Đạo 
2. Số tiết: 45 tiết (1 tín chỉ) 
3. Phân bố thời gian: 1 tuần 3 tiết, học trong 15 tuần. 
4. Điều kiện tiên quyết: có sức khỏe bình thường. 
5. Mục tiêu của học phần: 
- Trang bị cho sinh viên sự hiểu biết về các nguyên nhân gây chấn thương trong thể thao và cách đề phòng để đảm bảo an toàn trong tập luyện và thi đấu. 
- Sinh viên nhận thức đúng về tôn chỉ, mục đích , ý nghĩa, tác dụng tập luyện Vovinam – Việt võ đạo. 
- Thực hiện được kỹ thuật cơ bản nhập môn  Vovinam – Việt võ đạo. 
-  Thực hiện được kỹ thuật cơ bản nhập môn Vovinam – Việt võ đạo. 
-  Rèn luyện thể lực cho người học. 
6. Mô tả vắn tắt nội dung học phần: 
-  Lý luận chung về chấn thương TDTT và lý thuyết môn Vovinam – Việt võ đạo. 
+ Giúp cho sinh viên hiểu nguồn gốc, sự hình thành và phát triển môn phái Vovinam – Việt võ đạo. 
+ Các nguyên lý cơ bản về võ thuật. 
+ Võ đạo, tâm đức của người học võ và ý nghĩa của sự tôn sư trọng đạo. 
- Hướng dẫn lý thuyết chuyên môn và thực hành kỹ thuật: 
+ Kỹ thuật cơ bản về tấn pháp, thủ pháp và cước pháp. Đòn thế tấn công và tự về. 
+ Quyền pháp, các bài tập bổ trợ thể lực. 

pdf 38 trang Yến Nhi 06/04/2024 1240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Vovinam – Việt Võ Đạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_vovinam_viet_vo_dao.pdf

Nội dung text: Bài giảng Vovinam – Việt Võ Đạo

  1. Trong khoảng gần 15 năm (1940 - 1954), VVN đã đƣợc quảng bá rộng rải ở Hà Nội và lan dần sang các tỉnh Sơn Tây, Nam Định, Thanh Hóa Vào thời kỳ này, tuy chƣơng trình huấn luyện có phân thành 3 cấp: sơ đẳng, trung đẳng và cao đẳng nhƣng không mấy ai học quá 3 năm vì thời cuộc, vì nhu cầu ứng phó cấp thiết, vì đôi lúc thực dân Pháp cấm cản, trừ đội ngũ cốt cán tập luyện bí mật. Các lớp võ công khai thƣờng chỉ kéo dài 3 tháng gồm:bài tập thể dục(10 động tác), luyện tấn, mép tay, bắp tay rắn chắc; bay ngƣời, rạp xuống, trƣờn bằng khuỷu tay và đầu gối; các lối nhào lộn, tập té ngã; các thế phản đòn cơ bản, các thế khóa gỡ; 4 bài song luyện; các thế tự vệ chống kiếm, gậy (côn), mã tấu; 21 đòn chân không dạy riêng lẽ mà ghép trong các bài song luyện. Khi luyện tập, biểu diễn, các môn sinh mặc quần đùi, mình trần. Năm 1945, ông Nguyễn Lộc lập gia đình cùng cô Nguyễn Thị Minh (con của cụ ông Nguyễn Ngọc Hoán và cụ bà Bùi Thị Ngọ) và có 9 ngƣời con (3 trai).Vóc dáng to khỏe (trên 90 kg) và tuy là một võ sƣ nổi tiếng nhƣng trong con ngƣời ông vẫn tuôn chảy một giòng máu nghệ sĩ. Bên bình trà nóng, bao thuốc lá, ông mải mê đàm luận thơ văn, hội họa, nghệ thuật nhiếp ảnh suốt buổi hoặc trọn đêm với bạn bè, môn đệ. Thân mật, hoà đồng, giản dị, ông thích và cho phép các môn đệ gọi mình bằng hai tiếng “anh Lộc” thân tình; đây là điều hiếm thấy trong giới võ lâm. Những học trò sống cạnh ông đều hƣởng những tình cảm đôn hậu và sự chăm lo chu đáo. Tuy vậy, khi bắt tay vào công việc, học tập, ông rất nghiêm túc, cẩn trọng, luôn đặt yêu cầu cao đối với bản thân và cộng sự. Giao lƣu rộng rãi, tính tình hào hiệp, con thiếu sữa vẫn mang gạo tiền giúp đỡ bạn bè gặp cơn bĩ cực, vì thế ông đãđƣợc mọi ngƣời chung quanh quý trọng. Năm 1954, ông Nguyễn Lộc vào Sài Gòn, tổ chức cuộc biểu diễn VVN đầu tiên tại rạp Norodome (nay là Công ty xổ số kiến thiết, đƣờng Lê Duẫn, Tp Hồ Chí Minh), mở lớp võ tại đƣờng Thủ Khoa Huân (Avigateur Garros), Nguyễn Trãi (Frère Louis), Nguyễn Khắc Nhu, và cử môn đệ huấn luyện ở trƣờng Hiến binh Thủ Đức (tỉnh Gia Định), Tp Đà Lạt Trong lúc công việc mới bắt đầu còn đầy khó khăn, ông lại qua đời vào ngày mồng bốn, tháng tƣ, năm Canh Tý (29/4/1960). Hiện di cốt ông đƣợc bảo quản tại số 31 đƣờng Sƣ Vạn Hạnh, Quận 10, Tp Hồ Chí Minh. Ngày 11/11/1960, nhân võ sƣ Phạm Lợi (môn Judo) tham gia cuộc đảo chính do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu, chế độ Sài Gòn đã hạn chế các võ phái hoạt động. Tuy nhiên, một số lớp VVN vẫn tập luyện tại các trƣờng Hồ Vũ, Thăng Long, Saint Thomas do võ sƣ Trần Huy Phong và vài võ sƣ khác hƣớng dẫn. II. GIAI ĐOẠN 1964-1975 Ngày 01/11/1963, nhóm Dƣơng Văn Minh hạ bệ Ngô Đình Diệm. Cùng với các võ phái khác, VVN bắt đầu hồi phục từ đầu năm 1964. Vào thời điểm này, chiếc áo thun ba lổ (may-ô) và quần đùi mà võ sinh đã mặc trong thời kỳ trƣớc đƣợc thay thế bằng bộ võ phục màu xanh da trời nhƣ hiện nay. Sau khi võ đƣờng đầu tiên (tính từ 1964) ra đời tại số 61 đƣờng Vĩnh Viễn, quận 10 (Sài Gòn), võ sƣ chƣởng môn Lê Sáng (sinh năm 1920), võ sƣ Trần Huy Phong (1938 - 1997), võ sƣ Nguyễn Văn Thƣ và một số thành viên khác đã họp để soạn thảo Quy lệ môn phái, vạch ra phƣơng hƣớng củng cố và phát triển môn phái. Dựa trên tƣ tƣởng, kỹ thuật và bài bản của cố võ sƣ 11
  2. Nguyễn Lộc truyền lại, võ sƣ Lê Sáng và một vài võ sƣ cao cấp đã bổ sung, xác lập chƣơng trình giảng huấn võ đạo, huấn luyện võ lực, và võ thuật rõ ràng theo từng đẳng cấp: sơ đẳng (đai xanh, có 3 cấp), trung đẳng (vàng, 3 cấp), cao đẳng (đỏ, 7 cấp) và thƣợng đẳng (trắng, dành riêng cho chƣởng môn). Hệ thống kỹ thuật cũng dần dần có thêm các đòn thế, bài bản mới nhƣ: 30 thế liên hoàn chiến đấu, 28 thế vật căn bản và 3 bài Song đấu vật, Song luyện dao găm, Thập tự quyền, Long hổ quyền, Xà quyền, Lão mai, Ngọc trản, Hạc quyền, Việt võ đạo quyền, Tinh hoa lƣỡng nghi kiếm pháp, Tứ tƣợng côn pháp, Nhật nguyệt đại đao, Thái cực đơn đao, Bát quái song đao, Mộc bản pháp, Thƣơng lê pháp, Song đấu búa rìu, Song đấu mã tấu. Bằng hoạt động năng nổ, sáng tạo của võ sƣ chƣởng môn Lê Sáng và các môn đệ, VVN đã thu hút đƣợc sự chú ý của nhiều giới và các võ đƣờng khác dần dần xuất hiện nhƣ võ đƣờng Trần Hƣng Đạo, Hoa Lƣ Năm 1966, VVN đƣợc đƣa vào trƣờng học mà công đầu là của võ sƣ Phùng Mạnh Chữ tự Mạnh Hoàng (1938 - 1967). Cũng từ năm này, danh xƣng Vovinam bổ sung thành Vovinam-Việt võ đạo để thanh, thiếu niên chú trọng đến tinh thần dân tộc khi luyện võ hầu phấn đấu rèn luyện bản thân cả 3 phƣơng diện: Tâm, Trí, Thể, nhằm phục vụ cho dân tộc và nhân loại. Nhiều trƣờng công lập và tƣ thục lớn tại Sài Gòn lúc bấy giờ nhƣ Pétrus-Ký (nay là Lê Hồng Phong), Gia Long (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), Chu Văn An, Cao Thắng, Hƣng Đạo, Don Bosco, Phan Sào Nam, Đức Trí, Taberd, Quốc Việt đều có lớp tập chính khóa hoặc ngoại khóa do các võ sƣ Lê Công Danh, Trần Văn Bé, Trần Văn Trung, Nguyễn Văn Thông phụ trách góp phần tạo nên một phong trào rèn luyện sức khỏe sôi nổi và rộng lớn. Công tác đào tạo đội ngủ cốt cán, nghiên cứu, biên soạn hệ thống lý luận, kiến thức VVN-VVĐ cũng đƣợc quan tâm. Nhiều sách, đặc san của môn phái do Ban nghiên cứu Vovinam - Việt võ đạo biên soạn đã đƣợc xuất bản trong giai đoạn này nhƣ: Việt võ đạo nhập môn, Việt võ đạo cƣơng yếu, Tinh hoa Việt võ đạo Năm 1968, võ đƣờng 61 Vĩnh Viễn dời đến số 31 Trần Hoàng Quân (nay là 31 Sƣ Vạn Hạnh, quận 10, Tp HCM) và là trung tâm điều hành tất cả hoạt động của môn phái. Sau mấy năm vƣợt qua thử thách và đạt nhiều thành quả tốt đẹp, VVN đƣợc một số ban ngành mời giảng dạy. Đƣợc học tập các lớp đặc huấn (đào tạo HLV) và qua rèn luyện trong thực tiễn, hàng loạt võ sƣ, HLV đƣợc tung đi các tỉnh, thành phố ở miền Nam để xây dựng và phát triển phong trào nhƣ: Trịnh Ngọc Minh (Nha Trang), Trần Tấn Vũ (Phú Yên), Ngô Kim Tuyền (Bình Dƣơng), Nguyễn Văn Chiếu (Quy Nhơn), Nguyễn Văn Nhàn, Nguyễn Văn Sen (Cần Thơ),Trần Văn Mỹ (Hậu Nghĩa), Dƣơng Minh Nhơn (Kiên Giang), Nguyễn Tôn Khoa (An Giang), Nguyễn Văn Vang (Vĩnh Long), Nguyễn Văn Ít (Mỹ Tho) Hằng năm, vào dịp Lễ tƣởng niệm cố võ sƣ sáng tổ, các trƣởng đơn vị đều tập trung về Sài Gòn dự lễ, tập huấn, thi cử, tạo thành truyền thống tốt đẹp. Võ sƣ chƣởng môn Lê Sáng và một số võ sƣ cao cấp cũng thƣờng xuyên đi thăm hỏi, chấm thi ở nhiều nơi để hỗ trợ, động viên phong trào. Bên cạnh việc quãng bá võ thuật, VVN-VVĐ còn tham gia một số công tác xã hội Có thể nói, đây là giai đoạn môn phái trƣởng thành về nhiều mặt, võ đƣờng mọc lên hầu hết các tỉnh phía Nam; và theo chân các du học sinh nhƣ :Trần Nguyên Đạo, Nguyễn Thị Huệ, Trần Đại Chiêu, Dƣơng Quan Việt, Hà Chí Thành để xuất hiện ở Pháp, Ý, Đức, Thụy Sĩ vào đầu thập niên 70. Ngƣời có công dựng cột mốc đầu tiên để phát triển VVN-VVĐ ra quốc tế (1973)là giáo sƣ Phan Hoàng. III. GIAI ĐOẠN 1976-2002 12
  3. Khoảng gần một năm sau ngày thống nhất đất nƣớc, võ sƣ Nguyễn Văn Chiếu đã tập hợp một số võ sƣ, HLV về Quận 8, Tp Hồ Chí Minh (Tp HCM) ôn luyện; sau đó biểu diễn tại đây và vài nơi khác nhƣ quận 3, huyện Bình Chánh. Ngày 15/12/1978, đƣợc sự chấp thuận của Sở Thể dục Thể thao (TDTT) Tp HCM và Ủy ban nhân dân quận 8, lớp VVN-VVĐ chính thức khai giảng tại tụ điểm hồ bơi Hòa Bình (đƣờng Chánh Hƣng - Quận 8) do võ sƣ Nguyễn Văn Chiếu, Nguyễn Văn Ký, Đỗ Văn Phƣớc hƣớng dẫn, mở đầu quá trình khôi phục phong trào trong thành phố. Từ thời điểm này đến đầu những năm 80, các võ sƣ ở một số tỉnh, thành khác nhƣ: Nguyễn Hữu Hạnh (Cần Thơ), Nguyễn Bá Thuận (Nha Trang), Đinh Văn Hòa (Bình Định) cũng xin phép ngành TDTT địa phƣơng mở lớp huấn luyện. Tháng 6/1980, VVN-VVĐ tham dự đợt Hội thao võ thuật do Viện Khoa học Giáo dục và Trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm TD trung ƣơng 2 tổ chức tại Tp HCM. Năm 1985, VVN-VVĐ đƣợc mời huấn luyện cho Lớp Nghiên cứu võ thuật phía Nam (khóa tập trung 4 tháng) của Cục Cảnh vệ (Bộ Nội vụ nay là Bộ Công an). Một sự kiện đáng chú ý ở cuối thập niên 80 là Hội Việt võ đạo Tp HCM đƣợc thành lập (1989) vì có ảnh hƣởng đến công tác chuyên môn, nhân sự lẫn sự quan tâm của các tỉnh, thành khác đối với bộ môn. Trƣớc sự hồi phục của phong trào và những cố gắng thể thao hóa bộ môn của võ sƣ Trần Huy Phong, Nguyễn Văn Chiếu VVN-VVĐ đã đƣợc Tổng cục TDTT (nay là Ủy ban TDTT) đƣa vào chƣơng trình Hội diễn kỹ thuật khu vực 3 (1990). Đến tháng 9 năm này, 4 võ sƣ : Nguyễn Văn Chiếu, Nguyễn Anh Dũng, Lê Thanh Liêm, Tô Mạnh Hòa đƣợc mời sang biểu diễn tại Belarussia và cử võ sƣ lƣu lại huấn luyện. Nhằm tạo điều kiện cho VVN-VVĐ phát triển, ngành TDTT các địa phƣơng đã tiến hành giải thi đấu cấp tỉnh, thành; sau đó Tổng cục TDTT đã cho tổ chức giải vô địch toàn quốc (VĐTQ) lần đầu tiên từ 4 – 6/12 /1992 tại Tp HCM, quy tụ 178 võ sĩ của nhiều tỉnh, thành, tranh tài 2 nội dung: hội thi kỹ thuật và đấu đối kháng. Vài năm sau, các địa phƣơng còn có thêm giải Thiếu niên, Trẻ, Hội khỏe Phù Đổng, khu vực Để thống nhất việc quản lý và chỉ đạo chuyên môn, tháng 4/1994 Tổng cục TDTT thành lập Ban điều hành lâm thời VVN-VVĐ Việt Nam. Hằng năm, Ban điều hành đều tổ chức các Hội nghị chuyên môn toàn quốc (ôn luyện kỹ thuật, từng bƣớc hoàn chỉnh luật thi đấu đối kháng, luật hội diễn, nghiệp vụ Trọng tài, biên soạn sách kỹ thuật ), thi thăng cấp cao đẳng Chuyến biểu diễn thành công vang dội của VVN-VVĐ tại Lễ hội Văn hóa - Thể thao truyền thống thế giới lần thứ 2 (52 quốc gia tham dự) tổ chức ở Thái Lan vào tháng 12 năm 1996 đã thu hút thêm sự chú ý của những ngƣời yêu thích võ thuật dân tộc. Đến giải VĐTQ lần thứ 6 (27 - 30/12/1997), với 215 VĐV thuộc 12 tỉnh, thành và 2 ngành (Quân Đội, Thể thao Đại học) tham dự, VVN-VVĐ Việt Nam đã đƣợc khẳng định trong sự nghiệp thể thao của nƣớc nhà qua việc Ủy ban TDTT phong cấp cho các VĐV đoạt huy chƣơng. Nhằm mở rộng địa bàn, 3 lớp tập huấn Hƣớng dẫn viên dành cho các tỉnh phía Bắc lần lƣợt tiến hành tại Thanh Hóa (1998), Hà Tây (2000) và Quảng Bình (2001) đã tạo điều kiện cho khu vực này xây dựng bộ môn và từng bƣớc hòa nhập vào phong trào chung Đặc biệt, nhân dịp chào mừng 300 năm Sài Gòn - Tp Hồ Chí Minh và kỷ niệm 60 năm thành lập môn phái, Hội VVĐ Tp HCM đã phát hành huy hiệu lƣu niệm và phối hợp cùng Liên đoàn Võ thuật Tp HCM tổ chức Hội diễn VVN-VVĐ quốc tế lần thứ 1 vào ngày 20/7/1998 tại Nhà thi đấu Phan Đình Phùng, Quận 3, với sự góp mặt của 4 quốc gia: Việt Nam, Pháp, Ý, Tây Ban Nha. Cuộc Hội diễn quốc tế này đã trở thành giải truyền thống hằng năm với sự tham gia của các nƣớc ngày một đông hơn. Hai đài truyền hình của 13
  4. CHLB Đức và Thể thao châu Á cũng đến Việt Nam làm phim về hoạt động của VVN- VVĐ và các võ sĩ Nguyễn Hồng Quỳ, Phạm Thị Phƣợng (Tp HCM), Nguyễn Văn Phúc (Cần Thơ) vào năm 1999. Võ sƣ Patrick Levet (Tây Ban Nha) cũng xuất bản 1 quyển sách, 2 băng vidéo về kỹ thuật VVN Nhìn chung, sau gần 30 năm trải qua không ít gập ghềnh, đƣợc sự quan tâm của ngành TDTT các cấp, sự cố vấn, hỗ trợ của võ sƣ chƣởng môn và lòng tận tụy hy sinh của tất cả võ sƣ, HLV và môn sinh; hiện nay VVN-VVĐ thu hút khoảng 30.000 môn sinh thƣờng xuyên luyện tập tại hầu hết các tỉnh phía Nam và một số tỉnh ở phía Bắc nhƣ :Quảng Bình, Thanh Hóa, Hà Nội, Hòa Bình, Lai Châu, Yên Bái, Lạng Sơn, Phú Thọ, Hà Tây Hoạt động của môn phái tại Việt Nam đang đi dần vào nề nếp; nhiều tỉnh, thành có tổ chức Hội, chất lƣợng chuyên môn có phần tăng tiến. Một số đơn vị phát triển phong trào khá mạnh là: Tp HCM, Khánh Hòa, Cần Thơ, Đồng Nai, Vĩnh Long Về quan hệ quốc tế, VVN-VVĐ Việt Nam từng biểu diễn tại các Lễ hội võ thuật truyền thống khu vực và thế giới ở Thái Lan, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản và đƣợc nhiệt liệt hoan nghênh. Nhiều nƣớc đã mở lớp tập VVN-VVĐ nhƣ : Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan, Mỹ, Morocco, Úc, Canada, Nga, Belarussia, Ucraina, Rumania, Ba Lan, Tunysie, Anh, Péru Hằng năm, một vài quốc gia nhƣ Pháp, Ý, Thụy Sĩ tổ chức giải thi đấu quốc tế với sự hiện diện của võ sĩ các nƣớc lân cận. Trên tinh thần”uống nƣớc nhớ nguồn”, nhiều môn sinh nƣớc ngoài đã về đất tổ viếng cố võ sƣ sáng tổ, chào võ sƣ chƣởng môn, tập huấn kỹ thuật, thi thăng cấp, và biểu diễn tại Tp HCM, Nha Trang, Cần Thơ, Hà Nội Với thành quả bƣớc đầu nêu trên, VVN-VVĐ Việt Nam đã đƣợc Ủy ban TDTT đƣa vào nội dung thi đấu chính thức tại Đại hội TDTT toàn quốc năm 2002. Về kỹ thuật, thực hiện phƣơng châm “một phát triển thành ba” nghĩa là từ đòn căn bản (1) ghép lại thành bài đơn luyện (2) và bài song luyện (3) nhằm giúp ngƣời tập dễ nhớ, dễ thuần thục nhờ thƣờng xuyên ôn đi ôn lại, VVN-VVĐ có thêm một số bài quyền và binh khí nhƣ: Nhập môn quyền, Tứ trụ quyền, Ngũ môn quyền, Viên phƣơng quyền, Thập thế bát thức quyền, 4 bài Nhu khí công quyền (dƣỡng sinh), 4 bài liên hoàn đối luyện (dành cho ngƣời cao tuổi), Song đấu côn, Song dao pháp, Trấn môn quyền, Việt điểu kiếm pháp, Tiên long song gƣơm pháp, Mã tấu pháp, Thất tinh kiếm pháp, Âm dƣơng hồ điệp phiến Hệ thống đẳng cấp có thêm đai màu đen (sau Lam đai tam cấp) - chuyển tiếp giữa sơ đẳng và trung đẳng dùng để so sánh với đai đẳng của các môn võ khác (Karatédo, Taekwondo, Judo, Aikido). * * * 70 năm đã trôi qua, vƣợt qua những bƣớc thăng trầm, từ một môn phái manh nha tại Hà Nội, VVN-VVĐ đang lớn mạnh và mở rộng đến nhiều nơi. Đó là cả một quá trình chung vai đấu cật của nhiều thế hệ võ sƣ, HLV, môn sinh theo bƣớc chân mở đƣờng của cố võ sƣ sáng tổ. 14
  5. Thời gian trên là chặng đƣờng rất ngắn so với lịch sử xã hội nhƣng VVN-VVĐ đã có những đóng góp nhất định vào phong trào TDTT của đất nƣớc và thế giới. Tuy nhiên, để có thể sớm sánh vai cùng các môn võ quốc tế khác, môn phái cần nghiêm khắc nhìn lại các hạn chế của mình. Về đại thể, tất cả võ sƣ và HLV nên đoàn kết, thống nhất tƣ tƣởng, ý chí và hành độngï, nhằm góp phần đào tạo những thanh thiếu niên có lòng yêu nƣớc, tri thức, sức khỏe, đức dũng, lòng nhân, tinh thần hào hiệp và nếp sống văn minh, lành mạnh. Trong quá trình thể thao hóa môn võ, cần tích cực và khẩn trƣơng đào tạo đội ngũ HLV, Trọng tài; chú trọng giáo dục tinh thần thƣợng võ; tinh giản chƣơng trình huấn luyện; biên soạn sách kỹ thuật; tu chính luật thi đấu đối kháng và hội thi kỹ thuật; chấn chỉnh kỷ cƣơng, xây dựng phong cách làm việc dân chủ, khoa học Đó là những yếu tố căn bản và rất quan trọng để tiến đến thành lập Hiệp hội VVN-VVĐ Việt Nam và Liên đoàn VVN-VVĐ quốc tế đặt trụ sở tại đất tổ trong tƣơng lai. Từng môn sinh có quyền tự hào về những thành quả môn phái đã giành đƣợc nhƣng không mãi mê với “ánh hào quang” mà phải nghiêm túc tự soi rọi lại các ƣu, khuyết điểm của bản thân để tiếp tục tu dƣỡng đạo đức, rèn luyện chuyên môn, khiêm tốn, không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức về mọi mặt; yêu thƣơng, giúp đỡ, tôn trọng, hòa hợp cùng đồng môn nhƣng mạnh dạn đấu tranh với những sai trái hầu đƣa môn phái vững vàng tiến bƣớc trong thế kỷ 21 cũng nhƣ thực hiện ngày một tốt hơn lời dạy của cố võ sƣ sáng tổ: phục vụ dân tộc và nhân loại. BÀI 2: ĐÔI NÉT VỀ VÕ SƢ CHƢỞNG MÔN LÊ SÁNG Nguyên quán ở tỉnh Thanh Hóa, võ sƣ Lê Sáng chào đời vào mùa thu năm 1920 tại căn nhà bên bờ hồ Trúc Bạch ( Hà Nội). Ông là trƣởng nam của cụ ông Lê Văn Hiển tự Đức Quang (1887-1959) và cụ bà Nguyễn Thị Mùi (1887-1993). Hai ngƣời em gái của võ sƣ là Lê Thị Xuất và Lê Thị Hƣơng. Vào năm 1939, sau một cơn bạo bệnh nên đôi chân đi đứng khó khăn, nghe theo lời khuyên của mẹ, võ sƣ Lê Sáng đã tìm thầy học võ với mục đích rèn luyện cho đôi chân cứng cáp và thân thể khỏe mạnh. Duyên may đƣa đẩy ông đến với lớp Vovinam tại trƣờng Sƣ phạm(Ecole Normale) Hà Nội do cố võ sƣ sáng tổ Nguyễn Lộc trực tiếp giảng dạy vào mùa xuân năm 1940. Có tố chất, thông minh, chịu khó học hỏi và chuyên cần luyện tập, ông sớm cải thiện tình trạng sức khỏe và tiến bộ nhanh trên bƣớc đƣờng võ nghệ. Chỉ vài năm sau, ông đƣợc võ sƣ sáng tổ cho tham gia huấn luyện tại Hà Nội. Từ đó, ông luôn gắn bó với võ sƣ sáng tổ nhƣ anh em ruột thịt, cùng đồng lao cộng khổ và từng theo chân võ sƣ sáng tổ đi dạy Vovinam ở nhiều nơi nhƣ : huyện Thạch Thất (tỉnh Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Hà Tây); tỉnh Phú Thọ; Chuế Lƣu, Đan Hà, Đan Phú (tỉnh Yên Bái); Me Đồi (tỉnh Vĩnh Yên) Tháng 7 năm 1954, ông cùng võ sƣ sáng tổ vào Sài Gòn. Tại đây, ông đƣợc phân công mở các lớp Vovinam ở đƣờng Avigateur Garros (nay là đƣờng Thủ Khoa Huân), Hiến 15
  6. binh QG Sài Gòn và Trung tâm Huấn luyện Hiến Binh ở Thủ Đức. Đến năm Đinh Dậu (1957), võ sƣ sáng tổ lâm bệnh, ông thay ngƣời tiếp tục huấn luyện cho các môn sinh cao đẳng, đồng thời mở thêm võ đƣờng ở đƣờng Trần Khánh Dƣ (Tân Định), Sƣ Vạn Hạnh (sát chùa Ấn Quang), Moulin Rouge (đƣờng Trần Hƣng Đạo) Tháng 4 năm 1960, trƣớc lúc qua đời, võ sƣ sáng tổ đã giao nhiệm vụ chƣởng môn lại cho ông. Do tình hình thời sự, những năm đầu thập niên 60, võ sƣ Lê Sáng phải lên tận Buôn Mê Thuộc làm ăn và mãi đến cuối năm 1963, khi các võ phái ở Sài Gòn đƣợc phép hoạt động trở lại, ông mới quay về, bắt tay vào việc củng cố lực lƣợng, định hƣớng khôi phục và phát triển môn phái. Là môn đệ trƣởng tràng, sát cánh cùng võ sƣ sáng tổ khoảng 20 năm trƣờng, võ sƣ Lê Sáng đã tiếp thu những tƣ tƣởng võ đạo và võ thuật của sáng tổ một cách sâu sắt nhất. Trên cơ sở đó, với cƣơng vị chƣởng môn và bằng uy tín cá nhân, ông đã quy tụ nhiều cộng sự (võ sƣ, thân hữu ) tâm huyết và đã lãnh đạo môn phái vƣơn lên thật mạnh mẽ - Vovinam có mặt hầu hết tại các tỉnh miền Nam và lan rộng sang một số nƣớc ở châu Âu - trong thời gian từ đầu năm 1964 đến đầu năm 1975. Những năm đầu khôi phục môn phái, dù cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, nhƣng song song với chỉ đạo phong trào, mỗi ngày ông vẫn trực tiếp huấn luyện hàng 10 giờ cho nhiều đối tƣợng khác nhau; vậy mà đêm đêm vẫn còn chong đèn viết sách để hệ thống lại những tƣ tƣởng võ học của sáng tổ; và qua kinh nghiệm thực tiễn của mình, ông đã bổ sung vào chƣơng trình huấn luyện nhiều đòn thế mới. Bên cạnh đó, ông còn đƣợc bầu làm Tổng thƣ ký Tổng cuộc Quyền thuật miền Nam Việt Nam và Thủ quỹ Ủy ban Olympic miền Nam Việt Nam trong nhiều năm. Từ cuối thập kỷ 80 đến nay, là ngƣời lãnh đạo tinh thần của Vovinam-Việt Võ Đạo, với chủ trƣơng Thuận thiên – Hòa nhân, võ sƣ chƣởng môn Lê Sáng luôn hƣớng dẫn và hỗ trợ những hoạt động chuyên môn của môn phái ở các nơi, trực tiếp khảo thí các môn sinh cao đẳng; đồng thời tiếp tục nghiên cứu để phát triển hệ thống lý luận và hệ thống kỹ thuật của môn phái phù hợp với xu thế của thời đại. Chẳng những giỏi võ, có khả năng kinh doanh - từng là chủ tiệm đóng giày Phi Điệp (1950-1954), chủ nhà in và nhà xuất bản Nguồn Sống (1953-1954) ở Hà Nội - và năng lực lãnh đạo tốt, võ sƣ chƣởng môn Lê Sáng còn là một con ngƣời tài hoa. Bằng những nét chữ bay bƣớm, đẹp mắt và rõ ràng, ông thƣờng sáng tác nhiều bài thơ , mang cảm xúc sâu lắng và tinh thần thƣợng võ. Một số bài thơ của ông đã đƣợc phổ nhạc. Trong đời thƣờng, ông sống ung dung, giản dị, thƣờng giúp đỡ bạn bè và cƣ xử chân tình với những ngƣời chung quanh. Đối với môn đệ, ông chí tình dạy bảo, thƣơng yêu và dung thứ. Những lúc cha mẹ ốm đau, ông luôn cận kề và chăm lo chu đáo. Sống đơn thân, không nặng gánh gia đình, thích đọc sách báo, thấm nhuần triết lý phƣơng Đông, và cũng là ngƣời môn đệ xuất sắc nhất của cố võ sƣ sáng tổ Nguyễn Lộc; bằng tài năng và đạo đức của mình, võ sƣ chƣởng môn Lê Sáng đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho công cuộc xây dựng và phát triển môn phái Vovinam-Việt Võ Đạo. 16
  7. BÀI 3: ĐỨC DŨNG VÀ LÒNG NHÂN (BÀN TAY THÉP ĐẶT TRÊN TRÁI TIM TRÁI ÁI) Trên phù hiệu môn phái Vovinam-Việt Võ Đạo (VVN), chúng ta thấy có hai hình biểu tƣợng, hình dáng giống nhau nhƣng khác nhau về màu sắc (xanh, đỏ) đƣợc trình bày với hai vị thế trái ngƣợc, tƣợng trƣng cho hai nguyên lý Âm Dƣơng. Hai hình biểu tƣợng này đƣợc bao quanh bởi một vòng tròn (trắng), tƣợng trƣng cho Đạo thể chỉ sự khắc chế, điều hòa, bao dung, nên đã kết hợp với nhau thành một tổng thể hài hoà. DƢƠNG TỐ: Biểu tƣợng cho sự cứng mạnh - đức dũng cảm - bàn tay thép. ÂM TỐ: Biểu tƣợng cho sự mềm dịu - lòng nhân - trái tim từ ái. VÒNG ĐẠO THỂ: Biểu tƣợng cho sự khắc chế, điều hòa, bao dung - trí tuệ linh mẫn - điều hợp hai nguyên lý âm dƣơng. Trong nhiều giai đoạn, đức dũng và lòng nhân đƣợc diễn tả là hai khả năng đối nghịch trong một tổng thể hài hòa có tác dụng tích cực để giải quyết những vấn đề phát sinh từ cuộc sống. Ngƣời học võ muốn đạt mức tinh diệu, phối hợp đƣợc Cƣơng, Nhu (Âm, Dƣơng) phải rèn luyện và hàm dƣỡng Tâm và Thân, cả võ thuật lẫn võ đạo. Nếu chỉ có Dũng mà thiếu Nhân sẽ tàn bạo, độc ác. Nếu chỉ có Nhân mà thiếu Dũng sẽ yếu hèn, nhu nhƣợc. Do vậy, đức Dũng phải có lòng Nhân đi cùng; Dũng và Nhân phải có Trí phối triển, điều hoà mới sinh tạo và tƣởng triển. Mọi mâu thuẫn trong tƣơng lai sẽ đƣợc giải quyết theo hƣớng xây dựng của Ta - Ngƣời cùng tồn tại. Dũng cảm khác can đảm, ngƣời can đảm không sợ nguy hiểm, khi nộ khí bốc lên có thể liều mạng sống, nhƣng ngƣời dũng cảm khác hơn, phải có ý thức để sự nóng giận đạt tới một mục đích nào đó có một tầm vóc nhất định. Dũng cảm đƣợc phân thành hai cấp: THƢỜNG DŨNG VÀ ĐẠI DŨNG Trong đời sống chúng ta thƣờng gặp những hành động biểu lộ về đức dũng: Ngƣời chiến sĩ vƣợt qua những trở ngại, thử thách cam go để hoàn thành nhiệm vụ, ngƣời con cố gắng khắc phục mọi khó khăn để phụng dƣỡng cha mẹ già yếu, bệnh hoạn; ngƣời cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, vƣợt qua mọi cạm bẫy mua chuộc để chu toàn trách vụ. Tất cả đều biểu hiện lòng can đảm, sức chịu đựng, tận tuỵ với nghĩa vụ, đƣợc gọi là đức dũng. Nhƣng dũng có hai mức cao thấp khác nhau là Thƣờng Dũng và Đại Dũng. Thƣờng dũng là dũng nhất thời đƣợc biểu hiện trong cử chỉ, thái độ và hành động chống đối, không chịu khuất phục của con ngƣời khi gặp những điều sai trái. Ơ những việc đơn giản, đức dũng dễ nhận thấy, thƣờng gặp trong đời sống, nên ta gọi Thƣờng Dũng - cái “Dũng” bình thƣờng, thông thƣờng dễ thấy, dễ nhận. Thƣờng dũng là cái 17